Chương 22 LONDON-
VÀI PHÚT SAU một giờ sáng là lúc Gabriel cuối cùng đã rời khỏi Phố Downing. Graham Seymour đề nghị lái xe đưa ông đi, nhưng ông lại muốn đi bộ; ông đã đến London cách đây nhiều tháng trời, và nghĩ không khí ẩm thấp về đêm sẽ tốt cho sức khỏe. Ông lẻn ra khỏi cổng hậu trên Đường Horse Guards rồi tiến về phía Tây băng qua một công viên trống vắng tới cầu Knightsbridge. Sau đó, ông đi trên Đường Brompton đến Nam Kensington. Số nhà trên con đường nơi ông định tới đã được cất kỹ vào các ngăn trong bộ nhớ phi thường của ông: số 59 Đường Victoria, địa chỉ ở Vương quốc Anh được biết gần đây nhất của một tên lính trung đoàn SAS đào ngũ, một gã chuyên ám sát tên là Christopher Keller.
Đó là một căn nhà nhỏ kiên cố có cánh cổng bằng sắt đã được rèn và những bậc thềm tuyệt đẹp dẫn lên một cửa trước màu trắng. Hoa nở rộ trong sân trước nhỏ xíu, và trong cửa sổ của phòng tiếp khách chỉ có một bóng đèn cháy sáng. Tấm rèm cửa hé mở đôi chút; qua kẽ hở Gabriel có thể trông thấy một người đàn ông, chính là bác sĩ Robert Keller đang ngồi thẳng người trên một cái ghế hai bên tay vịn có tấm chắn - đang đọc hay đang ngủ, điều đó chẳng thể nào biết được. Ông trẻ hơn Shamron một chút, nhưng dẫu là như vậy cũng không phải là người mong ước được sống lâu. Hai mươi lăm năm rồi ông đã đau khổ vì tin con trai mình đã chết, một nỗi đau Gabriel đã biết quá rõ. Đó là một điều tàn nhẫn mà Keller đã làm với bố mẹ y, nhưng Gabriel chẳng có vị thế để sửa sai. Và thế là ông đứng một mình trên con đường trống vắng, hy vọng ông già cách nào đó có thể cảm thấy sự có mặt của mình. Và trong tâm tưởng, Gabriel thầm nói cho ông biết con trai ông là một con người không hoàn thiện, từng làm những điều xấu xa vì tiền, nhưng y cũng là người đứng đắn đàng hoàng và ngay thẳng, can đảm và vẫn còn sống rất khỏe mạnh. Một lát sau đèn tắt, không còn trông thấy bố y nữa. Gabriel quay lại và đi tới Đường Kensington. Lúc tới gần Đường Queen’s Gate, một chiếc mô tô chạy lướt ngang qua ông về bên phải. Ông đã thấy chiếc xe hai bánh đó vài phút trước, khi đang băng qua Phố Sloane, và vài phút trước đó nữa khi rời khỏi Phố Downing. Khi ấy ông đã đoán cái bóng dáng lái xe là nhân viên MI5 làm nhiệm vụ cảnh giới, nhưng giờ đây khi đã quan sát kỹ đường nét mềm mại của cái lưng và đường cong nở nang ở hai bên hông, ông không còn tin là trường hợp đó nữa.
Ông tiếp tục đi về hướng Đông ven Công viên Hyde, dõi mắt nhìn theo hai đèn đằng đuôi xe nhỏ dần, tin chắc sẽ sớm thấy lại nó. Ông không phải đợi lâu: hai phút, có lẽ còn ít hơn thế. Đó là lúc ông thoáng thấy nó tăng tốc lao thẳng về phía mình. Lần này nó không chạy ngang qua mà quay ngoắt một vòng chữ U quanh một cột trụ giao thông rồi dừng lại. Gabriel nhanh chóng đưa chân ngang qua chỗ ngồi rồi vòng cánh tay ôm quanh cái eo thon nhỏ. Trong lúc chiếc mô tô phóng nhanh tới trước, ông hít vào mùi hương vani quen thuộc và dịu dàng vuốt ve phần dưới của bộ ngực căng tròn ấm áp. Ông nhắm mắt, có cảm giác bình an lần đầu tiên trong bảy ngày.
