← Quay lại trang sách

Chương 18 -THỊ TRẤN APT, PHÁP

KELLER NÓI VỚI người gác cổng y đã lần mò xuyên qua rừng núi nên mới có những vết bẩn trên má, cái ba lô lấm đất đeo trên hai vai rắn chắc và hương rừng ngoài trời bám vào quần áo của y. Lên lầu rồi vào phòng mình, y cạo râu hết sức kỹ lưỡng, xoa xà bông lên thân thể mệt nhọc của mình trong bồn tắm đầy nước nóng bỏng và hút điếu thuốc đầu tiên sau hai ngày. Sau đó y xuống phòng ăn, xơi một bữa thịnh soạn khác thường và uống một chai rượu Bordeaux đắt tiền nhất dưới hầm rượu, nhờ ơn Marcel Lacroix rộng lòng ban cho mới có. No say rồi, y đi suốt đường phố tĩnh lặng của khu phố cổ tới tận nhà thờ cổ kính. Gian giữa giáo đường tối âm u và vắng vẻ, chẳng có ai khác ngoài Gabriel đang an tọa trước chân đèn cắm nến thờ. “Nhưng anh có chắc không?” Gabriel hỏi khi y tới gặp. Có, y gật đầu chầm chậm. Y chắc chắn rồi.

“Anh đã bao giờ thấy cô ta?”

“Chưa.”

“Vậy làm sao anh biết cô ta ở đó?”

“Bởi vì người rành rẽ hoạt động tội phạm chỉ cần nhìn sơ qua là biết ngay,” Keller quả quyết. “Hoặc là bọn chúng đang tiến hành điều chế thuốc lắc, hoặc đang chế tạo một quả bom bẩn thỉu, hoặc đang nuôi nấng một cô gái người Anh bị bắt cóc. Tôi dám cá là cô gái đấy.”

“Có bao nhiêu tên trong nhà?”

“Brossard, ả đàn bà và hai thằng dân Marseilles nữa. Hai thằng này ở ru rú trong nhà suốt ngày, còn ban đêm thì ra ngoài để hút thuốc và hít thở không khí trong lành.”

“Có khách nào tới đó hay không?”

Gã người Anh lắc đầu. “Ả đàn bà rời biệt thự mỗi ngày một lần để đi mua sắm và lảng vảng ở các nhà lân cận, nhưng chẳng có hoạt động nào khác.”

“Ả đó bỏ đi bao lâu?”

“Một giờ hai mươi tám phút ngày đầu tiên, hai giờ mười hai phút ngày thứ nhì.”

“Tôi rất phục sự chính xác của anh đó.”

“Tôi không có quá nhiều thứ để bận tâm mà.”

Gabriel hỏi về một ngày của Brossard diễn ra như thế nào.

“Hắn giả vờ như đang trong kỳ nghỉ,” Keller đáp. “Nhưng cũng có rảo bước quanh biệt thự để xem xét tình hình. Suýt chút nữa hắn đã đạp nhầm tôi hai lần đấy.”

“Hoạt động thông thường về đêm ra sao?”

“Luôn có ai đấy thức canh, chúng xem ti vi trong phòng khách hoặc đi vơ vẩn ngoài vườn.”

“Làm sao anh có thể nói chúng đang xem ti vi?”

“Tôi thấy được ánh sáng nhấp nháy qua khe cửa chớp. Mà này,” y nói thêm, “cửa chớp này chẳng bao giờ mở ra cả. Chẳng bao giờ.”

“Còn có ánh sáng nào khác về đêm không?”

“Bên trong thì không,” y đáp. “Nhưng bên ngoài được chiếu sáng rực như một cây Giáng Sinh.”

Gabriel nhăn nhó. Keller nén một cái ngáp và hỏi chuyện Paris.

“Lạnh lẽo lắm.”

“Paris hay cuộc gặp mặt?”

“Cả hai,” Gabriel đáp. “Nhất là khi tôi đề nghị để người Pháp xử lý việc giải cứu.”

“Vì cái quái gì chúng ta phải làm chứ?”

“Graham cũng phản ứng như vậy.”

“Thật sốc quá!”

“Dường như anh đã bắt đúng mạch của Phố Downing rồi đó.”

