← Quay lại trang sách

Chương 30 TIBERIAS, ISRAEL-

BUỔI TỐI HÔM ấy là lễ Shabbat, Shamron mời hai vợ chồng tới dùng bữa tối tại nhà ông ta ở Tiberias. Đó thật ra không phải một lời mời, vì lời mời có thể bị khước từ một cách lịch sự. Đó là một điều giới răn khắc ghi trên đá, không thể nào vi phạm. Gabriel dùng buổi sáng để thu xếp việc gửi bức tranh bằng tàu thủy cho Julian Isherwood ở London. Sau đó, ông lái xe băng qua Jerusalem để rước Chiara ở Viện Bảo tàng Israel. Khi họ tăng tốc xuôi theo Bab al-Wad, hẻm núi như những bậc thang nối liền Jerusalem với Đồng bằng Duyên hải, các chiến binh Palestine ở Dải Gaza phóng cả một giàn tên lửa rơi xuống đất thật xa về phía Bắc tới tận Ashdod. Chỉ có thương vong không đáng kể trong cuộc tấn công, nhưng nó gây ách tắc lưu thông qua cái eo chật hẹp của đất nước khi hàng ngàn hàng khách hối hả quay trở về nhà để dự lễ Sabbath. Chỉ có ở Israel mà thôi, Gabriel thầm nghĩ, có khi phải chờ cả tiếng đồng hồ thì dòng xe cộ mới chịu nhúc nhích. Thật tuyệt khi lại trở về quê nhà mình.

Cuối cùng khi đã tới được vùng đất bằng phẳng của Đồng bằng Duyên hải, họ tiến về hướng Bắc đến Galilee và đi về hướng Đông xuyên qua một chuỗi các thị trấn và làng mạc Ả Rập rồi mới đến Tiberias. Biệt thự màu mật ong của Shamron cách xa vài dặm bên ngoài thành phố, trên một bờ dốc cheo leo nhìn ra hồ nước. Để đến được nơi đó đòi hỏi phải lái xe lên một lối vào nhà rất dốc. Khi Gabriel và Chiara đi vào, chính bà Gilah chào đón họ. Ông Shamron đang đứng trước ti vi, điện thoại áp sát tai. Cặp mắt kính gọng kim loại xấu xí được kéo lên trên trán, và ông đang day sống mũi của mình bằng ngón cái và ngón trỏ. Nếu như lúc nào đó người ta dựng tượng của ông, Gabriel thầm nghĩ, chắc hẳn sẽ được đúc theo tư thế đó.

“Ông nhà đang nói chuyện với ai vậy bà?” Gabriel hỏi thăm bà Gilah.

“Anh nghĩ là ai?”

“Thủ tướng phải không?”

Bà Gilah gật đầu. “Ông Ari nghĩ chúng ta cần phải trả đũa. Thủ tướng không chắc chắn như vậy.”

Gabriel đưa cho bà một chai rượu, thứ rượu vang đỏ Bordeaux từ vùng Đồi Judean, rồi hôn má bà. Nó mịn như nhung và thơm mùi hoa tử đinh hương.

“Anh kêu ông ấy bỏ điện thoại ra đi, Gabriel, ông Ari sẽ nghe anh nói.”

“Thà tôi lãnh trực tiếp một trong những tên lửa của Palestine còn hơn.”

Bà chủ nhà mỉm cười rồi dẫn hai vợ chồng vào trong nhà bếp. Xếp ngay ngắn trên mặt bàn là những đĩa gỗ được bày biện thức ăn trông thật ngon lành; chắc hẳn bà đã nấu ăn suốt cả ngày. Gabriel cố vồ lấy một miếng cà nấu với gia vị Morocco, là món nổi tiếng của bà, nhưng bà đã vỗ đùa lên mu bàn tay ông.

“Bà định nấu cho bao nhiêu người ăn đây?” ông hỏi.

“Yonatan và cả nhà đáng lẽ đã tới, nhưng nó không đi được vì cuộc tấn công.”

Yonatan là con đầu lòng của Shamron. Anh ta là một sĩ quan cấp tướng trong Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF), và có tin đồn anh ta đang chạy đua để trở thành tham mưu trưởng kế nhiệm.

“Vài phút nữa chúng ta sẽ ăn,” bà Gilah nói. “Anh ra ngồi với ông Ari một lát đi. Ông ta nhớ anh kinh khủng khi anh đi xa đó.”

“Tôi chỉ đi hai tuần thôi mà, bà Gilah à.”

