Chương 23 SỐ 10, PHỐ DOWNING-
JEREMY FALLON ĐANG đợi trong tiền phòng đằng sau Số Mười. Ông ta chìa ra cho Gabriel một bàn tay ấm áp ẩm ướt, rồi chẳng nói chẳng rằng dẫn ông tới Phòng Tranh Trắng. Lần này nó trống trơn. Gabriel ngồi xuống không đợi mời, nhưng Fallon vẫn đứng. Ông thọc tay vào túi, lấy ra mấy chiếc chìa khóa để mở một chiếc xe hơi cho thuê.
“Đấy là một chiếc Passat kiểu saloon như anh yêu cầu. Nếu anh có thể trả nó về nguyên vẹn, tôi sẽ đời đời nhớ ơn. Tôi không được sung túc như Thủ tướng.”
Fallon hơi mỉm cười vì câu nói đùa của chính mình. Thật hiển nhiên vì sao ông không mỉm cười thường xuyên hơn; hàm răng ông y như răng cá nhồng. Ông trao chùm chìa khóa cho Gabriel cùng với một tấm thẻ đậu xe.
“Nó để trong bãi đậu xe ở Ga Victoria. Lối vào ở —”
“Trên Phố Eccleston.”
“Xin lỗi,” Fallon nói rất thành thật. “Đôi lúc tôi quên mất mình đang làm việc với ai.”
“Tôi không quên đâu,” Gabriel nói.
Fallon im lặng.
“Xe màu gì vậy?”
“Màu Xám Đảo.”
“Màu Xám Đảo là cái quái quỷ gì vậy?”
“Đảo là không được đẹp lắm, bởi vì chiếc xe ấy quá đỗi sẫm màu.”
“Còn tiền?”
“Ở trong cốp xe, hai va li như bọn chúng đòi hỏi.”
“Xe để ở đó bao lâu rồi?”
“Từ sáng sớm hôm nay. Chính tôi đã bỏ lại nó ở đấy.”
“Hy vọng vẫn còn đó.”
“Tiền hay xe?”
“Cả hai.”
“Có thể xem đấy là nói đùa hay không?”
“Không đâu,” Gabriel đáp.
Mặt mày nhăn nhó, Fallon ngồi đối diện với Gabriel và ngắm những móng tay của mình. Còn lại rất ít móng.
“Tôi nợ anh một lời xin lỗi vì cách cư xử của mình đêm hôm qua,” một lát sau ông ta nói. “Tôi chỉ hành xử theo điều mà tôi tin đem lại lợi ích tốt nhất cho Thủ tướng của tôi.”
“Tôi cũng vậy,” Gabriel đáp lại.
Fallon dường như giật lùi lại. Như hầu hết những kẻ có quyền thế khác, ông ta không còn cái thói quen nói thẳng nói thật nữa.
“Graham Seymour đã cảnh báo với tôi thỉnh thoảng anh có thể nói năng cộc cằn.”
“Chỉ khi nào các sinh mạng bị đe dọa mà thôi,” Gabriel đáp lại. “Và ngay giây phút tôi leo lên ngồi sau tay lái của chiếc xe đó, sinh mạng của tôi sẽ lâm nguy. Tức là vào giây phút này tôi quyết định mọi việc.”
“Tôi không cần nhắc lại với anh vụ việc này phải được kết thúc càng kín đáo càng tốt.”
“Không, không cần đâu. Vì nếu không như vậy, Thủ tướng không phải là người duy nhất phải trả giá.”
Fallon không phản ứng lại, chỉ liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình. 11:40, hai mươi phút trước khi điện thoại được cho là sẽ reng lên. Ông ta đứng dậy với dáng vẻ của một người nhiều đêm ngủ không yên giấc.
“Thủ tướng đang họp với Bộ trưởng Ngoại giao trong Phòng Nội Các. Tôi định đến gặp họ trong vài phút. Sau đấy tôi sẽ đưa ông ấy ra đây để chờ cuộc gọi.”
“Chủ đề cuộc họp đó là gì vậy?”
“Chính sách của Vương quốc Anh liên quan đến xung đột giữa Israel và Palestine.”
“Đừng quên ông ấy đang giao tiền.”
Fallon lại mỉm cười gượng gạo và mệt mỏi tiến về phía cửa phòng.
“Ông có biết không?” Gabriel hỏi.
Fallon từ từ quay lại. “Biết gì?”
“Biết Lancaster và Madeline có quan hệ yêu đương.”
