Chương 48 MOSCOW
NHỮNG NGƯỜI PHẢN KHÁNG dần dần đi vào Quảng trường Đỏ từng nhóm nhỏ để cho các dân quân Moscow và mật vụ FSB ác ôn mặc áo khoác da không để ý: các nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo, ca sĩ nhạc punk rock, thậm chí vài bà cụ Nga mơ ước được sống những năm tháng cuối đời mình trong một đất nước thực sự tự do. Lúc giữa trưa đám đông đã lên đến hàng ngàn người, quá rộng lớn không thể che giấu động cơ thực sự của mình nữa. Một người nào đó trưng biểu ngữ. Một người nào khác dùng loa phóng thanh tố cáo Tổng thống Nga đã gian lận trong kỳ bầu cử vừa qua, đã được hưởng lợi là chuyện hoàn toàn có thật. Sau đó anh ta kể chuyện cười về tất cả những gì Tổng thống đã trộm cắp của nhân dân Nga, mà người đứng đầu của bọn FSB ác ôn mặc áo khoác da chẳng thấy buồn cười một chút nào. Với không hơn không kém một cái gật đầu làm hiệu lệnh, gã đưa dân quân ra, chúng phản ứng lại bằng cách đập nát mọi thứ trong tầm mắt, kể cả rất nhiều kẻ cầm đầu quan trọng hơn. Người cầm loa phóng thanh bị đánh đập tàn tệ hơn cả. Về sau Điện Kremlin thông báo anh ta sẽ bị buộc tội cố ý kích động bạo loạn, một tội trạng phải lãnh bản án mười năm tù trong một trại cải tạo kiểu mới. Báo chí Nga nhắc tới những người phản kháng ấy là “lũ du côn”, và chẳng có một người bình luận đơn độc nào dám chỉ trích hành động đàn áp nặng tay. Họ sẽ được tha tội vì im lặng. Dạo này các nhà báo làm Điện Kremlin bực tức đều có một cách kết liễu cuộc đời thật kỳ lạ.
Ở sân bay Sheremetyevo của Moscow, tin tức từ Quảng trường Đỏ chỉ thoáng qua thật vắn tắt trên các màn ảnh truyền hình khi Mikhail bước ra khỏi Jetway, ba mươi giây sau đó Gabriel đi theo. Khi hai người tới gần chỗ kiểm tra hộ chiếu, đội trưởng để ý một gã đàn ông mặc một bộ com lê cắt may ở tiệm đứng bên cạnh một cảnh sát biên phòng ốm đói trong bộ đồng phục đã xác xơ. Gã mặc com lê cầm trên tay một tấm hình, so đi so lại hai lần khi Mikhail tới gần. Sau đó, gã bước tới chỗ cậu và nói gì đó bằng tiếng Nga mà Gabriel không hiểu nổi. Mikhail mỉm cười bắt tay gã rồi mới đi theo gã qua một ô cửa không đánh số. Gabriel một mình đi tiếp tới chỗ kiểm tra hộ chiếu, nơi ấy một ả đàn bà cau có nhìn chằm chằm mặt ông dò xét một hồi lâu thật khó chịu rồi mới đóng dấu thật mạnh lên hộ chiếu và phẩy tay bảo ông đi tiếp. Chào mừng đến với nước Nga, ông thầm nghĩ khi bước vào sảnh đến rất đông người. Trở lại lần nữa kể cũng hay.
Vừa bước ra bên ngoài, Gabriel lập tức hít phải một luồng khói thuốc lá và khói dầu diesel khiến đầu ông choáng váng. Bầu trời lúc chiều tối thật khó chịu và trong trẻo; không khí giá lạnh như cứa vào thịt da. Liếc nhìn về bên trái, ông thấy Mikhail và gã nhân viên Volgatek hộ tống ngồi vào trong chiếc sedan ấm áp hiệu Mercedes đang chờ đợi. Sau đó, Gabriel hòa vào dòng người xếp hàng dài để đón taxi. Cái lạnh của bê tông thấm qua lớp đế mỏng của đôi giày lười kiểu phương Tây của ông; và cuối cùng khi ông trườn người vào đằng sau một chiếc Lada cũ mèm nổ máy ầm ĩ, hàm răng ông quá đỗi lạnh cóng tới nỗi gần như nói không ra hơi. Được hỏi về nơi đến, ông đáp mình muốn được chở tới Khách sạn Metropol, nhưng lại nghe như ông yêu cầu một cái lỗ cống (manhole).