“Vào giai đoạn này của cuộc đời ông ấy, hai tuần là một thời gian dài.”

Gabriel khui chai rượu vang, rót vào hai cái ly rồi mang ra phòng kế bên. Shamron không còn nghe điện thoại nữa, nhưng vẫn nhìn chằm chặp cái ti vi.

“Chúng vừa phóng một giàn tên lửa nữa,” ông nói. “Chỉ vài giây nữa thôi, tên lửa sẽ bắt đầu tiếp đất.”

“Sẽ có phản pháo chứ?”

“Bây giờ thì không. Nhưng nếu cứ tiếp tục, chúng ta sẽ không có chọn lựa nào khác ngoài hành động. Vấn đề là Ai Cập sẽ làm gì, khi hiện thời được cai trị bởi bọn Huynh đệ Hồi giáo? Liệu chúng có khoanh tay đứng nhìn khi chúng ta tấn công Hamas* hay không? Dù sao bọn này cũng cùng một phe với Huynh đệ Hồi giáo. Liệu hòa ước Trại David* có còn được duy trì hay không? “

Viết tắt của “Harakat al-Muqawama al-Islamiyya”: Phong trào Kháng chiến Hồi giáo

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã chủ trì các cuộc đàm phán ở Trại David (khu nghỉ dưỡng của các tổng thống Mỹ ở Công viên Núi Catoctin, trung tâm bang Maryland, được Tổng thống Franklin D. Roosevelt lập ra năm 1942) năm 1978 giữa Menachem Begin và Anwar al-Sadat, thủ tướng Israel và tổng thống Ai cập, dẫn đến Hòa ước Trại David, làm khuôn khổ cho hòa bình ở Trung Đông.

“Uzi nói gì?”

“Vào thời điểm này, Văn phòng không đủ khả năng tiên đoán một cách chắc chắn lãnh đạo Ai Cập sẽ phản ứng ra sao nếu chúng ta tiến quân vào Dải Gaza. Vì vậy mà Thủ tướng, ít ra vào lúc này, chẳng muốn làm gì hết trong khi tên lửa rớt xuống như mưa trên đầu nhân dân mình.”

Gabriel ngó màn ảnh; các tên lửa đang bắt đầu rơi. Sau đó, ông tắt ti vi rồi dẫn Shamron ra nền cao ở bên ngoài. Nơi này ấm áp hơn Jerusalem, và một làn gió dịu dàng thổi tới từ Cao nguyên Golan đang tạo những hình mẫu trên mặt hồ lấp lánh Hamas* hay không? Dù sao bọn này cũng cùng một phe với Huynh đệ Hồi giáo. Liệu hòa ước Trại David* có còn được duy trì hay không? “

Viết tắt của “Harakat al-Muqawama al-Islamiyya”: Phong trào Kháng chiến Hồi giáo

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã chủ trì các cuộc đàm phán ở Trại David (khu nghỉ dưỡng của các tổng thống Mỹ ở Công viên Núi Catoctin, trung tâm bang Maryland, được Tổng thống Franklin D. Roosevelt lập ra năm 1942) năm 1978 giữa Menachem Begin và Anwar al-Sadat, thủ tướng Israel và tổng thống Ai cập, dẫn đến Hòa ước Trại David, làm khuôn khổ cho hòa bình ở Trung Đông.

“Uzi nói gì?”

“Vào thời điểm này, Văn phòng không đủ khả năng tiên đoán một cách chắc chắn lãnh đạo Ai Cập sẽ phản ứng ra sao nếu chúng ta tiến quân vào Dải Gaza. Vì vậy mà Thủ tướng, ít ra vào lúc này, chẳng muốn làm gì hết trong khi tên lửa rớt xuống như mưa trên đầu nhân dân mình.”

Gabriel ngó màn ảnh; các tên lửa đang bắt đầu rơi. Sau đó, ông tắt ti vi rồi dẫn Shamron ra nền cao ở bên ngoài. Nơi này ấm áp hơn Jerusalem, và một làn gió dịu dàng thổi tới từ Cao nguyên Golan đang tạo những hình mẫu trên mặt hồ lấp lánh ánh bạc. Ông già ngồi xuống một trong mấy cái ghế bằng sắt kê dọc theo hàng lan can và lập tức châm một điếu thuốc bốc mùi hôi hám của ông. Gabriel đưa cho ông một ly rượu vang rồi ngồi kế bên.

