Chương 49 QUẢNG TRƯỜNG ĐỎ, MOSCOW
LÚC BỐN GIỜ chiều hôm ấy, họ đã đạt được những nét chính khái quát của một thỏa thuận. Lazarev thảo các điều khoản của giao kèo trong một trang giấy, đặt một phòng riêng ở quán Café Pushkin để ăn mừng, rồi cho Mikhail về Khách sạn Ritz để nghỉ ngơi vài giờ. Cậu cuốc bộ trên quãng đường ngắn ấy chẳng có ai khác hộ tống ngoài Gabriel đang theo sát cậu như hình với bóng trên lề đường bên kia, cái cổ áo khoác phủ quanh hai tai, một mũ lưỡi trai dẹt kéo xụp qua hàng lông mày. Ông dõi mắt nhìn theo Mikhail rẽ sang lối vào rộng lớn của khách sạn và tiếp tục đi trên Phố Tverskaya tới Quảng trường Cách mạng. Ở đó ông tạm dừng ít lâu để xem một gã thủ vai Lenin đang hô hào một đám du khách người Nhật ngơ ngác hãy chộp lấy phương tiện sản xuất từ các chúa tể tư sản của họ. Sau đó ông bước nhanh dưới mái vòm của Cổng Phục sinh rồi đi vào Quảng trường Đỏ.
Bóng tối đã ập xuống và gió đã quyết định cho thành phố được trở lại bình an để đi đây đi đó lo công chuyện vào buổi tối. Cúi đầu khom lưng xuống, trông Gabriel giống hệt một người Moscow phải làm việc quá sức, khi ông vội vàng đi dọc theo bức tường phía Bắc của Điện Kremlin, vượt qua những cái nhìn chằm chặp vô hồn của hai vệ binh đang đứng gác Lăng Lenin như đã bị đóng băng. Ngay trước mặt, ngập trong ánh sáng trắng sừng sững những mái vòm có hai sọc màu cuốn xoáy vào nhau của Giáo đường Thánh Basil, ông liếc nhìn đồng hồ trong Tháp Chúa Cứu thế (Savior Tower) rồi đi dọc theo vách tường Điện Kremlin đến nơi an nghỉ danh dự dành cho Stalin. Một lát sau Eli Lavon tới gặp ông.
“Chúng ta có sạch sẽ không?” Gabriel hỏi bằng tiếng Đức.
“Sạch hết mức có thể ở một nơi như Moscow này.”
Gabriel xoay người không nói lời nào rồi dẫn đường cho Lavon băng qua quảng trường tới lối vào của GUM. Trước kia, đó là cửa hàng bách hóa duy nhất ở đất nước này, nơi người Nga có thể chắc chắn tìm thấy một áo khoác mùa đông hay một đôi giày. Giờ đây đó là một khu trung tâm mua sắm kiểu phương Tây được dồn vào đủ thứ nữ trang rẻ tiền đáng vứt đi. Mái nhà bằng kính cao vút dội lại những tiếng nói huyên thuyên của những người đi mua hàng buổi tối. Lavon nhìn chằm chằm điện thoại cá nhân BlackBerry của mình khi bước đi bên cạnh Gabriel. Dạo này đó là điều mà một người Nga chính hiệu phải làm.
“Thư ký của Gennady Lazarev vừa gửi một thư điện tử cho cấp trên của hắn về bữa ăn ở quán Café Pushkin đêm nay,” Lavon nói. “Pavel Zhirov có tên trong danh sách khách mời.”
“Tôi chưa từng nghe giọng nói của hắn khi Mikhail đang ở bên trong Volgatek ngày hôm nay.”
“Đó là vì hắn không có ở đó,” Lavon đáp, vẫn nhìn chằm chằm cái máy BlackBerry. “Sau khi rời căn hộ của hắn ở Vùng Đồi Chim sẻ, hắn đã đi thẳng tới Yasenevo.”
“Tại sao là hôm nay chứ không phải như mọi ngày? Tại sao hắn không tới Volgatek để gặp nam nhân viên mới?”
“Có lẽ hắn có việc khác phải tham gia.”
“Như việc gì?”
“Có lẽ có một kẻ nào khác cần bắt cóc.”
“Đó chính là điều khiến tôi lo lắng.”
