← Quay lại trang sách

Chương 21 SỐ 10, PHỐ DOWNING-

SAU MỘT QUÃNG ĐỜI phục vụ trong ngành mật vụ, Gabriel đã không đếm được số lần bước vào một gian phòng với tâm trạng khủng hoảng. Tính chất và bố trí dường như không phải là vấn đề, vẫn luôn như nhau cả. Một người đi đi lại lại trên thảm, một người khác thẫn thờ nhìn đăm đăm ra ngoài một cửa sổ, và còn một người khác nữa cố gắng một cách vô vọng làm ra vẻ thản nhiên điềm tĩnh, ngay cả khi không có gì để mà điềm tĩnh. Trong trường hợp này, gian phòng là Phòng Tranh Trắng (White Drawing Room) ở Số Mười, người đi đi lại lại trên thảm là Simon Hewitt, người đăm đăm nhìn ra cửa sổ là Jeremy Fallon, còn người cố làm ra vẻ bình thản là Thủ tướng Jonathan Lancaster. Ông này đang an tọa trên một trong hai chiếc ghế bành đối diện nhau trước lò sưởi. Trên cái bàn thấp hình chữ nhật trước mặt ông là một điện thoại di động: chiếc điện thoại đã bị bỏ lại trong Công viên Hyde chiều tối hôm trước. Ông đang trừng mắt nhìn nó, như thể thiết bị ấy chứ không phải Madeline Hart bằng một cách nào đó là nguồn gốc đã gây ra tình trạng ngặt nghèo cho ông.

Ông đứng dậy, tới gần Gabriel và Seymour với vẻ thận trọng của một người đi ngang qua boong một thuyền buồm khi biển động. Ống kính truyền hình đã không công bằng với Thủ tướng. Ông cao hơn Gabriel từng tưởng tượng và dù lúc đó đang căng thẳng ông vẫn trông có vẻ khá hơn Gabriel tưởng. “Tôi là Jonathan Lancaster,” ông nói có vẻ hơi lố bịch khi bàn tay rộng lớn của ông ta bao trùm cả bàn tay của Gabriel. “Tôi muốn nói đến thời khắc ta gặp nhau, chỉ mong sao được gặp anh trong một hoàn cảnh khác.”

“Tôi cũng vậy, thưa Thủ tướng.”

Gabriel đã định nói vài lời để tỏ ra thông cảm với Thủ tướng, nhưng từ cặp mắt ti hí rõ ràng ông ta xem thông cảm là một lời kết án về tư cách đạo đức của mình. Ông nhanh chóng buông bàn tay Gabriel ra, rồi khoát tay về phía hai nhân vật khác trong phòng. “Tôi cho rằng anh biết hai quý ông này là ai,” ông nói sau khi lấy lại điềm tĩnh. “Người cứ đi đi lại lại mãi làm mòn thủng một lỗ trên tấm thảm của tôi là Simon, người phát ngôn báo chí của tôi, còn ông ở đằng kia là Jeremy Fallon. Jeremy là bộ óc của tôi, nếu như anh tin những điều đã đọc trên các nhật báo.”

Simon Hewitt dừng bước một lúc vừa đủ để khẽ gật đầu về phía Gabriel. Không mặc áo khoác với hai tay áo sơ mi xắn lên tận cùi chỏ và cà vạt nới lỏng ra, trông ông ta giống như một phóng viên đã tới hạn chót nộp bài mà vẫn chưa có hai dữ kiện để đối chiếu với nhau. Jeremy Fallon vẫn đang ở vị trí canh gác của mình trong khung cửa sổ, vẫn gài nút và thắt cà vạt chặt chẽ. Người ta từng viết về Fallon rằng ông ta thấy mình như là một Thủ tướng cho tới giây phút ông ta soi gương. Với cái cằm lẹm, mái tóc thẳng rũ xuống và màu da tái xanh, ông ta thích hợp hơn cả với hoạt động chính trị trong thế giới ngầm của bọn tội phạm.

