← Quay lại trang sách

Chương 25 THỊ TRẤN GRAND-FORT-PHILIPPE, PHÁP-

Ả MẤT CHƯA TỚI một phút để đi từ ngoài đường lên tới tầng ba của khách sạn. Gabriel dùng khoảng thời gian đó để dời hết đồ đạc làm chướng ngại vật ra khỏi tiền sảnh. Sau đó ông áp tai vào cánh cửa, lắng nghe tiếng gót giày của ả gõ lóc cóc như búa đóng đinh nhỏ đầu bẹt dọc theo cái sảnh không lót thảm ở bên ngoài. Đó là một cánh cửa tốt, rắn chắc và dày, đủ để làm chậm một viên đạn nhưng không dừng được nó. Ả đàn bà gõ cửa thật nhẹ như thể ngờ rằng có trẻ con đang ngủ ở trong phòng.

“Đi một mình à?” Gabriel hỏi bằng tiếng Pháp.

“Phải,” ả đáp.

“Có súng không?”

“Không.”

“Có biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tìm thấy súng trên người cô không?”

“Giao dịch sẽ chấm dứt.”

Gabriel mở cửa he hé, dây xích vẫn để y nguyên tại chỗ. Ông bảo, “Thò tay vào đi.”

Ả đàn bà ngần ngừ một lát rồi vâng lời. Bàn tay ả dài và tái xanh. Ả đeo một chiếc nhẫn duy nhất, một dải sợi bạc dệt lại, và có một hình xăm mặt trời nhỏ trên màng da giữa ngón cái và ngón trỏ. Gabriel siết chặt cổ tay ả rồi vặn nó thật đau đớn. Ở mặt dưới có một cái sẹo lành lặn đã lâu do cố tự sát lúc còn trẻ.

“Nếu còn muốn dùng lại bàn tay này thì phải làm đúng lời tôi nói. Có hiểu không?”

“Hiểu,” ả đàn bà thở hổn hển.

“Hãy buông cái ví xách tay xuống sàn nhà rồi lấy bàn chân đẩy nó tới chỗ tôi.”

Một lần nữa ả đàn bà lại vâng lời. Tay trái vẫn nắm quanh cổ tay ả, Gabriel cúi xuống, xổ những món đồ đựng bên trong cái ví xuống sàn nhà. Đó là những món vặt vãnh thông thường có thể thấy trong ví của phái nữ ở nước Pháp, trừ hai ngoại lệ đáng chú ý: một kính lúp của thợ kim hoàn và một đèn hồng ngoại cầm tay. Ông tháo dây xích ra khỏi cửa, và vặn cái cổ tay gần như muốn gãy, lôi ả vào bên trong. Dùng bàn chân, ông đóng cửa lại. Sau đó ông xô ả úp mặt vào tường rồi như đã hứa, khám xét toàn thân ả, tin chắc mình đang mò tới những nơi nhiều gã đàn ông khác từng tới.

“Ông có thấy thích thú không?”

“Có,” Gabriel đáp nghe không rõ. “Thật ra tôi không vui thích lắm vì lần trước phải mổ lấy đạn ra.”

“Tôi mong ông bị đau tay đấy.”

Ông giở mớ tóc giả màu đen rồi lùa những ngón tay qua mái tóc vàng hoe ngắn ngủn như con trai của ả đàn bà.

“Xong rồi à?” ả hỏi.

“Xoay lại đi.”

Ả làm theo, lần đầu tiên đối mặt với ông. Ả cao và ốm với đôi chân dài và cặp ngực nhỏ của một vũ nữ trong tranh Degas. Khuôn mặt hình trái tim của ả tinh quái và ngây thơ vô tội, trên đôi môi ả vẫn còn dấu vết mơ hồ của một nụ cười mai mỉa. Văn phòng rất ưa thích những gương mặt như mặt ả. Ông thắc mắc không biết bao nhiêu tài sản đã mất mát vì nó.

“Ta sẽ làm việc này thế nào đây?” ả hỏi.

“Theo cách thông thường,” Gabriel đáp. “Cô sẽ xem xét tiền, còn tôi sẽ chĩa súng vào đầu cô. Nếu cô làm bất cứ điều gì khiến tôi bực bội, tôi sẽ bắn nát óc cô đó.”

“Có phải ông vẫn luôn quyến rũ thế này không?”

“Chỉ với các cô gái tôi thật sự thích mà thôi.”

“Tiền ở đâu?”

“Dưới gầm giường.”

“Ông sẽ lấy cho tôi chứ?”

“Không có cơ hội đâu.”