“Thứ này vốn không hại gì trái tim tôi,” ông nói sau khi uống đôi chút rượu vang, “nhưng tôi đã trở nên mê thích nó khi đã già lú lẫn. Chắc là nó nhắc tôi nhớ tới tất cả những việc tôi chưa bao giờ có thời gian để làm lúc còn trẻ: rượu, con cái, các kỳ nghỉ.” Ông tạm dừng, rồi nói thêm, “Cuộc sống.”

“Vẫn còn thời gian mà, Ari.”

“Xin đừng nói với tôi những lời sáo rỗng,” Shamron nói. “Thời gian bây giờ với tôi là kẻ thù, con trai à.”

“Vậy tại sao ông lại đang lãng phí một phút liên quan tới sự nghiệp chính trị của mình vậy?”

“Có khác biệt giữa chính trị và an ninh.”

“An ninh gần như là phần nối dài của chính trị, Ari à.”

“Còn nếu anh là người đang khuyên Thủ tướng phải làm gì về vụ phóng tên lửa thì sao?”

“Khuyên nhủ là công việc của Uzi, không phải của tôi.” Shamron bỏ đề tài ấy ngay tức thì. “Tôi đã hết sức quan tâm theo dõi tin tức từ London,” ông nói. “Có vẻ như ông bạn Jonathan Lancaster của anh vẫn ổn trên con đường tiến tới thắng lợi.”

“Ông ta có lẽ là chính khách may mắn nhất hành tinh.”

“May mắn là một điều quan trọng trên đời. Tôi chưa bao giờ gặp nhiều may mắn. Anh cũng không may trong vụ đó.”

Gabriel chẳng nói gì.

“Không cần phải nói,” ông già tiếp tục, “chúng ta thiết tha hy vọng xu hướng hiện thời trong cuộc bầu cử vẫn tiếp tục, và Lancaster luôn chiếm ưu thế. Nếu tình hình là như vậy, chúng ta tin chắc ông ta sẽ là chính khách Anh ủng hộ công cuộc phục quốc Do Thái mạnh mẽ nhất từ thời Arthur Balfour.”

“Ông là kẻ lai căng vọng ngoại tàn nhẫn.”

“Phải có ai đó như vậy chứ.” Ông già ngó Gabriel thật nghiêm túc. “Xin lỗi vì đã từng để cho anh dính líu vào vụ này.”

“Ông đã có được đúng những gì ông muốn rồi,” Gabriel nói. “Lancaster có thể cũng có tên trên danh sách nhân viên của Văn phòng, ông ta là nhà lãnh đạo tồi tệ hết mức có thể. Ông ta đã thỏa hiệp.”

“Đó là việc ông ta đã làm, không phải chúng ta.”

“Đúng vậy,” Gabriel đáp lại. “Nhưng chính Madeline Hart là người trả giá.”

“Ông ta có lẽ là chính khách may mắn nhất hành tinh.”

“May mắn là một điều quan trọng trên đời. Tôi chưa bao giờ gặp nhiều may mắn. Anh cũng không may trong vụ đó.”

Gabriel chẳng nói gì.

“Không cần phải nói,” ông già tiếp tục, “chúng ta thiết tha hy vọng xu hướng hiện thời trong cuộc bầu cử vẫn tiếp tục, và Lancaster luôn chiếm ưu thế. Nếu tình hình là như vậy, chúng ta tin chắc ông ta sẽ là chính khách Anh ủng hộ công cuộc phục quốc Do Thái mạnh mẽ nhất từ thời Arthur Balfour.”

“Ông là kẻ lai căng vọng ngoại tàn nhẫn.”

“Phải có ai đó như vậy chứ.” Ông già ngó Gabriel thật nghiêm túc. “Xin lỗi vì đã từng để cho anh dính líu vào vụ này.”

“Ông đã có được đúng những gì ông muốn rồi,” Gabriel nói. “Lancaster có thể cũng có tên trên danh sách nhân viên của Văn phòng, ông ta là nhà lãnh đạo tồi tệ hết mức có thể. Ông ta đã thỏa hiệp.”

“Đó là việc ông ta đã làm, không phải chúng ta.”

“Đúng vậy,” Gabriel đáp lại. “Nhưng chính Madeline Hart là người trả giá.”

“Anh phải cố gắng để quên cô ta đi.”

“Tôi e rằng mình đã nói gì đó với bọn bắt cóc, nên việc đó không thành.”

“Anh đã dọa sẽ giết chúng nếu chúng làm hại cô ta à?”

Gabriel gật đầu.