Gabriel tạm dừng nơi khung kính của một cửa hiệu kim hoàn và ngó chằm chằm chỗ trưng bày những đồng hồ Thụy Sĩ sáng lấp lánh. Kế bên là một quán ăn tự phục vụ kiểu Xô Viết nơi những người đàn bà tròn trịa đeo tạp dề trắng có vẻ không vui đang dùng muỗng múc thức ăn Nga rẻ tiền trên những đĩa bàn xám từ kỷ nguyên Brezhnev. Ngay cả bây giờ, hơn hai mươi năm sau, vẫn còn những người Nga đau đáu nỗi niềm luyến tiếc quá khứ của họ.
“Anh không bị lạnh chân à?” Lavon hỏi.
“Bây giờ là tháng Mười hai ở Moscow, Eli à. Không thể nào không lạnh.”
“Anh muốn làm chuyện đó ra sao?”
“Tôi muốn khách sạn cho Nicholas Avedon tiện nghi đặc biệt của cậu ta sớm hơn dự định một chút.”
“Những tiện nghi như vậy không được tán thành ở quán Café Pushkin đâu.”
“Bất cứ ai cũng đều mang theo súng ở quán Pushkin, Eli à.”
“Mạo hiểm lắm đó.”
“Không mạo hiểm bằng không mang súng đâu.”
“Tại sao chúng ta không bỏ qua bữa tối và dùng món tráng miệng ngay?”
“Tôi rất muốn vậy,” Gabriel nói, “nhưng dòng xe cộ giờ cao điểm sẽ không cho phép, chúng ta phải đợi tới sau mười giờ. Bằng không chúng ta sẽ không bao giờ có thể đưa hắn ra khỏi trung tâm thành phố. Chúng ta sẽ chết ngộp dưới nước đó.”
“Một sự chọn lựa từ ngữ nghèo nàn.”
“Gửi tin nhắn đi, Eli.”
Lavon đánh vài chữ vào cái máy BlackBerry của ông ta rồi dẫn đội trưởng ra ngoài, đi vào Phố Il’inka. Gió lại nổi lên, và nhiệt độ đã đột ngột hạ thấp. Nước mắt tự do tuôn trào ra khỏi mắt Gabriel khi họ bước ngang qua các mặt tiền hình quả trứng Phục sinh của tòa nhà uy nghi nặng nề. Trong loa tai nghe, Gabriel có thể nghe tiếng Nicholas Avedon đang khẽ ậm ừ với chính mình lúc đang ở trong bồn tắm phòng mình tại Khách sạn Ritz.
“Tôi muốn nắm thông tin đầy đủ về cậu ta toàn thời gian,” Gabriel nói. “Chúng ta đưa cậu ta đi ăn tối, ngồi ăn với cậu rồi đưa về tận khách sạn. Đó là lúc trò vui bắt đầu.”
“Chỉ khi nào Pavel chịu đi xe tới cứu Mikhail.”
“Hắn là trưởng ban an ninh của Volgatek kia mà. Nếu một nhà quản trị mới nhất của Volgatek tin rằng mạng sống của mình đang lâm nguy, Pavel sẽ chạy tới. Và sau đó chúng ta sẽ khiến hắn thật hối tiếc vì đã làm vậy.”
“Tôi thấy sẽ tốt hơn nếu chúng ta có thể đưa hắn tới một nước khác.”
“Nước nào Eli? Ukraine? Belarus? Còn Kazakhstan thì sao?”
“Thật tình thì tôi đang nghĩ tới Mông Cổ.”
“Đồ ăn dở lắm.”
“Đồ ăn dở kinh khủng,” Lavon đồng ý, “nhưng ít ra đó không phải là nước Nga.”
Tới cuối phố họ rẽ trái rồi leo lên đồi về phía Quảng trường Lubyanka.
“Anh có nghĩ chuyện này trước đây từng được tiến hành không?” Lavon hỏi.
“Chuyện gì?”
“Bắt cóc một sĩ quan KGB bên trong nước Nga.”
“Làm gì có KGB, Eli à. KGB đã là quá khứ rồi.”