Sau khi rời khỏi sân bay, tài xế đi tới Leningradsky Prospekt và bắt đầu một hành trình dài chậm rì ì ạch vào khu trung tâm của Moscow. Lúc đó đã vài phút sau bảy giờ, thời điểm cuối cùng vào buổi tối của dòng xe cộ hối hả đến chết người trong thành phố. Dù vậy tốc độ của họ đã bị đóng băng. Tài xế cố bắt chuyện nhưng tiếng Anh của Gabriel không lọt vào tai anh ta một cách thông suốt hệt như hình ảnh dòng xe cộ đang lưu thông. Thỉnh thoảng, Gabriel gây những tiếng ồn ào một cách đầy thận trọng; chủ yếu ông nhìn chằm chằm ra ngoài cửa kính những tòa nhà tàn tạ xếp hàng dài trên prospekt (đại lộ) cũ kỹ dơ bẩn. Trong một thời kỳ ngắn ngủi chúng đã gần như ghê gớm lắm. Giờ đây, chúng là những tàn tích, ở mỗi góc phố và trên mọi mái nhà, các bảng quảng cáo đập vào mắt người ta những lời hứa về một cuộc sống xa hoa hoan lạc. Cuối cùng họ đi qua Vòng xoay Hoa viên (Garden Ring), và prospekt nhường chỗ cho Phố Tverskaya, phiên bản của Đại lộ Madison ở Moscow. Nó đưa họ xuống một ngọn đồi dài thoai thoải, qua trụ sở mới lấp lánh của Volgatek, đến những bức tường đỏ của Kremlin - nơi nó đổ vào tám làn đường của Phố Okhotnyy Ryad. Rẽ trái, họ chạy hết tốc độ qua Viện Duma Nga (Hạ viện), Thượng viện cổ kính, và Nhà hát Lớn. Gabriel chẳng thấy các tòa nhà đó. Ông chỉ để mắt đến pháo đài màu vàng tràn ngập ánh sáng sừng sững trên đỉnh cao của Quảng trường Lubyanka.
“KGB đấy,” tài xế nhấc tay lên khỏi tay lái chỉ trỏ.
“Làm gì có KGB,” Gabriel đáp lại một cách lạnh nhạt. “KGB đã là quá khứ rồi.”
Tài xế làu bàu gì đó về tính ngây thơ khờ khạo của khách nước ngoài rồi lái xe tới lối vào của Khách sạn Metropol. Đại sảnh đã được phục chế thật trung thực với trang trí nguyên mẫu, nhưng người đàn bà trung niên ở quầy đăng ký gần như cũng không làm được việc. Bà ta chào đón ông với một nụ cười băng giá, lịch sự hỏi han về tính chất của chuyến lữ hành rồi trao cho ông một tờ giấy đăng ký dài dòng, một bản sao sẽ trình cho giới chức thẩm quyền thích hợp. Ông nhanh chóng hoàn thành việc ấy với cái tên Jonathan Albright của công ty Tư vấn Đầu tư Markham và được thưởng cho một chìa khóa mở cửa phòng mình. Một người gác cửa đề nghị xách túi giúp dường như nhẹ nhõm khi ông nói mình có thể tự xoay sở. Tuy vậy, ông vẫn cho anh ta tiền boa vì đã bận tâm. Món tiền khá lớn cho thấy ông vẫn chưa quen với giá trị của tiền tệ Nga.