Ông ta ngần ngừ một lúc rồi mới trả lời. “Không, tôi không biết. Quả thật có nằm mơ tôi cũng chẳng bao giờ nghĩ ông ấy lại làm gì đấy gây nguy hại cho tất cả những vấn đề chúng tôi đã làm. Và điều khôi hài trong tất cả chuyện ấy,” ông nói thêm, “chính tôi là thằng ngốc đã giới thiệu họ với nhau.”
“Tại sao ông lại làm vậy?”
“Bởi vì Madeline đã là một phần thiết yếu trong hoạt động chính trị của chúng tôi. Và bởi vì cô ấy đã là một phụ nữ tài giỏi, cực kỳ sáng chói và tương lai phát triển vô hạn định.”
Gabriel ngạc nhiên vì Fallon dùng thì quá khứ khi nói về đồng nghiệp bị mất tích của mình. Ông ta cũng để ý thấy điều đó.
“Nghe có vẻ không hay, nhưng tôi đã không có ý nói như thế.”
“Ông nói đã là ý gì vậy?”
“Tôi không rõ,” ông ta đáp lại. Đó là ba từ ông không thường thốt ra. “Chỉ là cô ấy có lẽ không đúng là con người ấy sau một vụ việc như thế này, đúng không?”
“Con người có khả năng phục hồi hết sức nhanh chóng, ông không kịp nhận ra đâu, nhất là một phụ nữ. Với sự giúp đỡ đúng mức, cuối cùng cô ta có thể trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng ông nói đúng một điều,” Gabriel nói thêm, “cô ta sẽ không bao giờ trở lại đúng con người đó.”
Fallon đưa tay tới cánh cửa. “Anh còn cần gì nữa không?” ông ngoái đầu lại hỏi.
“Ngủ vài giờ sẽ rất tốt.”
“Làm thế nào anh ngủ được chứ?”
“Uống sữa không đường.”
Ông ta đi ra, nhẹ nhàng khép cửa lại sau lưng mình. Gabriel đứng dậy, bước tới chỗ bức tranh vẽ cảnh phố xá của Turner và đứng trước đó, một tay sờ cằm, còn cái đầu thì hơi nghiêng nghiêng sang một bên. Lúc đó là 11:43, còn mười bảy phút nữa sẽ tới lúc điện thoại theo dự định sẽ reng lên.
Fallon quay trở lại ngay trước giữa trưa, có Jonathan Lancaster đi theo. Sự thay hình đổi dạng của Thủ tướng thật đáng kể. Đã đi đâu mất rồi Lancaster mà Gabriel vừa thấy trên ti vi sáng sớm hôm ấy, nhà chính khách tự tin đang hứa hẹn sửa chữa cơ cấu xã hội Vương quốc Anh. Thay vào đó, giờ đây là một người đàn ông mà cuộc đời và sự nghiệp đang lâm vào mối nguy hiểm cận kề, sắp bị lộ tẩy trong một vụ bê bối chính trị ngoạn mục nhất trong lịch sử Vương quốc Anh. Hiển nhiên, Thủ tướng không thể chịu đựng nhiều hơn nữa trước khi bị phát hiện.
“Ông có chắc mình muốn tới đây vì vụ này hay không?” Gabriel hỏi khi bắt tay ông ta.
“Sao tôi lại không muốn chứ?”
“Vì có thể ông không thích mọi điều mình nghe thấy.”
Thủ tướng ngồi xuống, tỏ rõ mình không hề có ý định đi đâu cả. Fallon rút điện thoại di động từ trong túi áo khoác ra và đặt lên bàn salon. Gabriel nhanh chóng gỡ pin, làm lộ ra số sê-ri ghi trên mặt trong cái máy, rồi dùng điện thoại cá nhân hiệu BlackBerry của mình để chụp hình nhanh dãy số đó.
“Anh đang làm gì thế?” Thủ tướng hỏi.
“Trong mọi khả năng có thể xảy ra, bọn bắt cóc sẽ bảo tôi bỏ lại cái này ở một nơi sẽ không bao giờ tìm thấy.”
“Thế vì sao anh lại chụp ảnh nó?”
“Chính sách bảo hiểm,” Gabriel đáp.
Đút cái máy của mình vào túi áo khoác, ông lại mở máy của bọn bắt cóc. Đã 11:57. Giờ đây không còn gì để làm ngoài chờ đợi. Gabriel vượt trội hơn người về chờ đợi; theo các tính toán của riêng mình, ông đã dùng hơn nửa cuộc đời để làm việc đó. Chờ một xe lửa hay một máy bay. Chờ một nguồn nước. Chờ mặt trời lên sau một đêm giết chóc. Chờ bác sĩ nói vợ mình sẽ sống hay là chết. Ông đã hy vọng thái độ điềm tĩnh của mình sẽ trấn an Lancaster, nhưng dường như đã gây ra phản ứng trái ngược. Thủ tướng đang đăm đăm nhìn không chớp mắt màn hình hiển thị của cái điện thoại. Lúc 12:03 nó vẫn chưa chịu reng lên.