Keller cho lời nhận xét ấy qua đi mà chẳng phản ứng gì. Gabriel ngắm những ngọn nến thờ lung linh một lát rồi mới cho y biết phần còn lại của cuộc gặp mặt với Graham Seymour: căn nhà an toàn của Văn phòng ở Cherbourg, ban đón tiếp của Văn phòng, cuộc trở về nước Anh lặng lẽ với một hộ chiếu do Văn phòng giả mạo chữ ký. Nhưng tất cả đều phải dựa vào một việc. Họ phải đưa Madeline ra khỏi biệt thự một cách nhanh chóng và lặng lẽ. Không có quyết chiến bằng súng đạn. Không có rượt đuổi bằng xe hơi. “Quyết chiến bằng súng đạn dành cho lũ cao bồi,” Keller nói, “còn rượt đuổi bằng xe hơi chỉ xảy ra trong phim ảnh mà thôi.”

“Làm sao chúng ta đi qua chỗ đèn sáng mà không bị đám bảo vệ trông thấy?”

“Chúng ta không làm thế.”

“Anh giải thích đi!”

Keller đã làm rồi.

“Còn nếu Brossard hay một đứa khác xuống lầu thì sao?”

“Có khả năng chúng có thể bị tổn thương.”

“Vĩnh viễn,” Gabriel chêm vào. ông nhìn gã người Anh một cách nghiêm túc một lát. “Anh có biết chuyện gì sẽ xảy ra khi cảnh sát Pháp tìm thấy mấy cái xác? Họ sẽ bắt đầu hỏi han đây đó trong thị trấn, và chẳng bao lâu sau họ sẽ có một bức phác họa lắp ghép về một cựu binh SAS được cho là đã chết ở Iraq. Còn các tấm hình giám sát của khách sạn nữa chứ.”

“Ấy là công dụng của macchia đấy.”

“Là sao?”

“Tôi sẽ hạ cánh an toàn ở đảo Corse và chờ cho sự việc trôi qua.”

“Có thể rất lâu rồi anh mới hành nghề trở lại được,” Gabriel nói. “Một thời gian rất lâu.”

“Đấy là một sự hy sinh mà tôi cam tâm tình nguyện.”

“Vì nữ hoàng và vì đất nước?”

“Vì cô gái.”

Gabriel lặng thinh nhìn y chằm chằm một lát. “Tôi nghĩ anh có vấn đề với lũ đàn ông hãm hại các cô gái vô tội, đúng không?”

Keller gật đầu chầm chậm.

“Anh có điều gì muốn nói với tôi hay không?”

“Ông có thể thấy điều này khó tin,” Keller nói, “nhưng tôi thực sự không có tâm trạng để cùng dạo chơi trên miền hồi tưởng với ông đâu.”

Gabriel mỉm cười. “Dù sao vẫn còn hy vọng cho anh đó, Keller à.”

“Một chút xíu thôi,” gã người Anh đáp lại.

Gabriel nghe tiếng chân bước đi trong nhà thờ liền xoay lại và thấy người đàn bà mặc áo mưa có dây thắt lưng từ từ tiến vào gian giữa. Một lần nữa cô ta lại tạm dừng trước bàn thờ chính và làm dấu thánh giá vô cùng kính cẩn từ trán xuống trái tim rồi từ vai trái sang vai phải.

“Hạn chót là ngày mai,” Gabriel nói. “Tức là đêm nay chúng ta phải đột nhập.”

“Càng sớm càng tốt.”

“Chúng ta cần có thêm người mới có thể làm việc này một cách đàng hoàng,” Gabriel rầu rĩ nói.

“Phải, tôi biết.”

“Có thể có cả trăm điều sai sót.”

“Phải, tôi biết.”

“Có thể cô ta không đi nổi.”

“Như thế chúng ta sẽ khuân cô ta đi,” Keller nói. “Đây chẳng phải lần đầu tôi khuân người ra khỏi chiến trường.”

Gabriel ngó người đàn bà mặc áo mưa màu nâu nhạt đang đăm đăm nhìn vào khoảng không, rồi ông ngó ánh sáng lung linh của những ngọn nến thờ.

Một lát sau ông hỏi, “Anh cho rằng hắn là ai?”

“Ông nói ai?”

“Paul đó.”

“Tôi không biết,” Keller đứng lên. “Nhưng chừng nào tôi gặp hắn, hắn sẽ chết.”