Căn hộ tọa lạc trong một cao ốc xấu xí xây sau chiến tranh trên Đường Bayswater. Nó từng là một nhà an toàn của Văn phòng, nhưng bên trong Đại lộ King Saul - và cả MI5 cũng thế - bây giờ ai cũng biết đó là chỗ nghỉ chân của Gabriel Allon ở London. Bước vào rồi ông treo chìa khóa trên cái móc nhỏ ngay mặt trong cánh cửa nhà bếp và mở tủ lạnh. Bên trong có một hộp giấy sữa tươi cùng với một vỉ trứng, một viên phô mai hiệu Parmesan, một mớ nấm, rau thơm và một chai rượu Pinot Grigio mà ông ưa thích nhất.
“Tủ đựng thức ăn trống trơn lúc em tới nơi,” Chiara nói, “nên em đã mua vài món từ chợ quanh góc đường. Em cứ mãi hy vọng có thể cùng ăn tối với anh.”
“Em tới nơi lúc nào vậy?”
“Sau anh chừng một tiếng đồng hồ.”
“Làm sao em tới được?”
“Em đã ở vùng lân cận.”
Gabriel nhìn vợ rất nghiêm túc. “Vùng lân cận nào vậy?”
“Nước Pháp,” nàng đáp không hề do dự. “Chính xác là một căn nhà trong trang trại gần Cherbourg. Bốn phòng ngủ, một nhà bếp có bàn ăn, nơi ngắm Eo biển Manche rất tuyệt.”
“Em xung phong vào ban đón tiếp à?”
“Không phải như vậy đâu anh.”
“Vậy chính xác là sao?”
“Ari đã phân công em đó.”
“Là ý kiến của ai vậy?”
“Của ông ta.”
“Ồ, thật vậy sao?”
“Ông ta nghĩ em hoàn toàn thích hợp với công việc đó, và em không thể cãi lại. Dù sao đi nữa, có lẽ không phải em không biết chuyện bị bắt cóc và giam giữ để đòi tiền chuộc như thế nào.”
“Chính xác vì vậy anh đã không để em lại gần cô ta.”
“Cách đây đã lâu rồi mà, anh yêu.”
“Không lâu đâu.”
“Dường như, đó đã là một quãng đời khác rồi. Thật tình đôi khi, dường như chuyện đó hoàn toàn chưa hề xảy ra.”
Nàng đóng cửa tủ lạnh rồi dịu dàng hôn Gabriel. Cái áo khoác bằng da vẫn còn giữ hơi lạnh khi nàng cưỡi xe về đêm qua các phố xá London, nhưng đôi môi nàng thật ấm áp.
“Bọn em đã chờ anh tới suốt cả ngày,” nàng lại hôn chồng. “Cuối cùng văn phòng điệp vụ đã nhắn tin cho bọn em biết anh đã lên một chuyến bay của hãng British Airways từ Marseilles đi London rồi.”
“Thật kỳ lạ, nhưng anh không nhớ mình từng đề cập kế hoạch du hành với Văn phòng Điệp vụ?
“Họ theo dõi thẻ tín dụng của anh, anh yêu à... anh biết điều đó mà. Họ đã cho một đội công tác từ Trạm London chờ đợi ở sân bay Heathrow. Và sau đó, họ thấy anh đi vào Phố Downing qua cổng hậu.”
“Anh hơi thất vọng vì bọn anh đã không vào bằng cửa trước, nhưng trong những hoàn cảnh như vậy có lẽ như thế là tốt hơn hết.”
“Chuyện gì đã xảy ra ở nước Pháp vậy anh?”
“Mọi việc không diễn ra theo kế hoạch.”
“Vậy bây giờ sao rồi?”
“Thủ tướng Anh sắp làm cho kẻ nào đó trở nên rất giàu có.”
“Giàu cỡ nào anh?”
“Giàu tới mười triệu euro đó.”
“Rốt cuộc tội ác cũng có giá phải trả nhỉ.”
“Vẫn thường như vậy. Chính vì thế mới có nhiều tội phạm.”
