← Quay lại trang sách

Chương 19 VÙNG NÚI LUBÉRON, PHÁP-

LÚC GABRIEL VƯỢT qua giới hạn bên ngoài của những ánh đèn, ông có thể trông thấy Keller xuất kích mạnh và nhanh qua khu vườn. Gã người Anh tới cánh cửa kiểu Pháp đang mở trước tiên, rồi chiếm giữ một vị trí dọc theo hông trái. Gabriel đi về bên phải và nhìn sơ qua gã đàn ông vài giây trước đó vừa bước ra vườn để hít thở không khí trong lành, chẳng cần kiểm tra lại nhịp tim; phát đạn cỡ 45 li do khẩu súng của Keller bắn ra đã xuyên vào hộp sọ thật sạch sẽ rồi văng ra ngoài bê bết máu. Gã đàn ông không hề hay biết cái gì đã nhắm trúng vào hắn và có lẽ đã chết trước khi ngã xuống. Đó là cách từ giã cõi đời này thật tử tế, Gabriel thầm nghĩ. Đối với một tên tội phạm. Với một người lính. Với bất cứ ai.

Gabriel nhìn Keller. Tư thế của hai người giống hệt nhau: một vai tựa vào vách ngoài biệt thự, hai bàn tay đặt trên khẩu súng, nòng chĩa xuống đất. Vài giây sau sát thủ gật đầu một cái nhanh gọn. Rồi nâng khẩu HK lên ngang tầm mắt, y lẳng lặng xoay mình lọt vào bên trong. Gabriel theo sau và khống chế bên phải căn phòng, trong khi Keller đảm nhiệm bên trái, chẳng có một chuyển động và âm thanh nào khác ngoài cái ti vi, trên màn ảnh Jimmy Stewart đang lôi Kim Novak lên từ dưới nước ở Vịnh San Francisco. Căn phòng bốc mùi thức ăn ôi thiu, thuốc lá cũ mốc và rượu vang bị đổ ra ngoài. Những cái hộp trống không bằng bìa cứng vứt bừa bãi trên mọi mặt bàn, mặt ghế. Một tháng ở vùng Provence, Gabriel nghĩ bụng, bọn vô lại Marseilles thay đổi cách ăn ở rồi.

Keller nhích tới trước qua ánh sáng nhấp nháy của cái ti vi, khẩu HK giơ ra, quét lui quét tới một vòng cung chín mươi độ. Gabriel lượn qua lượn lại cách nửa bước ở đằng sau, khẩu súng của ông chĩa thẳng về phía đối diện nhưng cũng di động một vòng cung y như vậy. Họ đến một lối đi có mái vòm ngăn cách phòng khách và phòng ăn. Gabriel xoay mình lẻn vào bên trong, lia súng về mọi hướng rồi xoay mình lẻn ra bên cạnh Keller, ở lối vào nhà bếp, ông lanh lẹ lặp lại động tác ấy. Cả hai gian phòng đều không có người, nhưng cả hai phòng đều có những đĩa bàn và những bộ đồ ăn lấm lem bụi đất được chất thành đống cao. Nơi này quá bừa bộn dơ bẩn, khiến gáy của Gabriel nóng bừng lên vì tức giận. Cứ theo quy luật thì bọn bắt cóc ăn ở bẩn như heo này chẳng đối xử tử tế với con tin.

Cuối cùng họ vào gian tiền sảnh. Đó là một nơi trong biệt thự còn giống đôi chút với những tấm hình Gabriel từng xem ở văn phòng Bất Động sản vùng Lubéron. Cánh cửa bằng thứ gỗ nặng có những đầu đinh lồi bằng sắt. Một cái bàn nhỏ dùng để trang trí. Có hai lối đi cầu thang được lót đá vôi. Một là dùng để dẫn lên tầng hai của ngôi nhà. Một là đường để dẫn xuống tầng hầm. Cả hai đều rất tối tăm.

Keller chiếm một vị trí ở khoảng giữa hai cánh cửa trong khi Gabriel lôi trong túi ra một đèn pin Maglite. Ông tắt đèn rồi lần mò bước xuống vùng lờ mờ tối, chầm chậm, một bước, hai bước, ba bước, bốn. Nửa đường đi xuống, ông nghe có tiếng từ phía trên, những bước chân rón rén nhanh chóng. Rồi vọng tới hai tiếng khục mờ đục, âm thanh của một khẩu HK45 li có hãm thanh bắn thật nhanh hai phát liên tiếp.

Ai đó đã đi xuống cầu thang.

Ai đó đã đâm sầm vào gã đàn ông từng ghi được tổng số điểm cao nhất chưa ai từng ghi được trong nhà sát thương ở Hereford.

Ai đó đã chết.

Gabriel bật đèn pin lên và nhanh chân bước xuống mỗi lần hai bậc thang.