“Không, không phải. Bây giờ nó gọi là FSB. Và nó chiếm tòa nhà to lớn xấu xí ngay trước mặt chúng ta. Và bọn nó sẽ khá tức tối khi phát hiện một trong các huynh đệ của bọn nó bị mất tích.”
“Nếu chúng ta bắt hắn một cách sạch sẽ, chúng sẽ không có đủ thì giờ để làm bất cứ chuyện gì.”
“Nếu chúng ta bắt hắn thật sạch sẽ,” Lavon đồng ý.
Đội trưởng im lặng.
“Đêm nay hãy cho tôi một ân huệ, Gabriel à. Nếu anh không cần bắn thì đừng bắn.” Ông ta tạm dừng rồi nói tiếp, “Tôi không muốn để vuột mất cơ hội được làm việc cho anh khi anh trở thành sếp.”
Họ đã lên tới đỉnh đồi. Lavon đi chậm lại rồi dừng hẳn và nhìn chằm chằm pháo đài màu vàng to lớn ở phía bên kia Quảng trường Lubyanka. “Anh nghĩ tại sao bọn nó vẫn ở trong đó?” ông ta hỏi thật nghiêm túc. “Tại sao không giật sập rồi dựng lên một đài tưởng niệm các nạn nhân của nó chứ?”
“Cùng một lý do khiến họ không dời hài cốt của Stalin ra khỏi vách tường của Điện Kremlin,” Gabriel trả lời.
Lavon im lặng một lát. “Tôi ghét nơi này,” sau cùng ông nói. “Và đồng thời tôi lại thiết tha yêu mến nó. Tôi có khùng không vậy?”
“Có thể chứng nhận được. Nhưng đó chỉ là ý kiến của một người.”
“Tôi thấy sẽ tốt hơn nếu chúng ta có thể đưa hắn tới một nước khác.”
“Tôi cũng vậy, Eli à. Nhưng chúng ta không thể.”
“Tới Mông Cổ thì bao xa?”
“Quá xa không lái xe tới đó được. Và đồ ăn còn dở kinh khủng.”
Năm phút sau đó, trong khi Gabriel đi vào đại sảnh được sưởi ấm quá mức của Khách sạn Metropol, Yossi Gavish bước ra khỏi phòng mình ở tầng bốn Khách sạn Ritz-Carlton, mặc một bộ com lê xám như một chủ ngân hàng và thắt một cà vạt lóng lánh ánh bạc. Tay trái anh ta cầm một thẻ ghi tên lóng lánh ánh vàng đọc được là ALEXANDER - một nhà nghiên cứu lịch sử, chính Yossi đã chọn cái tên ấy - còn tay phải thì xách một túi quà xanh lơ bóng loáng mang biểu trưng của khách sạn. Cái túi đó nặng hơn là anh ta làm ra vẻ bề ngoài, vì trong đó có một khẩu súng ngắn Makarov 9mm, một trong số rất nhiều vũ khí mà Trạm Moscow đã có được từ các nguồn buôn lậu ở địa phương trước khi đội công tác tới nơi. Trong ba ngày, vũ khí đó đã được giấu kín giữa nệm và khung lò xo trong phòng Yossi. Có thể hiểu tại sao anh ta lại nhẹ nhõm khi cuối cùng tống khứ nó đi.
Anh ta chờ tới khi chắc chắn hành lang vắng người mới nhanh chóng gắn cái thẻ ghi tên vào ve áo của mình. Sau đó anh ta đi tới cửa Phòng 421. Từ phía đối diện có thể nghe tiếng một người đàn ông hát bài “Penny Lane” hết sức rõ ràng. Anh ta gõ hai lần, mạnh mẽ nhưng lịch sự, tiếng gõ của một concierge (nhân viên phục vụ khách hàng ở tiền sảnh). Rồi vì không ai đáp lại, nên anh ta gõ một lần nữa, lớn tiếng hơn. Lần này một người đàn ông mặc áo choàng trắng quàng khăn tắm ra mở cửa. Cậu ta cao lớn nên không thể mặc vừa vặn, và hồng hào vì vừa ra khỏi bồn tắm.
“Tôi đang bận,” cậu ta cáu kỉnh nói.