Chiara rời khỏi Gabriel rồi cởi áo khoác ngoài. Nàng đang mặc một cái áo len cổ cuộn màu đen bó sát. Nàng đã chải tóc gọn gàng để vừa vặn nhét vào trong cái mũ bảo hiểm. Giờ đây, với đôi mắt nhìn Gabriel chằm chằm một cách mệt mỏi, nàng gỡ rất nhiều kim cài và kẹp, làm mái tóc xõa xuống đôi bờ vai vuông vức thành một áng mây nâu vàng pha màu hạt dẻ.
“Là vậy đó à anh?” nàng hỏi. “Bây giờ bọn mình có thể về nhà rồi, phải không?”
“Không đúng.”
“Như vậy nghĩa là gì chứ?”
“Nghĩa là ai đó phải giao tiền chuộc.” Ông tạm dừng rồi nói tiếp, “Và rồi ai đó phải đưa cô ta ra.”
Nàng hơi nhắm mắt lại. Dường như chúng sẫm màu hơn, chẳng bao giờ là một dấu hiệu tốt lành.
“Em chắc chắn ông Thủ tướng có thể tìm thấy một người nào khác chứ không phải là anh.”
“Anh cũng chắc chắn ông ta có thể, nhưng anh e rằng ông ta không có nhiều chọn lựa về vấn đề này.”
“Sao lại như vậy?”
“Vì đêm nay, bọn bắt cóc đã đưa ra một đòi hỏi sau cùng.”
“Đòi anh à?”
Gabriel gật đầu. “Không có Gabriel thì không có cô gái.”
Mặc dù đã rất khuya, Chiara vẫn muốn nấu ăn. Gabriel ngồi vào cái bàn ăn nhỏ xíu trong nhà bếp, một ly rượu vang để sát cùi chỏ và kể lại chi tiết hành trình của mình từ khi chia tay với nàng ở Jerusalem. Trong bất cứ cuộc hôn nhân nào khác, người vợ chắc chắn sẽ phản ứng lại bằng sự hoài nghi và kinh ngạc vì một câu chuyện như thế, nhưng Chiara dường như mải lo làm món rau trộn với rau thơm. Chỉ một lần lúc làm bếp nàng ngước nhìn lên, khi Gabriel kể lại chuyện cái xà lim cầm tù trống trơn ở ngôi nhà trong vùng núi Lubéron, và chuyện ả đàn bà đã chết trong vòng tay của mình. Khi ông kết thúc, nàng đổ đầy muối vào giữa lòng bàn tay, bỏ một phần nhỏ vào chậu, phần còn lại thì trút vào một nồi nước sôi.
“Và sau tất cả những chuyện đó, anh đã quyết định dạo chơi một chuyến tới Nam Kensington lúc nửa đêm.”
“Nghĩ kỹ lại thì anh đã làm một việc rất ngu ngốc.”
“Ngu ngốc hơn việc đồng ý đi giao mười triệu euro tiền chuộc cho bọn bắt cóc nhân tình của ông Thủ tướng Anh à?”
Gabriel không nói gì.
“Ai đang ở nhà số Năm mươi chín Đường Victoria vậy anh?”
“Bác sĩ Robert Keller và phu nhân.”
Chiara vừa định hỏi Gabriel tại sao lại tới gặp họ, nhưng rồi nàng chợt hiểu ra.
“Anh đã nói cái quái gì với họ vậy?”
“Đó là chuyện khó nói, đúng không?”
Nàng bỏ rất nhiều nấm vào chính giữa tấm thớt rồi bắt đầu băm thật nhuyễn. “Họ cứ nghĩ anh ta đã chết có lẽ sẽ tốt hơn,” nàng có vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
“Còn nếu đó là con của em thì sao? Em không muốn biết sự thật à?”
“Nếu anh đang hỏi em có muốn biết con trai mình giết người để kiếm miếng ăn, thì câu trả lời là không.”
Một khoảnh khắc im lặng buông xuống giữa hai người.
“Em xin lỗi,” một lát sau nàng nói. “Lời nói nghe không hay, nhưng ý em không phải vậy.”
“Anh biết mà.”
Chiara cho nấm vào một cái xoong rồi nêm muối và tiêu. “Bà ấy có bao giờ hay biết không anh?”
“Mẹ anh à?”
Nàng gật đầu.
“Không,” Gabriel đáp. “Bà không bao giờ hay biết.”