Duy chỉ còn lại cái điện thoại di động này. Chẳng nói chẳng rằng, Gabriel nhấc nó lên từ cái bàn salon và kiểm tra danh bạ các số điện thoại. Nó cho thấy thiết bị này chỉ nhận một cuộc gọi: cuộc gọi đã được xác định trong khi ông và Keller đang ở bến phà Marseilles.

“Ai đã gọi cho hắn vậy?”

“Là tôi gọi đấy,” Fallon đáp.

“Giọng hắn như thế nào?”

“Không phải giọng thật đâu.”

“Là giọng do máy vi tính tạo ra sao?”

Fallon gật đầu.

“Hắn định gọi lại lúc mấy giờ?”

“Lúc nửa đêm.”

Gabriel tắt nguồn, gỡ pin và SIM ra rồi đặt cả hai xuống bàn salon.

“Chuyện gì có thể xảy ra lúc nửa đêm?”

Chính Lancaster đáp lại.

“Hắn muốn một câu trả lời là có hay không. Có nghĩa là tôi đồng ý trả cho hắn mười triệu euro bằng tiền mặt để đổi lấy Madeline và một lời hứa đoạn phim không bao giờ bị công bố. Nếu tôi nói không thì Madeline sẽ chết và mọi chuyện bọn chúng sẽ đưa ra. Hiển nhiên là,” ông ta thở dài nặng nhọc rồi nói tiếp, “tôi chẳng còn chọn lựa nào khác ngoài việc đồng ý các đòi hỏi của bọn chúng.”

“Đó sẽ là sai lầm lớn nhất trong đời ông, thưa Thủ tướng.”

“Chỉ lớn thứ nhì thôi.”

Lancaster hạ thấp cái lưng dài xuống ghế bành và bụm hai tay che khuôn mặt nổi tiếng của mình. Gabriel nghĩ tới những người mình đã thấy trên các đường phố của London chiều tối hôm đó đang mải đi lo công chuyện mà chẳng hề hay biết Thủ tướng của mình giờ phút này đang đờ người ra vì vụ bê bối.

“Tôi phải chọn lựa sao đây?” Một lát sau Lancaster hỏi.

“Ông vẫn có thể tới gặp cảnh sát.”

“Chuyện ấy đã quá muộn rồi.”

“Vậy ông phải thương lượng lại.”

“Hắn bảo sẽ không làm thế. Hắn bảo sẽ giết cô ấy nếu tôi không đồng ý trả mười triệu ấy.”

“Chúng lúc nào cũng nói vậy thôi. Nhưng tin tôi đi, thưa Thủ tướng... nếu ông đồng ý hắn sẽ nổi giận đó.”

“Với tôi ư?”

“Với chính hắn. Hắn sẽ nghĩ đã để tiền bay đi mất nếu chỉ đòi mười triệu. Hắn sẽ quay trở lại với ông để đòi thêm nữa. Và nếu ông đồng ý trả số tiền đó, hắn sẽ trở lại để đòi còn nhiều hơn vậy nữa. Hắn sẽ làm ông chảy máu tới khô kiệt, hết triệu này tới triệu khác cho đến khi không còn lại gì hết.”

“Thế thì anh có gợi ý gì không?”

“Ta đợi điện thoại reng. Tới lúc đó ta cho hắn biết sẽ trả mười triệu, có lấy không hay bỏ đi. Rồi ta cúp máy và đợi hắn gọi lại.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn không gọi lại? Nếu hắn giết cô ấy thì sao?”

“Hắn sẽ không làm vậy đâu.”

“Làm thế nào anh có thể chắc chắn là thế chứ?”

“Vì hắn đã đầu tư quá nhiều thời gian, sức lực và tiền của rồi. Với hắn đây chỉ là công việc kinh doanh, không gì hơn nữa. Ông phải hành xử cùng một kiểu cách đó. Ông phải tiếp cận vụ này như bất cứ cuộc thương thuyết gay go nào khác. Không có con đường tắt nào hết. Ông phải làm cho hắn dần dần kiệt sức. Ông phải kiên nhẫn. Đó là cách duy nhất để rồi đây ta sẽ đưa cô ấy trở về.”