Phòng ông ở tầng bốn, ngó xuống mười làn xe của Đại lộ Teatralny. Ông cho rằng nó đã bị gài máy nghe lén nên chẳng thèm mất công lùng kiếm. Thay vào đó, ông đặt hai cuộc gọi cho các khách hàng mà thật ra chẳng phải khách hàng gì cả, rồi lục lọi nhiều thư điện tử đã chất đống trong hộp thư của ông suốt chuyến bay từ London. Một bức do một luật sư ở New York gửi tới liên quan một gợi ý gián tiếp về thuế khóa của một vụ đầu tư nào đó có tính hợp pháp đáng ngờ. Người gửi thật ra là Eli Lavon đang lưu trú trong một phòng dưới sảnh và nội dung thực sự chỉ hiện ra khi ông gõ mật khẩu thích hợp. Dường như Gennady Lazarev đã đưa nhân viên mới đầy triển vọng của mình đến Phòng đợi 02 ở Khách sạn Ritz để uống rượu và ăn vặt. Theo cùng còn có Dmitry Bershov, Pavel Zhirov và bốn ả đàn bà Nga mũm mĩm. Những tấm hình giám sát theo sau bức thư, nhờ ơn Yaakov và Dina trong phòng điện thoại công cộng đối diện với phòng đợi ấy chụp được.
Gabriel lại gõ mật khẩu và lời nhắn trở lại văn bản nguyên gốc. Sau đó, ông đeo lên đầu một cặp loa rồi kết nối vào hệ thống nghe bảo mật từ điện thoại di động của Mikhail. Ông nghe ly kêu leng keng, tiếng cười và giọng líu lo của đám gái Nga mũm mĩm, nghe có vẻ như vô nghĩa ngay cả bằng một thứ tiếng ông không hiểu nổi. Sau đó ông nghe giọng nói quen thuộc của Gennady Lazarev đang bỏ nhỏ vào tai Mikhail một lời tâm phúc. “Đêm nay cậu phải bảo đảm nghỉ ngơi đôi chút nhé. Mai chúng tôi có những kế hoạch lớn cho cậu đấy.”
Họ vẫn ở trong phòng đợi tới mười một giờ khi Mikhail lui về dãy phòng cực kỳ sang trọng của mình ở Khách sạn Ritz, chẳng có ai đi cùng ngoài một cơn nhức đầu dữ dội. Mặc dù Lazarev đã nhắc nhở, đêm hôm ấy cậu không ngủ vì trong tâm trí cứ quay cuồng những điệp vụ đã qua, xâu chuỗi lại với nhau y như một bản tin thời sự truyền hình về các sự kiện thê thảm nhất thế kỷ. Cậu thèm được hành động, được di chuyển bất cứ kiểu nào, nhưng các máy quay phim giám sát chắc chắn đã được giấu kín trong phòng không cho làm điều đó. Và vì thế cậu nằm với tâm trạng rối bời trên tấm khăn trải giường ẩm ướt, bất động như xác chết mãi đến 7:00 sáng, khi cuộc gọi đánh thức dựng cậu đứng thẳng dậy với lời cảm ơn.
Cà phê của cậu được mang tới một phút sau đó, và cậu vừa uống vừa xem tin tức kinh doanh buổi sáng từ London. Sau đó cậu đi xuống câu lạc bộ sức khỏe, thực hiện một cuộc tập luyện ra trò, có một gã theo dõi từ một trong hai cục tình báo Nga chứng kiến. Trở về phòng, cậu tự bắt mình phải tắm vòi nước hoa sen lạnh như băng giá để cho xương cốt rã rời của mình đôi chút sinh khí. Rồi cậu mặc vào bộ com lê xám sọc phấn trắng đẹp nhất của cậu - bộ đồ mà Dina đã chọn cho cậu ở tiệm Anthony Sinclair của Phố Savile nhỏ hẹp. Cậu thấy cô trong phòng điểm tâm mười lăm phút sau, đang đăm đăm nhìn vào mắt Christopher Keller như thể họ đang giữ bí mật về một hạnh phúc vĩnh hằng. Cách đó vài bàn, Yossi đang trả lại món trứng bác. “Tôi đã yêu cầu món trứng chảy nước,” anh ta nói, “nhưng đáng lẽ nên dọn trong ly.” Nhận xét đó nảy vào tiếp viên như một hòn sỏi ném vào một xe lửa chở hàng. “Ông muốn ăn trứng trong ly sao?” anh ta hỏi.