“Nhưng chắc hẳn bà đã nghi ngờ gì đó. Anh đã ra đi ba năm rồi.”
“Mẹ biết anh có liên can với ngành mật vụ và có dính líu gì đó với vụ việc ở Munich. Nhưng anh chưa bao giờ nói với bà chính mình đã thực sự giết người.”
“Thế nào bà cũng tò mò hỏi tới chứ.”
“Không có.”
“Tại sao lại không?”
“Munich là một tổn thương với cả nước,” Gabriel đáp lại, “nhưng đặc biệt khó khăn đối với những người như mẹ anh, một người Do Thái lai Đức, từng sống sót thoát khỏi các trại tập trung. Thật sự bà không chịu nổi khi xem hình trên báo hay xem trên ti vi đám tang của những người tử nạn. Mẹ tự giam mình trong xưởng vẽ và vẽ tranh.”
“Và khi anh trở về nhà sau điệp vụ cơn Thịnh nộ của Thượng Đế thì sao?”
“Bà có thể thấy cái chết trong mắt anh.” Ông tạm dừng, rồi nói tiếp, “Bà đã biết chết là như thế nào rồi.”
“Nhưng anh chưa bao giờ kể lại chuyện đó à?”
“Chưa bao giờ,” Gabriel lắc đầu chầm chậm. “Mẹ chưa bao giờ kể cho anh nghe chuyện gì đã xảy đến với bà suốt cuộc Đại Thảm sát, và anh cũng chưa bao giờ kể bà nghe việc mình đã làm trong ba năm ở châu Âu.”
“Anh nghĩ liệu bà có đồng ý với việc anh đã làm hay không?”
“Mẹ đã nghĩ gì không thành vấn đề với anh.”
“Tất nhiên là vậy, Gabriel à. Thật ra anh không tin số mạng đã xui khiến tất cả chuyện đó. Nếu anh tin, hẳn đã không tới nhà cũ của Keller lúc ban đêm để nhìn chằm chằm bố anh ta qua cửa sổ.”
Gabriel không nói gì. Chiara bỏ một bó mì fettuccine (sợi dẹt) vào nước sôi rồi khuấy lên một lần với cái muỗng gỗ.
“Anh ta như thế nào anh?”
“Keller à?”
Nàng gật đầu.
“Cực kỳ tài giỏi, hết sức tàn ác và táng tận lương tâm.”
“Nghe có vẻ như anh ta là người hoàn toàn thích hợp để giao mười triệu euro tiền chuộc cho bọn bắt cóc Madeline Hart.”
“Chính phủ của Nữ Hoàng vẫn tin là anh ta đã chết. Ngoài ra,” Gabriel nói thêm, “bọn bắt cóc đặc biệt yêu cầu anh giao số tiền đó.”
“Đó chính xác là lý do anh không việc gì phải làm chuyện đó.”
Gabriel không đáp lại.
“Làm sao bọn nó biết anh có liên can tới vụ đó chứ?”
“Chắc hẳn chúng đã phát hiện ra anh ở Marseilles hay ở Aix.”
“Vậy tại sao bọn nó lại muốn một người chuyên nghiệp như anh giao tiền chuộc chứ? Tại sao không phải một viên chức xun xoe nịnh bợ từ Phố Downing để chúng có thể dễ dàng điều khiển?”
“Anh cho rằng chúng rất khoái chí khi nghĩ tới việc giết chết anh. Nhưng việc đó sẽ khá khó lòng làm được.”
“Tại sao?”
“Vì anh sẽ có trong tay mười triệu euro mà chúng vô cùng thèm muốn, tức là bọn anh điều khiển mọi chuyện.”
“Bọn anh sao?”
“Em không nghĩ anh sẽ làm việc này một mình, phải không? Anh sẽ có ai đó canh chừng sau lưng.”
“Ai vậy?”
“Ai đó cực kỳ tài giỏi, hết sức tàn ác và táng tận lương tâm.”
“Em tưởng anh ta đã về đảo Corse rồi chứ.”
“Y về rồi. Nhưng sẽ nhận được một cú điện thoại đánh thức.”
“Còn em thì sao?”
