Chương 51 TVER OBLAST, NGA
ĐÓ TỪNG LÀ dacha [1] của một nhân vật đầy quyền lực: một ủy viên trung ương, thậm chí có lẽ là ủy viên bộ chính trị. Chẳng một ai có thể nói chắc chắn, vì trong thời buổi hỗn mang sau khi sụp đổ tất cả đều đã bị mất mát. Các xí nghiệp quốc doanh vẫn đóng cửa im ỉm vì không ai có thể tìm thấy chìa khóa; các máy vi tính của chính phủ vẫn ngủ yên vì không ai còn nhớ các mật mã. Nước Nga đã vấp ngã vào một thiên niên kỷ mới can trường chẳng hề có một bản đồ hay bộ nhớ nào. Một số người bảo nó vẫn không có bộ nhớ, mặc dù giờ đây chứng bệnh mất trí nhớ của nó là chủ tâm cố ý.
Trong rất nhiều năm, ngôi nhà bị lãng quên ấy vẫn trống vắng và vô chủ cho tới khi một người góp phần phát triển Moscow mới phất lên tên là Bloch đổi một bài hát để lấy được nó và xây dựng lại từ mặt đất đã san bằng. Sau cùng, như nhiều kẻ sớm giàu lên ở nước Nga, ông ta sớn sác đâm đầu vào đám đông mới ngự trị trong Điện Kremlin và quyết định bỏ nước ra đi trong lúc vẫn còn đi được. Ông định cư ở Israel, một phần vì nghĩ mình có thể có một chút huyết thống Do Thái, nhưng chủ yếu vì không nước nào chịu nhận ông cả. Thời gian qua đi, ông bán sạch tài sản của mình ở nước Nga nhưng dacha ở Tver oblast thì ông không bán. Ông tặng nó cho Ari Shamron và bảo ông này dùng nó làm nơi nghỉ ngơi an dưỡng.
Ngôi nhà đứng bên bờ hồ không tên và dẫn tới đó nhờ một con đường không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào. Đó không phải là một con đường thực thụ, đúng hơn là một đường mòn được khai phá xuyên qua khu rừng bạch dương rất lâu trước khi ai đó từng nghe nhắc tới một nơi gọi là nước Nga. Cánh cổng nguyên sơ vẫn còn đó, cũng như cái bảng CẤM XÂM NHẬP TRÁI PHÉP cũ mèm mà Bloch, một đứa con của kỷ nguyên trước, quá đỗi kinh hoàng không dám giở bỏ. Nó lóe sáng lên trong chốc lát qua ánh đèn ở đầu xe Gabriel lúc ông tới nơi, bị dằn xóc khi chạy vào con đường nhỏ dành cho xe cộ bị tuyết phủ ngăn cản. Sau đó dacha ấy xuất hiện, một căn nhà gỗ nặng nề với mái nhọn và những cửa vòm rộng ở xung quanh. Đậu bên ngoài ngôi nhà rất nhiều xe hơi, trong đó có một chiếc Mercedes dòng s thuộc sở hữu của Công ty Dầu khí Volgatek. Khi ông leo ra khỏi chiếc Volvo thể thao, một điếu thuốc lá bừng sáng lên trong bóng tối.
“Chào mừng anh đến với Shangri-La, [2]” Christopher Keller nói. Y đang mặc một áo parka nhồi lông tơ nặng nề và cầm một khẩu súng ngắn Makarov.
“Xung quanh đây ra sao?” Gabriel hỏi.
“Rét như quỷ, nhưng sạch sẽ.”
“Anh có thể đứng ngoài này bao lâu nữa?”
Keller mỉm cười. “Tôi là lính Trung đoàn mà ông bạn.”
Gabriel bước nhanh qua chỗ y đứng và đi vào nhà. Các thành viên còn lại của đội rải rác trong các tư thế ngơi nghỉ khác nhau trên các bàn ghế nhà quê trong căn phòng thật rộng lớn. Mikhail vẫn mặc y phục chỉnh tề để đi ăn tối ở quán Café Pushkin. Cậu đang ngâm bàn tay phải trong một tô nước đá lạnh.