“Thưa tôi rất xin lỗi vì đã làm gián đoạn, ông Avedon à,” Yossi đáp với giọng bình thản của một người từng đi đây đi đó rất nhiều, “nhưng quản lý muốn tặng ông một món quà để bày tỏ sự cảm kích của chúng tôi.”
“Hãy nói với quản lý tôi xin cảm ơn, nhưng chẳng có gì phải cảm ơn tôi.”
“Quản lý sẽ thất vọng đấy ạ.”
“Không phải lại món caviar (trứng cá tẩm muối) đẫm máu ấy nữa, phải không?”
“Tôi e rằng quản lý đã không nói.”
Người đàn ông hồng hào mặc áo choàng trắng giật phắt túi quà và đóng sầm cửa vào mặt nhân viên khách sạn giả mạo đang mỉm cười. Xong xuôi Yossi quay gót rồi sau khi đã gỡ thẻ ghi tên từ ve áo, trở về phòng của mình. Ở đó anh ta nhanh nhẹn cởi bộ com lê ra rồi thay một quần jean và một áo len dài tay dày cộm nặng nề. Chiếc va li của anh để đứng dưới chân giường; nếu mọi sự diễn tiến đúng theo kế hoạch, một giao liên từ Trạm Moscow sẽ tới thu dọn trong vài giờ và phá hủy mọi thứ trong đó. Yossi nhét bộ com lê vào một cái túi bên hông và kéo dây khóa lại. Sau đó anh ta chùi sạch mọi đồ vật mình từng chạm tới ở trong phòng rồi bỏ đi, hy vọng đây là lần cuối cùng.
Khi xuống cầu thang vào đại sảnh, anh ta thấy Dina đang lật một tờ nhật báo Moscow bằng tiếng Anh với vẻ hoài nghi. Anh đi ngang qua cô ta như hai người không hề quen biết và bước ra ngoài. Một chiếc Range Rover đang đợi ở sát lề đường, ống khói đằng đuôi xe phụt ra một đám hơi vào đêm đen buốt giá như thể đã kiệt sức. Ngồi đằng sau tay lái là Christopher Keller. Y hòa mình vào dòng xe cộ giờ cao điểm buổi tối trên Phố Tverskaya thậm chí trước khi Yossi đóng cửa. Ngay trước mặt họ sừng sững Tháp Corner Arsenal của Điện Kremlin, ngôi sao đỏ của nó rực sáng như một đèn báo hiệu. Keller huýt sáo không thành làn điệu nào trong khi lái xe.
“Anh có biết đường không?” Yossi hỏi.
“Rẽ trái sang Phố Okhotnyy Ryad, lại rẽ trái sang Phố Bol’shaya Dmitrovka rồi sau đấy lại rẽ trái một lần nữa sang Vòng xoay Đại lộ.”
“Anh đã từng ở Moscow một thời gian dài, phải không?”
“Chưa bao giờ được vui thích như thế.”
“Ít ra anh không thể giả vờ bồn chồn lo lắng hay sao?”
“Sao tôi lại phải bồn chồn lo lắng chứ?”
“Vì chúng ta sắp sửa bắt cóc một sĩ quan KGB ngay giữa Moscow.”
Keller mỉm cười khi rẽ trái lần đầu tiên. “Dễ như trở bàn tay thôi.”
Keller và Yossi phải mất gần hai mươi phút mới đi được một quãng ngắn đến điểm hẹn trên Vòng xoay Đại lộ. Lúc tới nơi Yossi gửi đi một tin nhắn bảo mật cho Gabriel ở Khách sạn Metropol, và tới lượt mình Gabriel chuyển nó thật nhanh đến Đại lộ King Saul, ở đó tin nhắn đó chớp lóe qua màn hình chính trong Trung tâm Điệp vụ. Uzi Navot đã ngồi vào cái ghế của mình như thường lệ. Ông ta đang nhìn chằm chặp hình ảnh video phát trực tiếp trong đại sảnh của Khách sạn Ritz-Carlton, nhờ cái máy truyền dẫn của Văn phòng giấu trong túi xách của Dina. Thời gian là 7:36 ở Moscow, 6:36 ở Tel Aviv. Lúc 6:38 điện thoại sát khuỷu tay Navot reng lên. Ông ta nhanh chóng nhấc ống nghe đưa lên tai, làu bàu gì đó nghe như thể tự gọi tên mình, và nghe giọng nói của Orit, thư ký riêng của ông ta. Bên trong Đại lộ King Saul, cô ta có biệt hiệu “Mái vòm Sắt” vì khả năng vô địch của cô, chỉ trong chốc lát có thể bác bỏ các đề nghị trình lên sếp.