Sau khi rời nhà thờ, Gabriel trở lại khách sạn và báo cho quản lý biết mình sẽ trả phòng. Không có chuyện gì nghiêm trọng cả, ông cam đoan với họ: một vụ khủng hoảng nho nhỏ ở nhà mà chỉ có ông là Herr Johannes Klemp độc nhất vô nhị của Munich mới gỡ rối được. Quản lý mỉm cười tiếc rẻ nhưng trong lòng lại vui mừng khi tiễn ông đi. Các cô hầu phòng nhất trí tuyên bố ông là vị khách khó chịu nhất trong mùa, và Mafuz là đội trưởng bảo vệ chuyên lo việc gác cổng, khiêng hành lý và làm việc vặt cho khách trọ còn cầu cho ông chết đi.

Chính anh này đứng như tượng đá ở vị trí của mình gần cửa trước đã trông thấy ông biến vào bóng đêm với dáng vẻ hào hoa phong nhã. Ông cưỡi xe đi qua các đường phố trong thị trấn khá lâu để biết chắc không có ai theo dõi. Sau đó, ông tắt đèn trước, tìm đường tới lối mòn chật hẹp đầy đất đá ngoài rìa thung lũng có ba biệt thự. Một trong ba biệt thự, ngôi biệt thự ở phía Đông được chiếu sáng như thể nhân một dịp đặc biệt. Keller đứng giữa một bãi gỗ thông, đang chăm chú quan sát kỹ biệt thự. Gabriel đến với y và cũng nhìn nó chằm chặp, vài phút sau một bóng đen xuất hiện trong khu vườn và một bật lửa cháy sáng lên. Keller giơ tay ra rồi khẽ kêu lên, “Pằng, pằng, mày chết rồi.”

Họ vẫn ở trong đám cây thông cho tới khi gã đàn ông đã trở vào trong biệt thự. Sau đó, họ ngồi trên chiếc Renault đã nhuốm màu đen tối của Keller, phải khó khăn lắm mới nghĩ ra những chi tiết cuối cùng của kế hoạch tấn công: vị trí của hai người, đường đi nước bước, đường ngắm bắn và hành tung của họ khi đã vào trong biệt thự ấy. Sau hai mươi phút chỉ còn lại một điều phải quyết định, đó là ai sẽ bắn phát súng khởi động mọi việc. Gabriel nằng nặc đòi làm việc đó, nhưng Keller phản đối. Sau đó y nhắc Gabriel mình từng đạt điểm cao nhất chưa ai từng đạt được trong nhà sát thương ở Hereford.

“Đó chỉ là luyện tập thôi mà,” Gabriel tỏ vẻ khinh thường.

“Một bài tập bắn người sống đấy ông bạn ạ,” Keller phản bác.

“Thì vẫn là bài tập thôi.”

“Ông đã đạt được thành tích gì?”

“Tôi từng bắn một tên khủng bố Palestine vào giữa hai con mắt từ phía sau một chiếc xe máy đang chạy.”

“Thế thì sao chứ?”

“Tên khủng bố đang ngồi giữa một quán café đông khách trên đại lộ Saint-Germain ở Paris.”

“Phải rồi,” Keller giả vờ tỏ vẻ khó chịu, “Tôi nghĩ mình từng đọc chuyện ấy trong sử sách.”

Cuối cùng phải quyết định bằng cách tung đồng tiền sấp ngửa.

“Đừng có bắn hụt đó!” Gabriel đút đồng tiền kim loại trở vào trong túi.

“Tôi chẳng bao giờ bắn trượt cả.”

Lúc bấy giờ gần tới mười giờ, còn quá sớm để di chuyển. Keller nhắm mắt ngủ, trong khi Gabriel ngồi nhìn chằm chặp ánh đèn từ biệt thự tận cùng phía Đông. Ông hình dung một căn phòng nhỏ dưới tầng hầm: một cái giường nhỏ, một cặp còng tay, một mũ trùm, một cái xô để đi vệ sinh, biện pháp cách ly để bóp nghẹt tiếng la hét, một phụ nữ chẳng còn là chính mình nữa. Và trong phút chốc ông đang bước đi, qua vùng tuyết phủ của nước Nga về phía một ngôi nhà thôn quê ở ven một khu rừng bạch dương, ông nhắm mắt lại để xua đi hình ảnh ấy và lơ đãng mân mê bàn tay san hô đỏ đeo quanh cổ. Khi cô ấy đã chết, ông mải mê suy nghĩ. Lúc đó các anh mới biết được sự thật.