“Có chuyện gì vậy?” đội trưởng hỏi.
“Bị va chạm ấy mà.”
“Vào cái gì vậy?”
“Mặt một kẻ khác.”
Gabriel yêu cầu cho xem bàn tay. Nó bị sưng phù thật nặng và ba đốt ngón tay bị tróc da.
“Cậu va chạm bao nhiêu lần vậy?” Gabriel hỏi.
“Một hay hai lần. Hay có lẽ nhiều hơn thế, như là mười hay mười hai.”
“Cái mặt đó ra sao rồi?”
“Ông tự xem đi.”
“Hắn đang ở đâu?”
Mikhail chỉ tay xuống sàn nhà.
Trong các đặc điểm xa hoa của dacha này có một hầm trú ẩn ngăn phóng xạ hạt nhân. Nó từng chứa đựng thức ăn, nước uống và các nhu yếu phẩm đủ dùng trong một năm.
Giờ đây nó chứa hai gã đàn ông. Cả hai đều bị bó thật chặt trong băng keo dán ống nước: hai bàn tay, hai bàn chân, hai đầu gối, miệng, cặp mắt. Dù đã bị như vậy, hiển nhiên mặt của gã lớn tuổi hơn đã bị tổn thương nghiêm trọng do liên tiếp va chạm vào bàn tay phải nguy hiểm của Mikhail. Hắn được đặt ngồi dựa lưng vào tường, hai chân duỗi ra phía trước trên nền hầm. Khi nghe tiếng mở cửa, đầu hắn bắt đầu xoay qua xoay lại y như một giàn ra đa đang tìm kiếm một máy bay xâm nhập không phận. Gabriel ngồi chồm hổm trước mặt hắn, xé toạc lớp băng keo dán mắt hắn ra, lấy đi theo nó một mảng lông mày ở một bên, khiến mặt tên côn đồ lộ vẻ vô cùng kinh ngạc. Có một vết rách dài và sâu ở một bên má, và máu khô quanh hai lỗ của cái mũi bây giờ đã bị quặp. Gabriel mỉm cười gỡ băng keo dán ống nước ra khỏi miệng.
“Chào Pavel,” Gabriel nói. “Hay tao nên gọi mày là Paul nhỉ?”
Tên ác ôn chẳng nói chẳng rằng. Đội trưởng ngó cái mũi bị gãy với vẻ dò xét.
“Chắc là đau lắm,” ông nói. “Nhưng những việc này lại xảy ra ở một nơi như là nước Nga.”
“Tao mong có dịp đền đáp lại ân huệ này, Allon ạ.”
“Vậy đúng là mày nhận ra tao rồi.”
“Dĩ nhiên,” hắn có vẻ hơi quá tự tin một chút. “Bọn tao vẫn theo dõi mày ngay từ giây phút mày mới đặt chân lên nước Nga.
“Bọn tao là ai?” Gabriel hỏi. “Volgatek? Cục SVR? FSB? Hay là bọn tao sẽ bỏ qua tất cả những điều vụn vặt linh tinh và gọi bọn mày là KGB cho đúng với bản chất của bọn mày?”
“Mày đi chết đi, Allon... mày và cả lũ chúng mày. Bọn mày sẽ không bao giờ sống sót rời khỏi nước Nga đâu.”
Nụ cười của Gabriel vẫn vững vàng giữ nguyên vị trí. “Tao vẫn thấy tốt hơn hết đừng nói những lời đe dọa rỗng tuếch, Pavel à.”
“Tao đành phải đồng ý thôi.”
“Vậy có lẽ mày nên thôi giả vờ đã biết tao tới Moscow, hay mày đã biết cái tên Nicholas Avedon do tao bịa ra. Hẳn mày đã không bao giờ hành động chống lại cậu ta đêm nay mà không có FSB yểm trợ, nếu như mày đã biết cậu ta là nội gián của tao rồi.”
“Ai bảo tao không có yểm trợ chứ?”
“Tao đây.”