“Hãy trở lại căn nhà ở Cherbourg. Anh sẽ đưa Madeline tới đó sau khi trả tiền chuộc. Khi cô ta sẵn sàng để được chuyển đi, bọn mình sẽ đưa cô ta về Đảo quốc Anh. Rồi sau đó bọn mình sẽ trở về nhà.”
Chiara im lặng một lát. Sau đó nàng nói, “Anh làm cho sự việc nghe có vẻ quá đơn giản.”
“Nếu chúng chơi đúng luật của anh, thì sẽ như vậy.”
Nàng đặt một tô mì nấm đang bốc hơi ngay chính giữa bàn ăn rồi ngồi xuống đối diện Gabriel.
“Không còn câu hỏi nào nữa chứ?” ông hỏi.
“Chỉ một câu thôi. Bà già ở đảo Corse đã thấy gì khi anh nhỏ giọt dầu xuống nước?”
*
Lúc hai người ăn xong đã gần bốn giờ sáng, tức là gần năm giờ trên đảo Corse. Dù vậy Keller nghe có vẻ như vẫn đang còn thức và tỉnh táo khi nhận cuộc gọi của Gabriel. Cẩn thận dùng mật ngữ, ông giải thích chuyện đã diễn ra ở Phố Downing và những gì sẽ phải xảy ra trong những ngày tới.
“Anh có thể lên chuyến bay đầu tiên tới sân bay Orly không?” ông hỏi.
“Không thành vấn đề.”
“Hãy thuê một xe hơi ở sân bay rồi chạy thẳng ra bờ biển. Tôi sẽ gọi cho anh khi biết điều gì đó.”
“Không thành vấn đề.”
Sau khi đã ngắt kết nối, Gabriel nằm sải tay sải chân trên giường kế bên Chiara và cố dỗ giấc ngủ nhưng vô ích. Hễ nhắm mắt lại là ông thấy khuôn mặt của ả đàn bà đã chết trong vòng tay mình ở vùng núi Lubéron, trong thung lũng có ba ngôi biệt thự. Vì thế ông nằm rất yên tĩnh, lắng nghe tiếng thở của vợ và tiếng xe cộ rú lên trên Đường Bayswater, khi ánh sáng buồn thảm của buổi bình minh ở London từ từ len lỏi vào gian phòng.
Ông đánh thức Chiara dậy để uống cà phê mới pha lúc chín giờ rồi đi tắm vòi sen. Khi ông từ phòng tắm đi ra, Jonathan Lancaster đang thảo luận trên truyền hình về sáng kiến mới tốn nhiều tiền của ông ta nhằm cải thiện cuộc sống của các gia đình gặp nhiều rắc rối ở Đảo quốc Anh. Ông không khỏi kinh ngạc trước tài diễn xuất của ngài Thủ tướng. Sự nghiệp của ngài vào thời điểm này đang như ngàn cân treo sợi tóc, thế mà trông ngài vẫn cứ oai phong và không hề mảy may dao động như thể chẳng có chuyện gì. Quả thật khi ngài kết thúc những nhận xét của mình, ngay cả Gabriel cũng bị thuyết phục, tin rằng chi thêm vài triệu bảng Anh từ tiền của người nộp thuế sẽ giải quyết được các vấn đề mà tầng lớp bình dân của Đảo quốc Anh phải đối mặt.
Câu chuyện kế tiếp có liên quan gì đó với một công ty của Nga đạt được quyền khoan dầu trong lãnh hải của Đảo quốc Anh ở Bắc Hải. Gabriel tắt ti vi, mặc đồ vào rồi rút một khẩu súng Beretta 9mm trong két sắt giấu dưới sàn bồn cầu. Rồi sau khi hôn vợ một lần cuối, ông đi xuống cầu thang và ra đường. Đang chờ ở sát lề đường sau tay lái chiếc Vauxhall Astra là Nigel Whitcombe. Cậu ta lái xe tới Số Mười trong một thời gian kỷ lục, rồi bỏ Gabriel xuống ở lối vào đằng sau trên Đường Horse Guards.
“Hy vọng lần này không kết thúc như lần trước,” cậu ta giả vờ làm ra vẻ phấn khởi.
“Hy vọng như vậy,” Gabriel đồng ý, rồi đi vào bên trong.