“Đang diễn ra cái quái gì thế?” cuối cùng ông ta hỏi với vẻ thất vọng.
“Chúng đang cố làm cho ông căng thẳng đó.”
“Bọn chúng làm việc này cực kỳ tài giỏi đấy.”
“Chính vì vậy tôi sẽ nói chuyện với chúng.”
Lại một phút nữa qua đi mà vẫn chưa liên lạc. Sau đó lúc 12:05, điện thoại reng lên và bắt đầu nhảy nhót ngang qua mặt bàn. Gabriel cầm nó lên và xem lai lịch của người gọi, trong lúc điện thoại rung lên trong bàn tay nắm chặt của ông. Như ông đã đoán, chúng đang dùng một điện thoại khác. Gabriel nhấc cái nắp máy lên và rất bình thản hỏi, “Tôi có thể giúp anh thế nào đây?”
Có một khoảnh khắc tạm dừng, trong thời gian ấy ông có thể nghe tiếng gõ lóc cóc của một bàn phím máy vi tính. Sau đó vọng tới giọng nói của một rô bốt.
“Ai đấy?” nó hỏi.
“Anh biết đây là ai rồi mà,” Gabriel đáp. “Cứ tiếp tục nói đi. Cô gái của tôi chờ đợi ngày hôm nay đã lâu rồi. Tôi muốn kết thúc vụ này và giải quyết càng nhanh càng tốt.”
Lại có một khoảnh khắc tạm dừng, thêm nhiều tiếng đánh máy chữ. Sau đó giọng nói ấy hỏi, “Anh có tiền chưa?”
“Tôi đang nhìn nó đây,” Gabriel đáp. “Mười triệu euro, không có đánh dấu, không đánh số liên tiếp, không cài tín hiệu dẫn đường, không bôi kem có phẩm nhuộm. Mọi điều anh đã yêu cầu. Tôi hy vọng anh có một ngân hàng bẩn thỉu rộng lượng để tùy ý sử dụng vì anh sắp cần tới nó.”
Ông liếc nhìn thật nhanh ông Thủ tướng dường như đang nhai gì đó bên trong cái má của ông. Fallon trông có vẻ như thể đã ngừng thở.
“Anh sẵn sàng nghe lời chỉ dẫn chứ?” cái giọng ấy hỏi sau một loạt tiếng đánh máy nữa.
“Tôi đã sẵn sàng rất nhiều phút rồi,” Gabriel đáp.
“Anh có gì đấy để viết không?”
“Cứ nói tiếp đi,” Gabriel có vẻ mất kiên nhẫn.
“Anh đang ở London đúng không?”
“Phải.”
“Anh có xe hơi không?”
“Có, tất nhiên.”
“Hãy lên chuyến phà bốn giờ bốn mươi từ Dover đi Calais. Bốn mươi phút sau khi khởi hành, hãy thả điện thoại này xuống Eo biển Manche. Khi tới Calais, hãy đi đến công viên trên phố Richelieu! Anh biết nó không?”
“Có, tôi biết.”
“Có một thùng rác ở góc Đông Nam. Điện thoại mới sẽ được dán băng keo dưới đáy. Sau khi lấy được nó, hãy trở về xe hơi của anh. Chúng tôi sẽ gọi và cho anh biết tiếp theo phải đi đâu.”
“Còn gì nữa không?”
“Hãy đến một mình, không có yểm trợ, không có cảnh sát. Và đừng lỡ chuyến phà bốn giờ bốn mươi. Nếu ông làm thế, cô gái phải chết.”
“Anh nói xong chưa?”
Im lặng ở đầu dây bên kia, không có tiếng nói, không gõ bàn phím.
“Tôi cứ coi như xong rồi đấy,” Gabriel nói. “Bây giờ hãy nghe cho kỹ vì tôi chỉ nói điều này một lần thôi. Đây là ngày trọng đại của anh. Anh đã làm rất cực nhọc, và kết cuộc gần như đã ở ngay trước mắt. Nhưng đừng phá hỏng nó vì làm điều gì đó ngu ngốc. Tôi chỉ quan tâm tới việc đưa cô gái về nhà an toàn thôi. Đây chỉ là làm ăn thôi, không hơn không kém. Chúng ta hãy làm việc này thật đàng hoàng.”
“Không có cảnh sát,” sau vài giây trì hoãn, giọng kia lại nói.