“Lời đe dọa giết chết cũng như những lời thề thốt yêu đương bất tận thầm thì vào tai một kẻ quá đỗi đam mê... dễ làm, nhưng sẽ chóng quên thôi.”

“Với tôi không phải vậy.”

Shamron bóp cho đầu điếu thuốc đang cháy rớt ra, có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. “Anh làm tôi ngạc nhiên, con trai à. Nhưng Uzi không như vậy. Anh ta tiên đoán cậu sẽ muốn truy tìm chúng. Vì vậy anh ta đã rút khỏi vụ này rồi.”

“Vậy làm việc này tôi sẽ không được anh ta ủng hộ sao?”

“Nghĩa là anh sẽ ra trận mạc chỉ có một mình, không có nguồn cung cấp của Văn phòng, cũng chẳng được Văn phòng bảo vệ.”

Gabriel lặng thinh.

“Và nếu tôi ngăn cấm không cho anh đi thì sao? Anh có nghe lời tôi không?”

“Có, thưa Abba.*”

Thượng Đế, hay người đáng tôn kính như các tộc trưởng, giáo trưởng...; nguyên gốc theo ngôn ngữ cổ vùng cận Đông và Hy Lạp nghĩa là “cha”

“Thật vậy sao?” Shamron ngạc nhiên hỏi.

Gabriel gật đầu đáp lại.

“Còn nếu tôi cho phép anh tìm những gã đàn ông này để xử một bản án xứng đáng với chúng thì sao? Đổi lại tôi sẽ được cái gì?”

“Không lẽ chuyện gì cũng phải thương lượng với ông sao?”

“Phải.”

“Ông muốn gì vậy?”

“Anh biết tôi muốn gì rồi mà.” Ông già tạm dừng, rồi nói thêm, “Và Thủ tướng cũng muốn điều đó.”

Ông uống rượu vang và đốt thêm một điếu thuốc nữa.

“Đây là một thời kỳ rối ren trọng yếu mà chúng ta đang trải qua, và các thách thức chỉ nghiêm trọng hơn mà thôi. Những quyết định chúng ta sẽ đề ra trong những tháng năm sắp tới sẽ xác định việc làm táo bạo đó thành công hay thất bại. Làm sao anh có thể bỏ qua một dịp may định hướng lịch sử chứ?”

“Tôi đã định hướng lịch sử, Ari à. Nhiều, nhiều lần rồi.”

“Vậy cứ cất súng trên ngăn kệ đi, rồi dùng đầu óc đó để đánh bại kẻ thù của chúng ta. Hãy đánh cắp bí mật của chúng. Tuyển dụng các điệp viên và tướng của chúng làm nhân viên. Cứ làm cho chúng bối rối và lầm lẫn. Bằng cách lừa gạt, con trai à, anh sẽ là người gây chiến.”

Gabriel lặng thinh. Bầu trời trên cao nguyên Golan đang chuyển sang màu xanh đen vì đêm đang đến, và hồ nước giờ đây gần như không trông thấy được. Shamron yêu thích khung cảnh này, vì nó giúp ông canh chừng kẻ thù từ xa. Gabriel yêu nó vì đã để ý nhìn ngắm nó khi tuyên đọc lời thề nguyền trong hôn lễ với Chiara. Bây giờ, ông sắp thề thốt theo một kiểu khác, lời thề này sẽ làm cho một ông già rất vui sướng.

“Tôi sẽ không theo bất cứ kiểu phe đảng nào trong một cuộc đảo chính,” cuối cùng Gabriel nói. “Tôi và Uzi đã có quá nhiều khác biệt sau nhiều năm, nhưng chúng tôi đã trở thành bạn bè.”

Ông già biết tốt hơn hết đừng nói gì. Ông có cái tài nín lặng của một người chuyên tra hỏi.

“Nếu Thủ tướng quyết định không bổ nhiệm Uzi thêm một nhiệm kỳ thứ hai,” Gabriel tiếp tục, “tôi sẽ suy xét lời đề nghị trở thành người quản lý kế nhiệm của Văn phòng.”

“Tôi quan tâm những chuyện vụn vặt hơn là điều đó.”

“Đó là những gì tốt nhất ông sẽ có được.”

“Thương lượng với bọn bắt cóc đã khiến anh sắc bén hơn rồi đó.”

“Phải, đúng như vậy.”

“Anh định bắt đầu từ đâu?”

“Tôi vẫn chưa quyết định.”