Một bầu không khí im lặng nặng nề phủ lên cả gian phòng. Jeremy Fallon đã rời vị trí trong khung cửa sổ và đang ngắm nghía một bức tranh vẽ cảnh phố xá London của Turner, như thể mới để ý đến nó lần đầu tiên. Graham Seymour dường như đã phát triển một mối quan tâm mê đắm với tấm thảm.

“Tôi đánh giá cao lời khuyên của anh,” một lát sau Lancaster cất lời, “nhưng chúng tôi đã...” Ông ta ghìm mình lại, rồi nói một cách thận trọng, “Tôi đã quyết định sẽ cho bọn chúng bất cứ cái gì chúng muốn, chính vì hành vi khinh suất của tôi mà Madeline mới bị bắt cóc. Và tôi buộc phải làm bất cứ điều gì cần thiết để đưa cô ấy về nhà an toàn. Đấy là việc chính đáng phải làm vì cô ấy, và vì cả văn phòng này nữa.”

Câu nói đó nghe như thể do Jeremy Fallon soạn ra - và nếu cái vẻ tự phụ trên khuôn mặt ỉu xìu của Fallon biểu hiện một điều gì đó, thì đúng là ông ta đã làm vậy.

“Chính đáng, có lẽ là vậy,” Gabriel đáp, “nhưng không khôn ngoan đâu.”

“Tôi không đồng ý,” Lancaster nói. “Và Jeremy cũng thế.”

“Với tất cả lòng tôn kính thích đáng,” Gabriel quay sang Fallon, “xin hỏi ông đã thương lượng thành công để giải cứu một con tin lần cuối là khi nào vậy?”

“Tôi nghĩ anh sẽ đồng ý,” Fallon đáp lại, “đây chẳng phải một vụ bắt cóc bình thường. Mục tiêu của bọn tống tiền là Thủ tướng của Vương quốc Anh. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào tôi không thể để ông ấy bị bất lực vì một cuộc thương lượng không hồi kết như vậy được.”

Fallon đã diễn thuyết một cách thản nhiên và với một niềm tin tối thượng của một kẻ đã quen rỉ tai chỉ dẫn cho một trong những người có quyền lực mạnh nhất thế giới. Đó là một hình tượng nhiều lần bị giới truyền thông chộp lấy. Và vì vậy mà các họa sĩ biếm thường ngày vẫn miêu tả Fallon như một kẻ chuyên giật dây con rối, còn Jonathan Lancaster thì nhảy múa ở đầu dây của ông ta.

“Các ông định lấy tiền ở đâu ra?” Gabriel hỏi.

“Các bằng hữu của Thủ tướng đã đồng ý cho ông mượn tiền cho đến khi ông ấy còn ở địa vị để trả lại tiền.”

“Có bạn bè như vậy chắc hẳn rất tuyệt.” Gabriel đứng dậy. “Có vẻ như các ông đã kiểm soát được mọi chuyện. Giờ đây chỉ cần có ai đó để giao tiền. Nhưng phải chắc chắn tìm được người giỏi việc. Bằng không các ông sẽ trở lại căn phòng này vài ngày nữa và chờ điện thoại reng lên.”

“Anh có ứng viên nào không?” Thủ tướng hỏi.

“Chỉ có một thôi, nhưng tôi e rằng người đó không làm được.”

“Vì sao?”

“Vì phải lên máy bay.”

“Chuyến bay đầu tiên đi Ben Gurion vào lúc nào?”

“Thưa, tám giờ sáng.”

“Như thế tôi cho rằng chẳng hại gì nếu lưu lại lâu hơn một chút, có phải thế không?”

Gabriel ngần ngừ. “Vâng, thưa Thủ tướng. Tôi cho là không hại gì hết.”