Dưới chân cầu thang là một tiền phòng có sàn lát gạch vuông và ba vách tường đều có cửa. Phòng kho của chủ nhà ở bên trái. Bắt những chùm tia sáng của đèn pin, cái ống khóa móc lấp lánh với độ chiếu sáng cho thấy nó ở đó chưa được bao lâu. Gabriel cởi phăng cái ba lô, lấy ra cái kềm cộng lực và kẹp hai gọng kềm quanh khoen móc. Chỉ cần sức ép gần hai kilogram cũng đủ làm cho ống khóa rớt cạch xuống sàn. Ông kéo chốt cửa về một bên... rồi đẩy cho cửa mở ra. Mùi hương xộc vào mũi ông ngay tức khắc. Nặng mùi và gây buồn nôn. Mùi da thịt của một người bị cầm tù. Ông rọi đèn pin quanh khắp bên trong. Một cái giường nhỏ. Cặp còng tay. Một mũ trùm đầu. Một cái xô để đi vệ sinh. Vật dụng để bóp nghẹt tiếng la hét.

Nhưng Madeline đã đi mất.

Phía trên cầu thang lại có hai tiếng khục mờ đục từ họng súng của người Anh.

Sau đó là hai tiếng nữa.

Cái xác đầu tiên ở tiền sảnh dưới chân cầu thang lên tầng hai. Đó là một tên trong đám canh gác chưa hề chường mặt ra bên ngoài biệt thự. Giờ đây nhờ hai phát đạn từ khẩu súng mũi tông hốc cỡ 45 li, nó còn lại rất ít. Cũng đúng như vậy với René Brossard bị hạ đo ván kế bên gã, trong bàn tay vô hồn vẫn còn cấm một khẩu súng. Ả đàn bà đang ở đầu cầu thang tầng hai. Gã người Anh không muốn bắn ả nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác; ả đang chĩa súng vào y, và mọi dấu hiệu đều cho thấy ả định nổ súng. Dù vậy y đã chừa lại gương mặt cho ả và bắn hai phát vào phần bán thân phía trên. Nhờ vậy, ả là đứa duy nhất trong ba đứa vẫn còn sống. Gabriel quỳ xuống một bên và cầm tay ả. Ông thấy nó đã lạnh ngắt.

“Tôi sẽ chết sao?” ả hỏi ông.

“Không đâu,” ông siết nhẹ bàn tay, “cô sẽ không chết đâu.”

“Cứu tôi với!” ả nói. “Làm ơn cứu tôi!”

“Tôi sẽ cứu,” Gabriel đáp. “Nhưng cô cũng phải giúp tôi. Cô phải cho tôi biết có thể tìm thấy cô gái đó ở đâu.”

“Cô ta không có ở đây.”

“Vậy đang ở đâu?”

Ả đàn bà cố nói ra nhưng không được.

“Cô ta ở đâu?” Gabriel lặp lại.

“Tôi thề mình không biết.” Ả rùng mình. Cặp mắt lạc hẳn đi. Ả thều thào, “Làm ơn đi, ông phải cứu tôi.”

“Cô ta ở đây lần cuối cùng là lúc nào?”

“Cách đây hai ngày. Không phải, ba ngày.”

“Là ngày mấy?”

“Tôi không nhớ nổi. Xin làm ơn, làm ơn đi, ông phải...”

“Trước hay sau khi cô và Brossard đi Aix?”

“Làm sao ông biết chúng tôi đi Aix?”

“Trả lời đi!” Gabriel bóp tay ả một lần nữa. “Trước hay sau?”

“Ngay đêm hôm ấy.”

“Ai đưa cô ta đi?”

“Paul.”

“Chỉ có Paul thôi sao?”

“Đúng.”

“Hắn đưa cô ta đi đâu?”

“Đến ngôi nhà an toàn.”

“Hắn gọi nó như vậy sao? Nhà an toàn à?”

“Đúng.”

“Nó ở đâu?”

“Tôi không biết.”

“Nói cho tôi biết đi!” ông lặp lại.

“Paul chẳng bao giờ cho bọn tôi biết nó ở đâu. Ông ấy gọi đấy là an ninh điệp vụ.”

“Hắn nói đích xác vậy sao? An ninh điệp vụ?”

Ả gật đầu.

“Có bao nhiêu nhà an toàn?”

“Tôi không biết.”

“Hai? Hay ba?”

“Paul chẳng bao giờ cho bọn tôi biết điều ấy.”

“Cô ta ở đây bao lâu rồi?”

“Ngay từ đầu,” ả đàn bà đáp.

Rồi sau đó ả tắt thở.

