← Quay lại trang sách

Chương 31 ĐẢO CORSE-

HÒN ĐẢO ĐÃ thay đổi từ cuộc viếng thăm lần trước của Gabriel. Các bãi biển hoang vắng, có những bàn ăn xinh xắn được bày biện trong những nhà hàng còn tuyệt vời hơn, và cái chợ trời không còn những người từ đất liền cởi trần trố mắt ngưỡng mộ, nhưng hiếm khi lục ví lấy tiền. Đảo Corse một lần nữa lại thuộc quyền sở hữu của dân đảo Corse. Và vì lẽ đó, ngay cả những người buồn rầu nhất trong các cư dân trên đảo cũng rất biết ơn.

Tuy nhiên, có nhiều điều khác vẫn không hề thay đổi. Cũng cái mùi hương say đắm của macchia chào đón Gabriel khi ông từ bờ biển rẽ vào nội địa; cũng bà già chỉ vào ông với ngón trỏ và ngón út khi ông lái xe qua thị trấn cô quạnh trên đồi; và cũng hai gã bảo vệ gật đầu đe dọa khi ông tăng tốc vượt qua cổng vào đồn điền của ông trùm Anton Orsati.

Gabriel đi men theo con đường cho tới khi nó rẽ vào nơi đầy cát bụi, và ông theo lối đó đi xa hơn một chút nữa. Rồi khi ông vòng qua khúc quanh gấp bên tay trái gần ba cây ô liu cổ thụ, con dê palomino thảm hại của Ông trùm Casablanca đang ở đó để cản đường không cho ông đi qua. Vừa trông thấy ông, nó đã sa sầm nét mặt, như thể nhớ lại hoàn cảnh của lần gặp gỡ trước và giờ đây dự định đáp trả lại ân huệ đó. Qua cửa kính xe hơi đang mở, ông lịch sự yêu cầu con dê tránh đường. Và khi con vật hất cằm lên tỏ vẻ khinh miệt, ông leo xuống xe, cúi sát lỗ tai già nua tơi tả của nó và thầm thì một lời đe dọa rất giống lời ông đã hăm he bọn bắt cóc. Ngay tức thì con dê xoay mình, hấp tấp rút lui vào macchia. Nó cũng hèn nhát như hầu hết những tên bạo chúa.

Gabriel leo trở vào xe hơi và lái đi tiếp quãng đường còn lại tới biệt thự của Keller, ông đậu xe trên lối vào nhà, dưới bóng một cây thông laricio và cất tiếng chào từ nền cao nhưng không ai đáp lại. Cửa không khóa; ông bước đi từ gian phòng rộng đẹp này sang gian phòng kế tiếp nhưng thấy phòng nào phòng nấy đều không có người. Sau đó, ông vào nhà bếp và mở tủ lạnh. Không có sữa, không có thịt, không có trứng, không có gì có thể hư thối. Chỉ có ít bia, một hộp mù tạc Dijon và một chai Sancerre khá ngon, ông khui chai rượu và gọi cho ông trùm Orsati.

*

Keller đã đi làm công chuyện. Lục địa châu Âu, một nước không phải là nước Pháp - cũng xa xôi như nơi tên trùm sẽ đi. Nếu mọi sự tiến hành theo đúng kế hoạch, y sẽ về tới đảo tối hôm đó, trễ nhất là sáng hôm sau. Tên trùm bảo ông cứ lưu lại biệt thự của Keller và cứ tự nhiên thoải mái như ở nhà mình. Hắn nói rất tiếc về việc đã xảy ra “Ở tận phương Bắc.” Hiển nhiên, Keller đã kể đầy đủ chi tiết cho hắn nghe.

“Thế chuyện gì đã đưa ông trở lại đảo Corse?” tên trùm hỏi.

“Tôi đã trả cho một gã đàn ông một số tiền rất lớn, và bọn chúng không chịu giao hàng như đã hứa.”

“Một khoản tiền rất lớn đấy,” tên trùm đồng ý.