Ả đàn bà thở ra nặng nề, quỳ dưới chân giường và cố lôi ra để lộ rõ chiếc va li đầu tiên. Mở nó ra, ả đếm số bó tiền theo từng chiều, mới đầu theo chiều thẳng đứng rồi theo chiều nằm ngang. Sau đó ả lôi ra một bó tiền từ chính giữa y như một nhà khí hậu học khoan đào một khối băng ở trung tâm, rồi cũng đếm những xấp tiền đó.

“Xong rồi à?” Gabriel hỏi, có ý châm chọc ả.

“Ta chỉ mới bắt đầu thôi mà.”

Ả chọn lựa sáu xấp tiền từ sáu chỗ khác nhau ở sáu độ sâu khác nhau rồi đếm từng tờ, đặt sang một bên một tờ từ mỗi xấp tiền. Ả đếm nhanh như người từng làm việc ở ngân hàng hay sòng bạc. Hoặc có lẽ, Gabriel nghĩ bụng, đơn giản chỉ là ả này từng dùng nhiều thời gian để đếm tiền ăn cắp được.

“Tôi cần lấy đồ nghề của mình,” ả nói.

“Cô tưởng tôi chịu quay lưng lại với cô sao?”

Ả bỏ sáu tờ một trăm euro lên giường rồi đi ra tiền sảnh để lấy kính lúp và đèn hồng ngoại. Khi trở vào, ả ngồi trên mép giường, dùng kính lúp săm soi từng tờ giấy bạc thật kỹ lưỡng, cố tìm cho ra bất cứ manh mối nào cho thấy có thể đó là tiền giả: một ảnh in không rõ, một con số hay chữ bị mất, một hình ba chiều hay một hình ẩn trông có vẻ không thật. Xem mỗi tờ phải mất hơn một phút. Khi sau cùng đã xem xong, ả đặt kính lúp xuống và cầm đèn hồng ngoại lên.

“Tôi cần tắt hết đèn trong phòng.”

“Bật cái đó lên trước đã,” Gabriel hất hàm về phía cái đèn hồng ngoại.

Ả bật lên. Gabriel đi vòng trong phòng tắt hết các bóng đèn cho tới khi chỉ còn lại ánh sáng rực rỡ hơi đỏ tía của cái đèn hồng ngoại. Ả dùng nó để soi kỹ từng tờ trong sáu tờ tiền giấy. Những vệt bảo an rực lên màu xanh lá mạ chứng tỏ đều là tiền thật.

“Tốt lắm,” ả nói.

“Cho cô hay tôi rất vui vì cô hài lòng.” Gabriel bật hết đèn trong phòng lên. “Bây giờ tôi có một yêu cầu. Hãy bảo Paul gọi cho tôi trong vòng một tiếng đồng hồ, bằng không giao dịch sẽ chấm dứt.”

“Ông ấy sẽ không thích làm thế đâu.”

“Hãy nói với hắn về số tiền. Hắn sẽ giải quyết cho xong vụ này.”

*

Ả đàn bà đội lại mớ tóc giả lên đầu, nhặt hết đồ của mình rồi bỏ đi chẳng nói thêm một lời nào. Gabriel dõi mắt nhìn theo khi ả lái xe ra đi từ chốt canh gác của mình trong khung cửa sổ. Rồi ông ngồi mãi ở đó, đăm đăm nhìn xuống đường phố ướt mưa, chờ đợi điện thoại reng lên. Cuộc gọi nhận được lúc 9:15 tối, sau một tiếng đồng hồ chính xác đến từng phút ấy. Sau khi chịu đựng một tràng chửi rủa phát từ máy vi tính, ông bình tĩnh đưa ra những đòi hỏi của mình. Có một khoảnh khắc im lặng, rồi đột nhiên vang lên tiếng gõ bàn phím và một giọng nói mong manh vô hồn toàn những từ nhấn sai trọng âm.

“Tôi chịu trách nhiệm,” nó nói, “chẳng phải anh.”

“Tôi hiểu,” Gabriel đáp trả, còn bình tĩnh hơn nữa. “Nhưng đây là giao dịch làm ăn, không hơn không kém. Tiền trao đổi với hàng. Và tôi sẽ tắc trách nếu không làm việc siêng năng đàng hoàng trước khi hoàn tất việc mua bán.”

Một khoảnh khắc tạm dừng nữa, thêm những tiếng đánh máy, rồi giọng nói cất lên.

“Cuộc gọi này kéo dài quá lâu rồi. Cúp máy đi, rồi chờ gọi lại.”

Gabriel làm theo lời nó. Một phút sau một cuộc gọi nhận được từ một máy khác. Giọng nói đưa ra một loạt hướng dẫn chi tiết mà ông đã chép lại trên một trang giấy trắng của Khách Sạn Biển.