“Cậu sẽ làm gì để có tiền?”

“Tôi đã tìm thấy vài ngàn euro vương vãi khắp một con thuyền ở Marseilles.”

“Thuyền đó thuộc sở hữu của ai?”

“Một gã buôn lậu tên là Marcel Lacroix.”

“Bây giờ hắn đang ở đâu?”

Gabriel kể chuyện cho ông ta nghe.

“Tội nghiệp thằng quỷ.”

“Cho hắn chết vẫn hơn là theo dõi.”

Chỉ cần anh bảo đảm không cùng một hạng với chúng. Tôi có những kế hoạch cho anh.”

“Tôi đã nói sẽ suy xét chuyện đó mà, ông Ari. Tôi chưa đồng ý bất cứ điều gì.”

“Tôi biết,” Shamron nói. “Nhưng tôi cũng biết anh sẽ không bao giờ lừa tôi để đạt được điều anh muốn. Anh không giống tôi. Anh còn có lương tâm.”

“Thì ông cũng có thôi, Ari à. Chính vì vậy đêm ông không ngủ được.”

“Cái gì đó nói với tôi đêm nay tôi sẽ ngủ ngon giấc.”

“Đừng để bị cuốn đi,” Gabriel nói. “Tôi còn phải bàn với Chiara về tất cả chuyện này.”

Ông già mỉm cười.

“Có gì quá tức cười à?” Gabriel hỏi.

“Anh nghĩ đó là ý kiến của ai?”

“Ông là kẻ lai căng tàn nhẫn.”

“Phải có ai đó như vậy chứ.”

Thế nhưng, Gabriel phải bắt đầu tìm kiếm những kẻ giết Madeline ở đâu? Nơi hợp lý nhất là bên trong các tổ chức tội phạm của Marseilles. Ông có thể định vị đồng bọn của Marcel Lacroix và René Brossard, giám sát chúng, mua chuộc chúng, tra hỏi chúng, làm đau đớn vài đứa nếu cần thiết, cho tới khi biết được lai lịch của gã đàn ông tự xưng là Paul. Gã đàn ông đã gọi Madeline tới dùng bữa ở nhà hàng Les Palmiers vào ngày cô biến mất. Gã đàn ông nói tiếng Pháp như thể học được từ một cuộn băng. Nhưng có một vấn để với kế hoạch ấy: nếu ông đến Marseilles, chắc chắn sẽ đụng độ với cảnh sát Pháp. Ngoài ra, ông nghĩ gã đàn ông được biết là Paul giờ đây có lẽ đã cao chạy xa bay rồi. Do đó, ông quyết định sẽ bắt đầu cuộc lùng kiếm của mình không phải với thủ phạm đã gây ra tội ác mà với hai nạn nhân. Kẻ nào đó đã biết được quan hệ yêu đương giữa Jonathan Lancaster và Madeline Hart. Và kẻ nào đó đã chuyển thông tin ấy cho gã đàn ông được biết đến với cái tên là Paul. Tìm ra những kẻ đó, cùng với sự suy luận, ông sẽ tìm ra Paul.

Dù vậy, bây giờ Gabriel cần tìm ra một kẻ khác trước tiên. Kẻ nào đó đã theo dõi Lancaster khi ông ta lên cầm quyền. Kẻ nào đó biết động cơ thúc đẩy quan hệ của ông ta với Jeremy Fallon. Kẻ nào đó biết chỗ chôn các xác chết. Ông tìm thấy kẻ đó vào sáng hôm sau, trong khi đọc tin tức đăng trên báo về cuộc vận động bầu cử ở Vương quốc Anh. Sẽ phức tạp, thậm chí còn nguy hiểm nữa. Nhưng nếu nó cung cấp thông tin dẫn dắt ông tới bọn đã giết cô gái thì có liều mạng cũng rất xứng đáng.

Ông dùng phần còn lại của buổi sáng để chuẩn bị một hồ sơ chi tiết. Sau đó, ông bỏ vào một cái túi ngủ qua đêm hai bộ đồ và hai căn cước để thay đổi. Tối hôm ấy, ông bay từ sân bay Ben Gurion tới Paris, và giữa trưa ngày hôm sau một lần nữa ông lại ở trên đảo Corse, ông còn cần một thứ nữa rồi mới có thể bắt đầu cuộc tìm kiếm. Ông cần một đồng lõa. Một kẻ vô cùng tài giỏi, cực kỳ tàn nhẫn và táng tận lương tâm.

Ông cần Christopher Keller.