“Ông sẽ làm gì nếu ở vào địa vị của tôi?”

“Trước hết, hẳn tôi chẳng bao giờ chịu giúp một kẻ như Jonathan Lancaster.”

“Thế giới này rắc rối phức tạp lắm, Trùm Orsati à.”

“Quả thế,” tên trùm có vẻ trầm ngâm như một triết gia. “Còn về vấn đề của ông trong việc làm ăn, ông có hai lựa chọn, ông có thể làm hết sức mình để quên cô gái người Anh đi, hoặc ông có thể trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.”

“Ông sẽ làm gì?”

“Ở đây trên đảo Corse bọn tôi có một câu tục ngữ cổ xưa: người có đạo tha thứ, đứa đần độn quên đi.”

“Tôi không phải là đứa đần độn.”

“Cũng chẳng phải người theo đạo Thiên Chúa,” Orsati nói, “nhưng tôi không lấy chuyện ấy để đả kích ông đâu.”

Tên trùm bảo ông cứ giữ đường dây, trong khi hắn xử lý một khủng hoảng không quan trọng. Dường như một chuyến tàu chở rất nhiều dầu đến một nhà hàng ở Zurich đã bị mất tích. Gabriel có thể nghe thấy hắn quát tháo một thuộc hạ bằng phương ngữ đảo Corse, ở bất cứ hãng xưởng nào khác, lời hăm dọa có thể đã bị bỏ ngoài tai như một lời quát nạt của người quản lý. Nhưng không phải như vậy ở Công ty Dầu ô liu Orsati.

“Ta nói đến đâu rồi nhỉ?” tên trùm hỏi.

“Ông vừa nói gì đó về người có đạo và đứa đần độn. Và ông sắp sửa đưa ra một cái giá quá cao mà tôi phải trả để được quyền mượn Keller.”

“Hắn là nhân viên đáng giá nhất của tôi mà.”

“Hiển nhiên vì lý do đó rồi.”

Tên trùm im lặng một lúc. Gabriel có thể nghe thấy hắn đang nhâm nhi cà phê.

“Quan trọng ở chỗ vụ này giải quyết cái gì chứ không chỉ là chuyện đổ máu,” một lát sau hắn nói. “Ông cũng phải lấy lại tiền.”

“Và nếu tôi có thể lấy lại thì sao?”

“Một khoản tiền nhỏ cống nạp cho bố già đảo Corse của ông mới là phải phép đấy.”

“Nhỏ là bao nhiêu?”

“Một triệu là vừa đủ.”

“Khá quá đáng đó, ông trùm Orsati.”

“Tôi sẽ đòi năm triệu đấy.”

Gabriel suy nghĩ một lát rồi đồng ý với điều kiện đó. “Nhưng chỉ khi nào tôi tìm được tiền,” ông giao ước. “Bằng không tôi sẽ tha hồ sử dụng Keller khi thấy thích hợp, khỏi phải trả tiền.”

“Được rồi,” Orsati nói. “Nhưng phải bảo đảm đưa hắn về nhà nguyên vẹn đấy. Nên nhớ tiền không phải hát hay mà có được đâu.”

Gabriel yên vị trên nền cao với chai Sancerre và xấp hồ sơ dày cộm về các công việc nội bộ của Phố Downing dưới sự điều hành của Jonathan Lancaster. Nhưng trong vòng một giờ, ông thấy sốt ruột nên lại gọi điện cho tên trùm và xin phép đi dạo. Hắn nói lời chúc phúc rồi chỉ chỗ cho ông lấy một trong mấy khẩu súng của chủ nhà. Một khẩu HK 9mm mập mà lùn, nó nằm trong ngăn kéo của một bàn viết xinh xắn kiểu cổ của Pháp, ngay bên dưới bức tranh của Cezanne. “Nhưng phải cẩn thận đấy,” tên trùm cảnh báo. “Christopher chỉnh áp lực của cò súng rất nhạy. Hắn là người rất nhanh nhạy.”