“Lúc nào?” ông hỏi.

“Một giờ nữa,” giọng đó nói, rồi im bặt.

Gabriel tắt máy rồi đọc lại những lời hướng dẫn để chắc chắn mình đã ghi lại chính xác. Chỉ có một vấn đề.

Tiền.

Suốt năm phút kế tiếp Gabriel gọi ba cuộc điện thoại nhanh nối tiếp. Các cuộc gọi đầu tiên ông dùng điện thoại trong phòng: một cuộc gọi cho phòng kế bên, không có ai nghe máy, và cuộc gọi thứ nhì cho nhân viên trực đêm ở dưới lầu đang ngủ gà ngủ gật, xác nhận ở đó chưa có ai thuê. Ông đặt phòng ấy để qua đêm, hứa sẽ thanh toán đầy đủ trong vòng một tiếng đồng hồ. Sau đó dùng điện thoại di động cá nhân, ông gọi cho Christopher Keller.

“Anh đang ở đâu vậy?” Gabriel hỏi.

“Boulogne,” Keller đáp.

“Tôi cần anh đi qua lối vào Khách sạn Biển ở Grand-Fort-Philippe trong năm mươi lăm phút nữa.”

“Vì sao tôi phải làm thế?”

“Vì tôi có việc vặt phải chạy, và tôi cần bảo đảm không ai trộm hành lý khi tôi đi vắng.”

“Hành lý để ở đâu?”

“Dưới gầm giường phòng kế bên.”

“Ông đi đâu đấy?”

“Chưa biết nữa.”

Lại một giờ, lại chờ đợi. Gabriel dùng thời gian đó để sắp xếp trong phòng cho gọn ghẽ và pha một tách Nescafe có lẽ đậm đà nhất từ trước đến nay. Ông đang tiếp tục đêm thứ ba không ngủ: vùng núi Lubéron, Phố Downing và bây giờ ở đây. Gần tới rồi; ông có thể cảm thấy điều đó. Còn vài tiếng đồng hồ nữa thôi, ông thầm nghĩ trong lúc trút hết chất lỏng đắng nghét xuống cổ họng. Rồi sau đó ông sẽ ngủ cả tháng trời.

Lúc mười giờ mười phút, ông xuống cầu thang vào sảnh, ở đó ông báo cho nhân viên trực đêm Quý ông Duval sắp sửa tới nơi. Ông thanh toán đầy đủ tiền thuê phòng rồi để lại một phong bì nhờ đưa cho Quý ông Duval khi ông ấy nhận phòng. Sau đó, ông ra ngoài, leo lên ngồi đằng sau tay lái của chiếc Passat. Khi lái xe đi, ông nhìn kỹ trong kính chiếu hậu và thấy Keller đang đi vào khách sạn, đúng thời gian dự định.

Lần này, chẳng những bọn chúng cho ông một nơi đến mà còn định cả lộ trình đặc biệt nữa. Nó đưa ông băng qua những cánh đồng có cối xay gió, và cuối cùng tới những nhà máy khí đốt, các xưởng lọc dầu và các ga hàng hóa của vùng Tây Dunkirk. Trước mặt ông sừng sững một rặng núi đầy sỏi đá y như một phiên bản thu nhỏ của rặng Alps. Ông tăng tốc vượt qua đó trong một đám bụi mù, rồi rẽ sang một con đường hẹp trên mặt một con đê chắn sóng. Bên phải ông là những cần cẩu bốc hàng trên tàu bè của Cảng Dunkirk; bên trái là biển. Ông đánh dấu điểm xuất phát của con đường để xác định HÀNH TRÌNH trên đồng hồ đo quãng đường; rồi sau đúng một cây số rưỡi, ông tấp vào lề và tắt máy. Chiếc xe rùng mình trong cơn gió ẩm ướt, nặng nề. Gabriel leo ra, rồi kéo cổ áo khoác lên và bắt đầu băng qua bãi biển. Thủy triều đã rút; mặt cát cứng và phẳng lì như một bãi đậu xe. Ông dừng lại ở mép nước rồi ném khẩu Beretta xuống biển. Đó là một nơi kết thúc tốt đẹp với khẩu súng của một người lính, ông thầm nghĩ khi bắt đầu quay trở về phía chiếc xe. Dưới đáy đại dương, ngoài khơi những bãi biển của Dunkirk.