Họ đặt bốn cái xác trên sàn phòng kho rồi phủ vải trắng sạch lên trên. Không cần làm gì với những vết máu trong nhà, nhưng ở bên ngoài Gabriel nhanh chóng dùng vòi nước dội những phiến đá lát vườn để xóa đi chứng cứ về những gì đã xảy ra ở đó. Ông ước tính hai người còn ít nhất bốn mươi tám giờ nữa, rồi người đàn bà ở Bất Động sản Lubéron mới tới để lấy lại chùm chìa khóa từ các khách trọ sắp rời đi và giám sát việc tổng vệ sinh. Sau khi phát hiện các vết máu, cô ta sẽ lập tức gọi cho hiến binh Pháp, và đến lượt mình họ sẽ phát hiện bốn cái xác trong phòng kho dành riêng cho chủ nhà - một phòng kho đã được dọn sạch mọi thứ trong đó và chuyển thành một xà lim giam một nạn nhân bị bắt cóc. Bốn mươi tám tiếng, Gabriel thầm nghĩ, có lẽ lâu hơn một chút nữa, nhưng không lâu lắm.

Trời bắt đầu sáng rõ khi họ đi bộ ra khỏi thung lũng và trở về chỗ đã để lại chiếc xe máy và chiếc Renault của Keller. Gabriel tạm dừng để nhìn lại một lần cuối; chỉ có bóng dáng một người làm thuê di chuyển qua vườn nho, ngoài ra chẳng có hoạt động nào dưới thung lũng cả. Họ nhét hai ba lô vào cốp xe hơi, rồi mỗi người lái một xe tới thị trấn Buoux, ở đó họ dừng lại để dùng bánh mì hoa cúc và cà phê kem trong một quán café đẩy những người dân địa phương mặt ửng đỏ. Mùi bánh mì mới ra lò khiến Gabriel cảm thấy hơi khó chịu, ông gọi điện cho Graham Seymour ở London, và dùng mật ngữ để báo cáo điệp vụ đã thất bại, rằng Madeline từng ở trong biệt thự đó nhưng đã bị dời chỗ khoảng chừng bảy mươi hai giờ trước, ông nói cuộc truy tìm dấu vết đã lâm vào bước đường cùng, trước khi cúp máy. Giờ đây việc có thể làm chỉ là chờ đợi Paul đưa ra đòi hỏi của hắn.

“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn quyết định không đòi hỏi vì cho là quá liều lĩnh?” Keller hỏi. “Nếu hắn chỉ giết cô ấy thay vì đòi tiền thì sao?”

“Tại sao lúc nào anh cũng tiêu cực vậy?”

“Chắc ông bắt đầu lây sang tôi rồi.”

Họ rời vùng núi Lubéron cũng đúng lộ trình vào cái đêm chạy theo René Brossard và ả đàn bà từ Aix: xuống triền dốc của khối núi, vượt con sông Durance, ngang qua bờ hố trữ nước ở Saint-Christophe và sau cùng trở về Marseilles. Có một chuyến phà rời bến đi đảo Corse lúc giữa trưa. Mỗi người mua một vé, rồi ngồi kế bên nhau ở hai bàn riêng biệt trong một quán café liền kế bến phà. Gabriel uống trà, Keller thì uống bia. Có thể thấy tâm trạng rầu rĩ của y. Y không thường trở về đảo Corse mà lại thất bại không hoàn thành được phi vụ của mình.

“Không phải lỗi tại anh mà,” Gabriel an ủi.

“Tôi đã bảo ông cô ấy ở đấy,” y đáp. “Cô ấy đã không ở đấy.”

“Nhưng có vẻ như cô ta ở đó mà.”

“Vì sao thế?” y hỏi. “Vì sao bọn chúng lại thay phiên nhau canh gác về đêm khi Madeline đã đi rồi?”

Ngay lúc đó điện thoại di động của Gabriel rung lên. Ông từ từ đưa nó lên tai, im lặng lắng nghe rồi đặt nó trở xuống mặt bàn.

“Là Graham?” Keller hỏi.

Gabriel gật đầu. “Ai đó đã bỏ một điện thoại dán bên dưới một băng ghế ở Công viên Hyde đêm hôm qua.”

“Bây giờ chiếc điện thoại ấy ở đâu?”

“Phố Downing.”

“Lúc nào ông ấy định gọi điện?”

“Năm phút nữa.”

Keller nốc cạn ly bia rồi lập tức gọi một ly nữa. Năm phút trôi qua, rồi năm phút nữa. Từ bên ngoài vọng vào tiếng loa thông báo chuyến phà đi Corse đã tới giờ lên phà rồi. Nó gần như dìm chìm nghỉm luôn tiếng điện thoại của Gabriel đang rung lên trên mặt bàn. Một lần nữa ông lại nâng nó lên tai và im lặng lắng nghe.

“Sao rồi?” Keller hỏi trong khi Gabriel đút điện thoại vào túi.

“Paul đã đưa ra đòi hỏi rồi.”

“Hắn đòi bao nhiêu?”

“Mười triệu euro.”

“Chỉ thế thôi sao?”

“Không,” Gabriel đáp. “Thủ tướng muốn nói đôi lời.”

Bên ngoài một đoàn xe hơi xếp hàng rồng rắn chạy vào trong lòng chiếc phà. Keller đứng dậy. Gabriel dõi mắt nhìn theo y.