Ông nhét vũ khí vào thắt lưng quần jean rồi ra đi theo lối mòn chật hẹp dẫn tới chỗ ba cây ô liu cổ thụ. Thật biết ơn, con dê chưa trở lại chốt gác, nghĩa là Gabriel có thể tiếp tục đi vào làng mà không bị cản trở. Lúc đó là thời khắc không rõ giữa xế chiều và buổi tối. Các ngôi nhà đều đã sập cửa và các con đường bỏ lại cho lũ mèo và trẻ con. Chúng dõi mắt nhìn theo ông hết sức chăm chú khi ông đi về phía quảng trường chính. Ở ba phía đều có các cửa hàng và quán café, còn ở phía thứ tư là nhà thờ. Gabriel sắm một khăn quàng cho Chiara ở một cửa hàng, rồi ngồi vào bàn trong quán café có vẻ ít bị chú ý nhất, ông uống cà phê đậm đặc để chống lại tác dụng của rượu Sancerre; rồi khi trời chạng vạng tối và làn gió hiu hiu trở nên buốt giá, ông lại uống rượu vang đỏ nguyên chất của đảo Corse để chống lại tác dụng của cà phê. Cửa nhà thờ hé mở. Từ bên trong vọng tới tiếng lầm rầm cầu nguyện.

Dần dần, dân phố chợ bắt đầu vào đầy cả quảng trường. Những thằng choai choai ngồi dạng chân trên xe gắn máy hạng nhẹ bên ngoài hàng kem; một nhóm đàn ông bắt đầu chơi một ván boules thật mạnh bạo ngay chính giữa khu đi bộ đầy bụi bặm. Sau sáu giờ một chút, chừng hai chục người, chủ yếu là các bà già đi thành hàng xuống các bậc thềm trước nhà thờ. Trong số đó có mụ signadora. Ánh mắt đăm đăm của mụ thoáng nhìn kẻ ngoại đạo Gabriel; rồi mụ biến đi qua ngưỡng cửa căn nhà nhỏ xiêu vẹo của mụ. Chẳng bao lâu sau đó, hai người đàn bà đến viếng thăm mụ: một bà góa già mặc đồ đen từ đầu tới chân và một cô gái ngoài hai mươi tuổi có vẻ quẫn trí, chắc chắn đang chịu đựng tác dụng xấu xa của occhju.

Nửa giờ sau, hai người đàn bà lại xuất hiện cùng với một thằng nhỏ chừng mười tuổi có mái tóc xoăn dài. Hai người đó đi về phía hàng kem, còn thằng nhỏ thì dừng lại một lát để xem người ta chơi boules, rồi đi tới quán café nơi Gabriel đang ngồi. Trong bàn tay nó là một miếng giấy nhỏ màu xanh xám xếp lại làm tư. Nó đặt miếng giấy trên bàn trước mặt ông rồi lon ton bỏ chạy như thể sợ bị lây nhiễm một căn bệnh nào đó. Gabriel mở miếng giấy nhỏ ra và dưới ánh đèn mờ đọc dòng chữ duy nhất ghi trên đó:

Tôi phải gặp anh ngay lập tức.

Gabriel nhét miếng giấy vào túi áo khoác rồi ngồi đó một hồi lâu, suy đi nghĩ lại xem phải làm gì. Sau đó, ông để vài đồng tiền kim loại lên mặt bàn rồi băng ngang qua quảng trường.

Khi ông gõ cửa nhà mụ, một giọng the thé mời ông vào. Mụ đang ngái ngủ ngồi chễm chệ trên một cái ghế tay vịn có tấm chắn đã phai màu, uể oải ngả đầu chống tay về một bên như thể vẫn còn chịu ảnh hưởng của việc hấp thu tà khí nhiễm vào hai vị khách trước đó. Mặc kệ Gabriel phản đối, mụ vẫn đứng dậy để chào đón ông. Lần này không hề có căm thù trên vẻ mặt mụ, chỉ có sự quan tâm. Mụ vuốt má, chẳng nói chẳng rằng và đăm đăm nhìn thẳng vào mắt ông.