Khi trở lại đường, ông nhìn về cả hai hướng, hướng Đông rồi hướng Tây và lại nhìn về hướng Đông. Chẳng có ai khác ở xung quanh và chẳng có ánh đèn đầu xe nào tới gần, chỉ có ánh đèn của cần cẩu bốc dở hàng và ánh lửa khí đốt rực cháy xa xa trên nóc những nhà máy lọc dầu. Gabriel mở cửa hậu và để chiếc chìa khóa trên mặt đất ngay bên trong bánh xe sau bên trái. Sau đó, ông leo vào cốp xe, thu mình lại cong quắp cho vừa vặn như một bào thai rồi kéo cửa hậu đóng lại. Vài giây sau điện thoại reng lên.

“Vào rồi à?” giọng đó hỏi.

“Rồi.”

“Năm phút,” giọng đó lại nói.

Hóa ra lại đến gần mười phút rồi Gabriel mới nghe tiếng một chiếc xe dừng lại đằng sau xe mình. Ông nghe tiếng một cánh cửa mở ra rồi đóng lại, tiếp theo là một đôi giày cao cổ gõ lóc cóc trên đường nhựa như tiếng búa nện trên đinh nhỏ đầu bẹt. Đúng là ả đàn bà đó rồi, ông nghĩ bụng khi chiếc xe lắc lư chạy tới trước. Ông chắc chắn điều đó.

Một khi đã thoát khỏi Dunkirk, ả lái xe hết tốc lực trong hơn một tiếng đồng hồ, chỉ dừng hẳn lại hai lần. Sau đó ả rẽ sang một con đường đầy ổ gà và tiếp tục chạy hết tốc lực như thể để trừng phạt ông vì cái tội xấc láo đòi bằng chứng con tin còn sống rồi mới chịu giao mười triệu euro tiền chuộc. Ở một chỗ chiếc Passat bị dằn xóc với một tiếng phịch nặng nề do cọ xát. Với Gabriel, nghe như thể họ vừa đụng vào một tảng băng trôi.

Con đường gồ ghề chẳng bao lâu sau nhường chỗ cho lớp sỏi dày êm ái, rồi tới một sàn bê tông của một ga ra. Gabriel biết điều này vì khi xe dừng lại, tiếng máy nổ rung lên từ thành xe truyền sang mình. Một lát sau tất cả im lặng, rồi ả đàn bà leo ra, gót giày của ả gõ lóc cóc lớn tiếng trên sàn. Cốp xe mở he hé, rồi bàn tay dài tái xanh đút vào một cái bao vải, ông lập tức trùm nó lên đầu.

“Sẵn sàng chưa?” ả hỏi.

“Rồi.”

“Có biết chuyện gì sẽ xảy đến nếu chiếc mũ trùm ấy rơi ra không?”

“Cô gái phải chết.”

Gabriel nghe tiếng cửa cốp xe nâng lên. Rồi hai đôi bàn tay hiển nhiên của hai thằng đàn ông túm lấy ông, một thằng nắm vai, thằng kia nắm chân, khiêng ông ra. Chúng đặt ông đứng trên hai bàn chân một cách nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên, xem cho chắc ông đã đứng vững rồi mới khóa chặt hai bàn tay đằng sau lưng bằng một cặp còng răng cưa. Sau đó, bọn chúng nắm chặt hai cùi chỏ của ông rồi vừa nhấc lên vừa đẩy ông bước qua bãi sỏi, hơi chậm lại một chút để giúp ông lên các bậc thềm bằng gạch và qua một khung cửa.

Sàn nhà bên trong lót ván không bằng phẳng, như những tấm ván sàn của một căn nhà ở trang trại cũ. Vì bọn chúng cứ nhanh chóng rẽ qua rẽ lại nên ông có cảm giác như bị một nhân vật đầy quyền lực giải đi. Họ trèo xuống một tầng cầu thang dốc rồi vào một cái hầm mát mẻ bốc mùi đá vôi ẩm mốc. Những bàn tay đẩy ông tới trước một quãng khá xa nữa, thình lình giật cho ông dừng lại rồi từ từ thả ông ngồi xuống mép một cái giường nhỏ. Gabriel nghe kỹ tiếng giậm chân của bọn bắt người khi chúng rút lui, cố xác định có bao nhiêu đứa. Rồi một cánh cửa nặng nề đóng sập lại như âm thanh cuối cùng của một cái nắp quan tài. Sau đó hoàn toàn không có âm thanh nào cả. Chỉ có mùi hương. Một loại mùi nặng nề và gây buồn nôn. Mùi của một con người bị cầm tù.

Gabriel ngồi bất động và lặng thinh, tin chắc mình đã bị bỏ lại một mình. Nhưng vài giây sau, một bàn tay giở cái mũ trùm ra khỏi đầu ông. Đó là bàn tay của một phụ nữ trẻ, hốc hác, xanh xao như màu men sứ, nhưng lại có nét đẹp thanh tú.

“Tôi là Madeline Hart,” cô nói. “Ông là ai?”