“Bó tay,” Navot đáp lại. “Không có một cơ hội nào.”
“Hắn đã nói rõ sẽ không rời khỏi.”
Navot thở dài nặng nề. “Được. Cứ hạ gục hắn nếu phải làm như vậy.”
Navot gác điện thoại rồi đăm đăm nhìn hình ảnh đại sảnh khách sạn. Hai phút sau anh ta nghe tiếng cửa Trung tâm Điệp vụ mở ra rồi đóng lại sau lưng. Rồi từ một khóe mắt anh ta trông thấy một bàn tay có đốm nâu sẫm để hai gói thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ xuống mặt bàn cùng với một cái bật lửa Zippo đã cũ mèm. Ánh lửa lóe sáng lên. Một đám khói mù mịt làm mờ hình ảnh trên màn hình.
“Tôi tưởng đã rút tất cả giấy phép của ông rồi chứ,” Navot bình thản nói, vẫn đăm đăm nhìn về phía trước.
“Anh đã làm chuyện đó,” Shamron đáp.
“Làm sao ông vào được tòa nhà này vậy?”
“Tôi chui đường hầm vào đây.”
Ông già xoay vòng cái bật lửa trên những đầu ngón tay. Hai vòng sang phải, hai vòng sang trái.
“Ông thật cả gan khi chường mặt ra quanh đây,” Giám đốc nói.
“Đây không phải vấn đề thời gian và nơi chốn, Uzi à.”
“Tôi biết là không phải,” Navot nói. “Nhưng ông vẫn thật là cả gan đó.”
Hai vòng sang phải, hai vòng sang trái...
“Nhưng có thể nào vặn âm lượng thiết bị nghe điện thoại của Mikhail lớn hơn, được không?” Shamron hỏi. “Tai tôi đã nghễnh ngãng không còn như trước nữa.”
“Thính lực của ông không phải là vấn đề duy nhất.”
Navot khiến một kỹ thuật viên để mắt đến mình rồi khoát tay ra hiệu bảo anh ta tăng âm lượng lên.
“Cậu ta đang hát bài gì vậy?” cựu Giám đốc hỏi.
“Có khác biệt gì đâu chứ?”
“Trả lời câu hỏi đi, Uzi.”
“Đó là bài ‘Penny Lane.’”
“Ban nhạc The Beatles à?”
“Phải, The Beatles.”
“Anh nghĩ tại sao cậu ta lại chọn bài hát đó?”
“Có lẽ cậu ta thích nó.”
“Có lẽ vậy,” Shamron nói.
Giám đốc liếc nhìn đồng hồ. Đã 7:42 ở Moscow, 6:42 ở Tel Aviv. Ông già dụi điếu thuốc rồi lập tức đốt một điếu nữa.
Hai vòng sang phải, hai vòng sang trái...
Mikhail vẫn hát cho mình nghe khi khởi hành từ phòng khách sạn, mặc đồ chỉnh tề để đi ăn tối. Túi quà trong bàn tay phải khi cậu bước vào thang máy, mặc dù nó đi đâu mất khi cậu bước ra từ phòng vệ sinh nam của đại sảnh ba phút sau đó. Đội công tác trong Trung tâm Điệp vụ lần đầu tiên trông thấy cậu lúc 7:51 khi cậu đi ngang qua tầm ngắm camera của Dina và bắt đầu đi ra cửa khách sạn. Đang chờ đợi ở đó, cánh tay giơ lên như thể đang vẫy gọi một máy bay cứu hộ chính là Gennady Lazarev. Bàn tay chộp lấy vai Mikhail và kéo cậu vào đằng sau một chiếc limousine Maybach đang đợi. “Tôi hy vọng cậu đã nghỉ ngơi được một chút,” hắn nói khi chiếc xe nhẹ nhàng rời khỏi vỉa hè rất lịch lãm, “bởi vì đêm nay cậu sẽ được nếm mùi vị thực sự của nước Nga.”