“Mắt anh có màu xanh lá cây đậm quá. Anh có cặp mắt của mẹ anh, đúng không?”

“Phải,” Gabriel đáp.

“Bà ấy phải chịu khổ hồi chiến tranh, không phải vậy sao?”

“Có phải Keller đã kể bà nghe chuyện đó không?”

“Tôi chưa hề nói với Christopher về mẹ anh mà.”

“Phải đó,” một lát sau Gabriel nói. “Những chuyện khủng khiếp đã xảy đến với mẹ tôi trong thời chiến.”

“Ở Ba Lan à?”

“Phải, ở Ba Lan.”

Mụ signadora cầm một bàn tay của Gabriel trong bàn tay mụ. “Chạm vào người anh ấm quá. Anh có bị sốt không?”

“Không,” ông đáp.

Mụ nhắm mắt lại. “Mẹ anh cũng là họa sĩ như anh đúng không?”

“Phải.”

“Bà ấy đã ở trong trại? Cái trại được đặt tên theo cây cối đúng không?”

“Đúng cái trại đó.”

“Tôi thấy một con đường, tuyết trắng, một hàng dài những người đàn bà mặc đồ màu xám, một người đàn ông cầm súng.”

Gabriel rụt tay lại thật nhanh. Đôi mắt mụ già mở ra với một cái giật mình.

“Xin lỗi. Tôi không có ý làm anh lo ngại đâu.”

“Tại sao bà muốn gặp tôi?”

“Tôi biết tại sao anh trở lại đây.”

“Rồi sao?”

“Tôi muốn giúp anh.”

“Tại sao?”

“Vì quan trọng là không có gì xảy ra với anh trong những ngày sắp tới đây. Ông già cần anh. Vợ anh cũng vậy.”

“Tôi chưa kết hôn,” Gabriel lừa nói.

“Cô ấy tên là Clara, không phải sao?”

“Không phải,” ông mỉm cười. “Tên cô ta là Chiara.”

“Cô ấy là người Ý, phải không?”

“Phải.”

“Vậy tôi sẽ luôn cầu nguyện cho anh.” Mụ gật đầu ra hiệu về phía cái bàn của mụ, trên đó có một đĩa bàn nước và một chậu dầu ô liu đặt kế bên một cặp đèn nến đang cháy. “Anh không ngồi xuống à?”

“Tôi không nên ngồi.”

“Anh vẫn không tin sao?”

“Tôi tin,” ông đáp.

“Vậy tại sao anh không chịu ngồi? Chắc chắn không phải anh sợ sệt gì. Mẹ anh đặt cho anh cái tên Gabriel vì một lý do. Anh có sức mạnh của Chúa.”

Gabriel có cảm giác như thể một tảng đá đang đè lên trái tim mình, ông muốn bỏ đi ngay lập tức, nhưng tính hiếu kỳ giữ ông ở lại. Sau khi đỡ bà già ngồi xuống cái ghế của mụ, ông ngồi đối diện với mụ và nhúng ngón tay vào dầu. Khi chạm vào mặt nước, ba giọt dầu tan tác thành cả ngàn giọt li ti rồi biến mất. Mụ già gật đầu rất nghiêm trọng, như thể cuộc thử nghiệm đã xác nhận với mụ những mối lo sợ bí ẩn nhất. Rồi lần thứ hai mụ lại cầm tay ông trong tay mụ.

“Anh đang bùng cháy. Anh không chắc chắn mình không được khỏe sao?”

“Tôi đã phơi nắng.”

“Ở nhà Christopher,” mụ tỏ ra biết chuyện. “Anh đã uống rượu vang của anh ta. Anh đã giắt súng của anh ta bên hông.”

“Tiếp tục đi.”

“Anh đang tìm kiếm một gã đàn ông, cái gã đã giết cô gái người Anh.”

“Bà có biết hắn là ai hay không?”

“Không. Nhưng tôi biết gã ở đâu. Gã đang trốn ở phía Đông, trong thành phố của bọn dị giáo. Anh không bao giờ được đặt chân tới đó. Nếu làm vậy,” mụ quả quyết, “anh sẽ chết.”