“Mày sai lầm, Allon. Nhưng rồi mày lại cứ che giấu chuyện đã sai lầm suốt một thời gian dài. Cục FSB chỉ còn chờ xác minh lai lịch tất cả đội viên của mày. Bọn mày chỉ còn nhiều lắm vài giờ nữa thôi. Sau đấy chính mày là đứa ngồi trong xà lim này với một cái mũi bị gãy.”
“Vậy tao nghĩ chúng ta nên bắt đầu thôi.”
“Làm gì?”
“Lời tự thú của mày,” Gabriel nói. “Mày sẽ cho thế giới biết làm cách nào bắt cóc một cô gái người Anh tên là Madeline Hart để Công ty Dầu khí Volgatek đạt được hợp đồng ở Bắc Hải.”
Thằng khốn nạn có vẻ ngạc nhiên. “Đứa con gái người Anh sao? Là chuyện ấy sao?”
Đội trưởng chầm chậm lắc đầu như thể không hài lòng vì phản ứng của hắn. “Nào, tiếp tục đi, Pavel. Chắc chắn mày có thể làm tốt hơn như vầy. Mày đã lôi cô ta ra khỏi con đường ven bờ biển gần Calvi vài giờ sau khi ăn trưa với cô ta ở nhà hàng Les Palmiers. Một gã hạ lưu người Marseilles tên là Marcel Lacroix đã đưa mày vào đất liền, ở đó mày đã giao cô ta cho một gã hạ lưu người Marseilles khác tên là René Brossard để cầm giữ ở nơi an toàn. Rồi sau khi lấy được mười triệu euro tiền chuộc từ Thủ tướng Anh, mày đã bỏ lại cô ta đằng sau một xe hơi trên bãi biển ở Audresselles rồi quẹt một que diêm.”
“Không tồi, Allon.”
“Thật ra tất cả chuyện này không khó khăn gì. Mày đã để lại vô số manh mối cho tao lần theo. Nhưng mà đó là ý đồ của mày. Mày muốn vụ bắt cóc và sát hại Madeline có vẻ như việc làm của bọn tội phạm Pháp. Nhưng mày đã mắc một lỗi, Pavel à. Đáng lẽ mày nên nghe lời tao cảnh cáo đừng làm hại cô ta. Tao đã cho mày biết chính xác chuyện gì sẽ xảy ra nếu mày làm vậy. Tao đã nói sẽ tìm ra mày. Tao còn cho mày biết tao sẽ giết mày.”
“Thế sao mày không giết? Vì sao lại bắt người của mày phải mạo hiểm khi bắt cóc tao và đưa tao đến đây?”
“Tụi tao không bắt cóc mày, Pavel à. Tụi tao bắt giam mày. Và tụi tao đưa mày tới đây vì tuy mày đang ở trong hoàn cảnh hiện tại, nhưng đây là ngày mày gặp may đó. Tao sẽ cho mày một điều không thường diễn ra trong công việc của tụi tao. Tao sẽ cho mày một cơ hội thứ hai.”
“Tao phải làm gì để có được cơ hội thứ hai này?”
“Trả lời vài câu hỏi, sắp xếp lại một số chỗ chưa được chặt chẽ.”
“Thế thôi ư?”
Đội trưởng gật đầu.
“Rồi sau đấy?”
“Mày sẽ được thả cho đi.”
“Đi đâu chứ?” Zhirov hỏi thật nghiêm túc.
“Trở về Volgatek. Trở về SVR. Trở về với tảng đá mày đã từ dưới đó bò ra.”
Tên trưởng ban an ninh cố nhếch mép cười trịch thượng. “Và mày nghĩ chuyện gì sẽ xảy đến với tao lúc trở về Yasenevo sau khi tao đã trả lời các câu hỏi và sắp xếp lại một số chỗ chưa được chặt chẽ của mày?”
“Tao cho rằng mày sẽ bị vysshaya meva” Gabriel nói. “Biện pháp trừng phạt cao nhất.”
Zhirov gật đầu một cái tỏ vẻ thán phục. “Mày biết rất nhiều điều về cục tình báo của tao.”
“Không cần phải lựa chọn,” Gabriel đáp. “Và hoàn toàn thành thật với mày, Pavel à, tao không thể thờ ơ lơ là về những gì cục tình báo của mày sẽ làm với mày.”