Lúc chín giờ đúng, khi đã đọc nhật báo buổi sáng và thu xếp ổn thỏa vài công việc chính yếu chưa chặt chẽ ở London qua thư điện tử, Mikhail đến đại sảnh cực kỳ hiện đại của Khách sạn Ritz. Đợi sẵn ở đó vẫn là gã nhân viên tạp vụ của Volgatek đã đưa cậu ra khỏi hàng người xếp hàng kiểm tra hộ chiếu tại sân bay Sheremetyevo buổi tối hôm trước. Gã đang toét miệng cười vui vẻ y hệt một cửa kính bị vỡ.
“Tôi tin chắc ông đã ngủ thật ngon, phải không ông Avedon?”
“Chưa bao giờ ngủ ngon hơn thế,” Mikhail nói dối với vẻ chân thành.
“Văn phòng ta rất gần đây. Tôi hy vọng ông cảm phiền đi bộ cho.”
“Chúng ta sẽ sống sót chứ?”
“Các cơ may đều tốt cả, nhưng không có bảo đảm nào ở Moscow vào thời gian này trong năm.”
Nói rồi gã xoay người dẫn cậu đi ra Phố Tverskaya. Khi trèo lên triền dốc của ngọn đồi, đi nghiêng ngả thật khó nhọc trong cơn gió đập phần phật, cậu nhận thấy cái tảng len và lông thú vô danh theo sau mình hai bước chính là Eli Lavon, cái tảng len đó lẳng lặng hộ tống cậu tới tận cửa trước của Volgatek, như muốn nhắc Mikhail nhớ cậu ta hoàn toàn không phải chỉ có một mình. Sau đó nó trôi dạt vào trong ánh nắng ban mai chói chang của Moscow và đi mất.
Nếu có bất cứ hiểu lầm nào về sứ mạng thực sự của Volgatek, chúng đều được cho yên nghỉ bởi công trình điêu khắc bằng sắt rộng lớn sừng sững trong hành lang của trụ sở ở Phố Tverskaya. Nó miêu tả trái đất với nước Nga phía bên ngoài ở một vị trí chi phối, cung cấp năng lượng sống còn cho khắp bốn phương trên hành tinh. Đứng ở bên dưới một tên Atlas bé tí teo tươi cười mặc một bộ com lê Ý may tay, là Gennady Lazarev. “Chào mừng cậu đến quê hương mới,” hắn vừa gọi lớn vừa siết chặt tay Mikhail. “Hay tôi có nên gọi là quê hương thực sự của cậu hay không?”
“Mỗi lần đi một bước, Gennady ạ.”
Hắn siết tay cậu mạnh hơn một chút như muốn nói cậu sẽ không bị từ chối, rồi dẫn vào một thang máy dành cho ban quản trị đang chờ đưa họ vọt lên tầng trên cùng của tòa nhà. Trong tiền phòng có một cái bảng để CHÀO MỪNG NICOLAI! Lazarev tạm dừng để ngắm nghía nó như thể hắn đã bỏ rất nhiều công sức mới nghĩ ra những từ ngữ ấy, rồi mới đưa cậu vào văn phòng rộng lớn dành cho cậu sử dụng bất cứ lúc nào vào thành phố. Từ nơi đó có thể trông thấy Điện Kremlin và đến với một ả thư ký xinh đẹp một cách nguy hiểm tên là Nina.
“Cậu nghĩ thế nào?” Lazarev hỏi thật nghiêm chỉnh.
“Tuyệt lắm,” Mikhail nói.
“Đi nào,” hắn nắm lấy khuỷu tay cậu. “Mọi người đang nóng lòng gặp cậu đấy.”