Lúc bấy giờ đã mười giờ vài phút rồi. Gabriel chẳng hề muốn trải qua hai giờ kế tiếp cùng mắc kẹt với một chính khách mà sự nghiệp sắp sửa lâm vào tình thế của một ngôi sao bùng nổ, vì vậy ông bước xuống cầu thang vào nhà bếp để đột kích vào tủ lạnh nhà Thủ tướng. Đầu bếp trực đêm là một bà năm chục tuổi tròn trịa có khuôn mặt ngây thơ như một đứa nhỏ dễ thương, dọn ra một đĩa bàn bánh mì sandwich và một bình trà, rồi chăm chú quan sát trong lúc ông ăn như thể sợ ông bị thiếu đói. Bà ta biết tốt hơn hết đừng hỏi tính chất của cuộc viếng thăm. Ít người tới Số Mười lúc đêm khuya mặc một bộ đồ từ một cửa hàng bách hóa bán giảm giá ở Marseilles.

Lúc mười một giờ Graham Seymour xuống thang, trông có vẻ nhợt nhạt và rất mệt nhọc. Ông từ chối một cách khinh miệt thức ăn bà đầu bếp đưa cho, rồi tiếp tục nhai ngấu nghiến phần bánh mì sandwich kẹp trứng và rau thì là còn thừa của Gabriel. Sau đó họ ra ngoài đi dạo trong khu vườn có tường rào. Tất cả đều im ắng ngoại trừ tiếng một máy truyền tin của cảnh sát thỉnh thoảng gõ lách cách và tiếng xe cộ gấp gáp lưu thông trên Đường Horse Guards ẩm ướt. Seymour rút một gói thuốc lá từ túi áo khoác và rầu rĩ đốt một điếu.

“Tôi chưa hề biết ông hút thuốc,” Gabriel nói.

“Bà Helen đã khiến tôi bỏ thuốc cách đây nhiều năm rồi. Tôi đã cố làm cho bà ấy thôi đừng nấu ăn nữa nhưng bà ấy không chịu.”

“Bà ấy nói nghe như một nhà thương thuyết tài ba. Có lẽ ta nên để bà nhà ông xử trí gã Paul.”

“Hắn sẽ không chịu nổi nếu có cơ hội ấy.” Seymour phà khói thuốc lên bầu trời không ánh sao đêm và dõi mắt nhìn theo khi nó trôi dạt sang bên kia tường rào. “Có khả năng anh nhầm, anh biết đấy. Có khả năng mọi việc sẽ êm xuôi và Madeline sẽ về nhà vào đêm mai.”

“Cũng có khả năng Đảo quốc Anh một ngày nào đó sẽ lấy lại quyền kiểm soát các thuộc địa của nước Mỹ. Có khả năng, nhưng mà không chắc.”

“Mười triệu euro là một số tiền rất lớn.”

“Trả tiền là một phần việc dễ làm. Nhưng đưa con tin còn sống trở về lại là một việc hoàn toàn khác. Người giao tiền phải chuyên nghiệp nhiều kinh nghiệm. Và anh ta phải chuẩn bị sẵn sàng rời khỏi cuộc giao dịch nếu nghĩ bọn bắt cóc đang cố lừa mình.” Gabriel tạm dừng, rồi nói tiếp, “Đó không phải là công việc của một kẻ yếu lòng nhẹ dạ.”

“Có cơ hội nào anh sẽ xem xét nhận làm việc ấy không?”

“Trong những hoàn cảnh như thế này đâu còn ai để làm bất cứ việc gì nữa.”

“Tôi đã phải yêu cầu đấy.”

“Ai đã đặt vấn đề đó với ông vậy hả?”

“Anh nghĩ là ai?”

“Lancaster phải không?”

“Thật ra đấy là Jeremy Fallon. Anh đã tạo một ấn tượng hoàn toàn tốt với ông ấy.”