“Mày nên quan tâm,” hắn nói cũng với nụ cười toe toét trịch thượng. “Mày thấy đấy, Allon, điều mày đề nghị với tao là một lựa chọn đằng nào cũng phải chết.”
“Tao đang đưa ra đề nghị cho mày cơ hội một lần nữa được nhìn thấy ánh bình minh của nước Nga, Pavel à. Và đừng lo lắng,” Gabriel nói thêm. “Tao bảo đảm mày có rất nhiều thời gian tới một nơi yên tĩnh tuyệt vời và nghĩ ra một câu chuyện hay ho để kể cho chủ nhân của mày ở SVR nghe. Cái gì đó cho tao biết rốt cuộc mày sẽ không sao hết.”
“Còn nếu tao từ chối thì sao?”
“Tao sẽ đích thân cho một viên đạn vào sau gáy của mày vì mày đã giết chết Madeline.”
“Tao cần đôi chút thời gian để suy nghĩ.”
Gabriel dán lại băng keo lên mắt và miệng Zhirov. “Mày có năm phút đó.”
Hóa ra đã mười phút trôi qua rồi Mikhail, Yaakov và Oded mới khiêng Zhirov từ căn hầm tránh phóng xạ lên phòng ăn, ở đó họ buộc hắn thật chắc vào một cái ghế thật nặng. Gabriel yên vị ở phía đối diện; Yossi đứng đằng sau ông, đôi mắt không rời khỏi màn hình hiển thị của một máy quay video gắn trên một giá ba chân. Sau khi điều chỉnh góc quay một chút, Yossi gật đầu với Mikhail, cậu ta liền gỡ băng keo dán mắt và miệng tên mật vụ Nga. Hắn nháy mắt thật nhanh rất nhiều lần. Rồi cặp mắt từ từ quét quanh căn phòng, ghi nhận mọi khuôn mặt, mọi chi tiết, rồi cuối cùng mới dừng hẳn lại ở tấm hình trên tay đội trưởng. Đó là ảnh chụp hắn ta trông khác hẳn bây giờ, đang ăn trưa với Madeline Hart tại nhà hàng Les Palmiers ở thị trấn Calvi.
“Anh đã gặp cô ta như thế nào?” Gabriel hỏi.
“Gặp ai?” Zhirov đáp lại.
Gabriel đặt tấm hình lên bàn rồi bảo Yossi tắt máy quay phim.
Họ cắt dây trói đưa hắn ra khỏi cái ghế, cột một khúc dây thừng quanh hai cổ tay rồi khiêng hắn ra ngoài bờ hồ. Một cầu tàu trải dài hơn mười lăm mét vào trong bóng tối, và ở cuối cầu tàu là một khoảnh mặt nước chưa đóng băng. Tên côn đồ xuống đó thật khiếm nhã, như một gã đàn ông bị cột chặt vẫn ưa làm như vậy khi bị ba người đàn ông giận dữ cùng ném đi thật mạnh.
“Các ông có biết thời gian tồn tại dưới nước như thế nào không?” Keller hỏi.
“Hắn sẽ bắt đầu mất cảm giác và sự khéo léo trong hai phút. Và có cơ may hắn sẽ bị bất tỉnh chừng mười lăm phút nữa.”
“Nếu như hắn không bị chết đuối ngay từ đầu.”
“Vẫn luôn có chuyện đó,” đội trưởng nói.
Keller lặng thinh quan sát cái hình dáng thảm hại một lát.
“Làm sao các ông biết được khi nào là vừa đủ với hắn?” sau cùng y hỏi.
“Khi hắn bắt đầu chìm.”
“Hãy nhắc tôi đừng theo cái phe tệ hại của ông nhé.”
“Những chuyện như thế này vẫn thường xảy ra ở một nơi như nước Nga.”
Chú thích:
[1] Kiểu nhà nghỉ theo mùa ở ngoại ô hoặc nông thôn nước Nga.
[2]Thiên đường cực lạc tưởng tượng ở chốn xa xôi trong tiểu thuyết “Chân trời lạc lối (Lost Horizon)” năm 1933 của nhà văn Anh James Hilton (1900 -1954).