Hóa ra Lazarev đã không nói ngoa khi bảo là “mọi người.” Thật vậy, trong hai giờ rưỡi kế tiếp, dường như cậu đã bắt tay mọi nhân viên trong công ty, và có thể vài người khác nữa nếu tính cho đúng, có đến cả tá phó chủ tịch với hình thù, tầm vóc và trách nhiệm lớn nhỏ khác nhau, và một hình người tái nhợt như xác chết tên là Mentov làm gì đó với việc phân tích các nguy cơ thậm chí cậu không thể giả vờ hiểu biết. Kế đó cậu được giới thiệu với đội ngũ khoa học của Volgatek: các nhà địa chất đang tìm kiếm các nguồn dầu khí mới vòng quanh thế giới, các kỹ sư đang thiết kế các phương thức mới đầy sáng tạo để khai thác. Sau đó cậu xuống các tầng dưới để gặp các nhân viên cấp thấp: kế toán trưởng trẻ tuổi mơ ước một ngày kia sẽ được tận tụy phục vụ cho cậu, những xác chết biết đi đang bám víu vào bàn giấy của họ và những tách cà phê Volgatek màu đỏ. Cậu không khỏi tự hỏi chuyện gì xảy đến với một nhân viên tàn đời vì một công ty do những kẻ thừa kế KGB sở hữu và điều hành. Có lẽ, kẻ đó sẽ nhận được một đồng hồ bằng vàng và một khoản lương hưu, song cậu hoài nghi điều ấy.
Cuối cùng, họ trở lên tầng thượng và vào văn phòng rộng lớn của Lazarev giống như một sảnh trung tâm lợp kính, nơi đó hắn nói trọn vẹn về quan điểm của mình đối với tương lai của Volgatek và về vai trò mà hắn muốn cậu đảm nhiệm trong tương lai ấy. Chức vụ khởi đầu của cậu trong công ty sẽ là trưởng chi nhánh Volgatek ở Vương quốc Anh, sẽ được thành lập để điều hành dự án Quần đảo phía Tây. Một khi dầu lửa tuôn chảy, Mikhail sẽ đảm nhận những trách nhiệm lớn lao hơn, chủ yếu ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
“Như thế có đủ để cậu quan tâm hay chưa?” hắn hỏi.
“Có lẽ thế.”
“Cần gì nữa để thuyết phục cậu bỏ Viktor và đến với tôi nào?”
“Tiền, Gennady ạ. Thật nhiều tiền.”
“Tôi có thể cam đoan với cậu, Nicolai, tiền chả phải là vấn đề cần bàn đâu.”
“Thế thì tôi sẽ toàn tâm toàn ý làm việc cho ông.”
Lazarev mở một cặp da nhỏ, lấy ra một tờ giấy đơn. “Cả gói đền bù cho cậu sẽ bao gồm các căn hộ ở Aberdeen, London và Moscow,” hắn bắt đầu nói. “Cậu sẽ đi máy bay tư nhân, dĩ nhiên, và cậu có quyền sử dụng một biệt thự của Volgatek mà bọn tôi quản lý ở miền Nam nước Pháp. Ngoài lương căn bản, cậu còn nhận các khoản chia lợi tức và tiền thưởng để khuyến khích sẽ nâng toàn bộ các khoản bù đắp cho cậu đến như thế này.”
Hắn đặt tờ giấy trước mặt cậu và chỉ vào cái hình ở cuối trang. Cậu nhìn nó một lát, gãi cái đầu trọc của mình rồi nhăn mặt.
“Được chứ?” Lazarev hỏi.
“Cũng chưa gần sát.”
Hắn mỉm cười. “Tôi tưởng đấy là câu trả lời của cậu chứ,” hắn lại lục trong cặp da nhỏ lôi ra một tờ nữa, “thế thì tôi sẽ thoải mái đưa ra đề nghị thứ nhì.” Hắn đặt tờ giấy trước mặt cậu rồi hỏi, “Có tốt hơn chút nào không?”
“Ấm hơn rồi,” Mikhail mỉm cười đáp lễ. “Rõ là ấm no hơn.”