“Không có cảnh sát,” Gabriel lặp lại. “Nhưng hãy để tôi nói thêm một điều. Nếu các anh cố làm hại Madeline hoặc hại tôi, cục tình báo của tôi sẽ tìm ra các anh thật sự là ai. Rồi sau đó họ sẽ săn lùng và giết các anh. Chúng tôi nói vậy đã rõ chưa?”
Lần này không có phản ứng nào.
“Còn điều này nữa,” Gabriel nói. “Đừng bao giờ bắt tôi phải đợi một cuộc gọi trễ năm phút thêm lần nào nữa. Nếu các anh làm vậy, giao dịch sẽ chấm dứt.”
Nói xong Gabriel ngắt kết nối và nhìn Jonathan Lancaster.
“Tôi nghĩ diễn tiến thật tốt đẹp. Ông không nghĩ vậy sao, thưa Thủ tướng?”
Thật hiếm khi trông thấy một người đàn ông bước ra từ cửa trước nhà số 10 Phố Downing lại mặc quần jean xanh và áo khoác da màu đen, nhưng đó chính xác là điều đã xảy đến lúc 12:17 vào một buổi chiều lất phất mưa đầu tháng Mười. Đã năm tuần sau ngày Madeline Hart biến mất trên đảo Corse, tám ngày sau khi tấm hình và đoạn phim của cô bị bỏ lại tại nhà trợ lý báo chí Simon Hewitt, và mười hai giờ sau khi Thủ tướng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đồng ý trả mười triệu euro tiền chuộc để bảo đảm cho việc con tin được trở về an toàn. Anh cảnh sát đứng gác trong tiền sảnh chẳng hề hay biết chuyện này, tất nhiên như thế. Anh ta cũng không nhận ra người đàn ông mặc đồ không bình thường đó là điệp viên và sát thủ người Israel Gabriel Allon, cũng không biết bên trong áo khoác da màu đen của ông có một khẩu Beretta bán tự động đã nạp đầy đạn. Vì lẽ đó anh ta chúc ông một ngày vui vẻ rồi dõi mắt trông theo khi Gabriel đi trên Phố Downing tới cổng an ninh Whitehall. Khi Gabriel đi qua đó, một máy quay đã chụp nhanh một tấm hình của ông. Lúc đó là 12:19.
Jeremy Fallon đã để lại chiếc Passat trong khu không có mái che của bãi đậu xe ở Ga Victoria. Gabriel tới gần chiếc xe này như vẫn luôn tới gần một chiếc xe không phải của mình, một cách chậm chạp và với cảm giác sờ sợ. Ông đi quanh nó một vòng như thể đang xem xét kỹ một bức tranh để tìm những chỗ bị trầy trụa, rồi cố ý làm rớt chùm chìa khóa xuống cái nền lát gạch đỏ. Cúi sát xuống, ông nhìn lướt qua gầm xe. Thấy chẳng có gì không bình thường, ông lại đứng thẳng dậy và nhấn nút mở cốp xe. Cửa hậu từ từ nâng lên, để lộ hai va li ni lông loại sản xuất để bán giảm giá. Ông kéo dây khóa, lén nhìn vào bên trong và thấy hàng hàng lớp lớp những xấp tiền một trăm euro bó chặt.
Theo thông lệ ở London giờ đó tình trạng tắc nghẽn giao thông chỉ hơi thê thảm một chút. Gabriel băng qua Cầu Chelsea lúc một giờ, và sau nửa tiếng đã để lại vùng ngoại ô Nam London đằng sau mình rồi tăng tốc trên xa lộ M25. Lúc 2 giờ chiều ông mở Đài Phát thanh Số Bốn để lắng nghe một bản tin cập nhật. Rất ít thay đổi từ buổi sáng; Jonathan Lancaster vẫn nói về việc chữa lành những nỗi đau khổ của dân nghèo ở Đảo quốc Anh, và một công ty dầu khí của Nga vẫn đang dự định khoan dầu ở Bắc Hải. Chẳng hề đề cập đến Madeline Hart hay người đàn ông mặc quần jean xanh và áo khoác da sắp sửa trả mười triệu euro cho bọn bắt cóc cô. Người đàn ông lắng nghe bản tin thời tiết mới nhất và biết tình trạng được dự báo sẽ xấu đi nhanh chóng suốt cả buổi chiều, sẽ có mưa nặng hạt và gió nguy hiểm dọc theo duyên hải Eo biển Manche. Sau đó, ông tắt đài rồi lơ đãng mân mê cái bùa từ đảo Corse đang đeo quanh cổ.
Khi cô ấy đã chết, ông nghe mụ già nói. Lúc đó các anh mới biết được sự thật.