Bốn giờ sau ông siết vai gã người Anh. Y thức giấc ngay tức khắc, leo ra và lấy cái ba lô từ trong cốp xe hơi. Bên trong ba lô có hai cuộn băng keo dán ống nước, một cái kềm cộng lực cắt chốt cửa 60 cm cực mạnh, hai bộ phận hãm thanh: một cái cho khẩu HK45 nhỏ gọn của Keller, cái kia cho khẩu Beretta của Gabriel. Gabriel vặn bộ phận hãm thanh vào đầu nòng súng của mình rồi đeo ba lô lên vai. Sau đó, ông theo sau Keller đi xuống, xuyên đám cây thông vượt qua rìa thung lũng. Chẳng có trăng sao và không một hơi gió nào. Keller di chuyển xuyên qua một đội hình gồm các tảng đá và cây bụi hoàn toàn im lặng, thật chậm như đang ở dưới nước. Cứ đi vài bước y lại giơ tay phải lên ra hiệu cho Gabriel dừng lại theo đường đi của mình, ngoài ra chẳng có liên lạc gì cả. Họ chẳng cần. Mỗi một bước đi, nhất cử nhất động đều đã được dự tính trước rồi.

Dưới chân đồi họ tách ra. Keller đi về mặt phía Nam của biệt thự và cắm chốt dưới một đường mương thoát nước. Gabriel thì tiến về mặt phía Đông và ẩn mình trong một đám thạch thảo, vị trí của ông cách đường ranh giới khoảng hơn 15 mét, nơi mà đèn bên ngoài biệt thự không chiếu tới và bỗng tối lại tái chiếm đêm đen. Đối diện trực tiếp là một hàng cửa kiểu Pháp dẫn từ ngoài vườn vào tận phòng khách. Qua khe cửa chớp, ông có thể thấy ánh sáng nhấp nháy của ti vi và cho rằng có cái bóng mờ nhạt của một gã đàn ông.

Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Lúc đó là 2:37 sáng. Còn ba giờ ở trong bóng tối. Sau đó có thể gã đàn ông bên trong biệt thự sẽ không còn đi dạo trong vườn nữa. Chắc chắn gã chỉ bước ra ngoài để hít thở không khí trong lành lần chót và liếc nhìn bầu trời lần nữa, ngay cả khi chẳng có trăng sao, cũng không một hơi gió. Khi đó từ đường mương thoát nước ở mặt Nam của biệt thự sẽ có một tiếng súng đơn lẻ, và sau đó vụ việc sẽ bắt đầu: một cái giường nhỏ, một cặp còng tay, một cái xô để đi vệ sinh và một phụ nữ không còn là chính mình nữa.

Ông lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay, thấy chỉ mới có hai phút trôi qua, và rùng mình trong giá lạnh. Có lẽ Keller nói đúng; có lẽ rốt cuộc ông là một điệp viên bàn giấy. Để giúp cho thời gian qua mau, trong tâm tưởng ông tự đưa mình rời đám thạch thảo rậm rạp và đặt mình trước một khung vải. Đó là bức tranh ông đã bỏ lại sau lưng ở Jerusalem: Susanna đang tắm trong vườn nhà nàng, bị bọn lớn tuổi trong làng canh me ngắm nghía. Một lần nữa, ông lại đưa Madeline vào vai của Susanna, mặc dù giờ đây những vết thương ông hàn gắn không phải do thời gian gây ra mà vì bị giam cầm.

Ông làm việc chậm rãi mà vững chắc, sửa những chỗ đau trên cổ tay cô, thêm thịt vào hai bờ vai hao gầy và tô màu cho đôi má hóp. Và suốt thời gian đó ông theo dõi từng giây phút đang trôi qua và biệt thự, dường như với ông đang ở trên nền của bức tranh. Trong hai giờ chẳng thấy động tĩnh gì. Rồi khi ánh sáng đầu tiên xuất hiện trên bầu trời phía Đông, một trong các cánh cửa kiểu Pháp từ từ mở ra và một gã đàn ông bước vào khu vườn của Madeline. Gã duỗi tay ra, hết ngó bên trái rồi bên phải, sau đó lại nhìn về bên trái. Theo yêu cầu của Madeline, Gabriel nhanh chóng hoàn tất việc phục chế. Và khi thấy một ánh chớp lóe lên ở phía Nam, ông đang quỳ gối chợt nhổm dậy, cầm súng trên tay và bắt đầu phóng chạy.