“Chỉ ấn tượng thôi thì chưa đủ để ông ta nghe tôi nói.”

“Ông ấy tuyệt vọng rồi.”

“Chính xác vì vậy ông ta không nên lai vãng tới gần cái điện thoại đó.”

Seymour buông điếu thuốc xuống thảm cỏ ướt mèm, lấy mũi giày gí lên nó cho tắt hẳn rồi dẫn Gabriel trở vào bên trong, vào Phòng Tranh Trắng. Chẳng có gì thay đổi. Một người đi đi lại lại trên thảm, một người khác thẫn thờ nhìn đăm đăm ra ngoài một cửa sổ, và còn một người khác nữa cố một cách vô vọng làm ra vẻ thản nhiên điềm tĩnh, ngay cả khi không có gì để mà điềm tĩnh. Chiếc điện thoại bị tháo rời vẫn nằm yên trên cái bàn salon. Gabriel gắn pin và SIM vào rồi mở nguồn. Sau đó ông ngồi trên ghế bành đối diện với Thủ tướng và chờ nó reng lên.

Cuộc gọi nhận được đúng nửa đêm. Fallon đã chỉnh âm lượng lớn như tiếng còi tàu và bật chế độ rung để chiếc điện thoại nhảy lưng tưng trên mặt bàn như thể chuyển động theo một cơn động đất nho nhỏ. Ông ta thò tay cầm lấy ngay lập tức, nhưng Gabriel níu tay ông ta và giữ nó trong mười giây đau đớn rồi sau cùng mới buông ra. Fallon chộp lấy rồi nhanh chóng đưa điện thoại lên tai. Sau đó, ông nhìn Lancaster chằm chặp, rồi nói. “Tôi đồng ý với các điều khoản của anh.” Gabriel thán phục cách chọn từ của ông ta. Cuộc gọi này chắc chắn đã được GCHQ (Government Communications Headquaters) là cơ quan chuyên nghe trộm của Đảo quốc Anh ghi âm, và sẽ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của cơ quan đó cho tới khi thời gian ngừng trôi.

Trong bốn mươi lăm giây kế tiếp, Fallon không nói nữa. Thay vào đó, mắt vẫn đăm đăm nhìn Thủ tướng, ông rút từ trong túi áo com lê ra một bút máy rồi nghí ngoáy ghi vài từ không đọc nổi trên một xấp giấy. Gabriel có thể nghe thấy tiếng cái máy phát ra tiếng nói, mong manh, vô hồn và nhấn sai trọng âm, muốn làm điếc cả tai. “Không,” sau cùng Fallon lên tiếng, chấp nhận cũng với cách tiếp nhận thông tin tốn nhiều công sức. “Không cần như thế đâu.” Rồi để đáp lại một câu hỏi, ông ta nói, “Phải, dĩ nhiên là thế. Anh cứ tin lời chúng tôi đi!” Sau đó lại là một khoảnh khắc im lặng, trong lúc ấy mắt ông ta chuyển từ Lancaster sang Gabriel, rồi quay trở lại nhìn Lancaster. “Chuyện ấy có lẽ không thể được,” ông ta thận trọng đáp. “Tôi phải hỏi lại.”

Và rồi đường dây chết lặng. Fallon tắt điện thoại.

“Sao rồi?” Thủ tướng hỏi.

“Hắn muốn chúng ta bỏ tiền vào hai va li đen có bánh xe lăn. Không gắn thiết bị theo dõi hành trình, không bôi kem có phẩm màu, không có cảnh sát. Hắn sẽ gọi lại ngày mai lúc giữa trưa để cho biết phải làm gì tiếp theo.”

“Ông đã không hỏi về bằng chứng còn sống,” Gabriel nói.

“Hắn đã không cho tôi cơ hội.”

“Còn có đòi hỏi nào thêm nữa không?”

“Chỉ có một thôi,” Fallon nói. “Hắn muốn anh giao tiền. Không có Gabriel thì không có cô gái.”