Mụ nhắm mắt lại, và một lát sau bắt đầu rơm rớm nước mắt, một dấu hiệu cho thấy tà khí đã từ thân thể của ông chảy sang người mụ. Rồi với một cái gật đầu, mụ hướng dẫn cho ông lặp lại cuộc thử nghiệm của dầu và nước. Lần này dầu gom lại thành một giọt duy nhất. Bà già mỉm cười một kiểu cách Gabriel chưa từng thấy trước đó.

“Bà đã thấy gì?”

“Anh có chắc mình muốn biết không?”

“Muốn, tất nhiên rồi.”

“Tôi thấy một đứa nhỏ,” mụ đáp không hề do dự. “Con của ai vậy?”

Mụ vỗ nhẹ bàn tay ông. “Về biệt thự đi,” mụ nói. “Anh bạn Christopher của anh đã trở về đảo Corse rồi đó.”

Khi tới biệt thự, Gabriel thấy Keller đứng trước cái tủ lạnh đang mở. Y mặc một bộ com lê màu xám sẫm nhăn nheo vì cuộc đi xa, và một áo sơ mi lễ phục trắng tinh mở nút ở cổ. Y lôi ra chai rượu Sancerre đã uống một nửa, lắc lắc để xác định lại rồi rót khá nhiều vào một cái ly.

“Một ngày làm lụng cực nhọc quá hả người anh em?” Gabriel hỏi.

“Thật tàn bạo vô nhân đạo.” Y giơ cái chai lên. “Ông uống nữa không?”

“Tôi đã uống quá đủ rồi.”

“Tôi có thể thấy điều ấy.”

“Chuyến đi của anh ra sao?”

“Chuyến lữ hành thật chết tiệt, nhưng mọi sự khác đều êm đẹp cả.”

“Hắn là ai?”

Keller uống rượu vang, không trả lời. Rồi y hỏi Gabriel đã đi đâu. Khi ông cho y biết mình đã đi gặp mụ signadora, y mỉm cười.

“Dù thế nào bọn tôi cũng sẽ biến ông thành dân đảo Corse.”

“Tôi không hề có ý đó đâu,” Gabriel giải thích.

“Bà ấy muốn nói gì với ông thế?”

“Không có gì hết,” Gabriel đáp. “Chỉ là trò quỷ thuật thường lệ như gió thoảng mà thôi.”

“Thế thì vì sao ông lại tái nhợt đến thế?”

Ông không đáp lại, chỉ thận trọng đặt khẩu súng của y lên mặt bàn trong bếp.

“Theo như tôi nghe nói, thì ông sẽ cần đến cái ấy đấy.”

“Anh đã nghe gì vậy?”

“Tôi nghe nói ông sắp tiến hành một chuyến săn lùng.”

“Anh có sẵn lòng giúp tôi không?”

“Thành thật mà nói,” Keller nâng ly rượu đưa về phía ánh đèn, “tôi mong đợi ông đã lâu lắm rồi.”

“Tôi còn một bức tranh phải hoàn tất.”

“Của ai thế?”

“Bassano.”

“Xưởng vẽ của Bassano hay của Bassano Bassano?”

“Gần như của cả hai.”

“Tuyệt lắm,” Keller nói.

“Khi nào anh có thể mau chóng thu xếp để sẵn sàng rời đi?”

“Tôi phải kiểm tra lịch của mình, có lẽ việc đầu tiên sáng mai là tôi sẽ sẵn sàng. Nhưng ông nên biết,” y nói thêm, “Marseilles dạo này đang bò nhung nhúc bọn cớm Pháp. Và một nửa bọn chúng đang tìm chúng ta đấy.”

“Vì vậy chúng ta sẽ không đi bất cứ nơi nào gần Marseilles, ít nhất là bây giờ.”

“Thế thì ta sẽ đi đâu?”

Gabriel mỉm cười. “Chúng ta sẽ đi về nhà.”