← Quay lại trang sách

Chương 52 TVER OBLAST, NGA

CHỈ MẤT CÓ hai phút ở dưới hồ. Sau đó, chẳng còn phản kháng cho là mình vô tội, chẳng còn đe dọa FSB sẽ sớm chạy đến giải cứu cho hắn. Cam chịu số phận của mình, hắn trở thành một tù nhân gương mẫu. Hắn chỉ yêu cầu mỗi một điều, xin họ làm gì đó với hình dáng bên ngoài của hắn. Như hầu hết điệp viên, hắn luôn tránh các máy chụp hình quay phim trong lúc hành nghề, và chẳng muốn làm cho ngôi sao của mình trở nên trông giống như một kẻ thua cuộc trong một trận đấu giành giải thưởng.

Có một sự thật hiển nhiên về nghề tình báo: trái với điều người ta lầm tưởng, hầu hết gián điệp đều thích nói, nhất là khi đối mặt với một tình huống khiến sự nghiệp của chúng không thể nào cứu vãn nổi. Ở thời điểm ấy chúng phun ra hết bí mật của mình như thác đổ, chỉ cốt để tự chứng tỏ mình chẳng phải đơn giản chỉ là một bánh răng trong một guồng máy lén lút ám muội mà còn hơn thế, là một nhân vật quan trọng ngay cả khi không phải như vậy.

Do đó, đã xảy đến một chuyện chẳng hề đáng ngạc nhiên với Gabriel: hồi tỉnh lại sau khi chìm nghỉm dưới nước, Pavel Zhirov đột nhiên nói năng huyên thuyên. Mặc y phục chỉnh tề khô ráo, sưởi ấm nhờ uống trà đường và một chút rượu mạnh, hắn bắt đầu tường thuật không phải về Madeline Hart mà về chính mình. Hắn từng là một đứa con của nomenklarura, đỉnh cao trí tuệ của Liên Xô. Bố hắn từng là cán bộ cao cấp ở Bộ Ngoại giao dưới trướng Andrei Gromyko, nghĩa là Zhirov đã theo học ở một trường đặc biệt và từng được phép mua sắm trong các cửa hàng đặc biệt chứa các xa xỉ phẩm mà hầu hết mọi người chỉ có thể mơ tưởng mà thôi. Rồi đến cuộc sống xa hoa hầu như chưa từng nghe nói tới trong các chuyến công du ra nước ngoài. Zhirov đã sống qua phần lớn thời thơ ấu của hắn bên ngoài Liên Xô, chủ yếu ở các nước ở Đông Âu là lãnh địa mà bố hắn hết sức rành rẽ, mặc dù quả thật hắn từng sống sáu tháng ở New York khi bố hắn đang làm việc tại Liên Hợp Quốc. Hắn ghét New York. “Bọn tôi đã không xem sự giàu có và tính tham lam của Hoa Kỳ như một cái gì đấy để noi gương,” hắn nói. “Bọn tôi đã xem đấy là cái mình có thể sử dụng chống lại bọn Mỹ nhằm tiêu diệt bọn chúng.”

Bất kể sự kiện hắn từng là một học sinh lơ là học tập và thường xuyên quậy phá, Zhirov vẫn được nhận vào Học viện Ngoại ngữ Moscow đầy uy tín. Khi tốt nghiệp người ta cứ tưởng hắn sẽ làm việc ở Bộ Ngoại giao. Thay vì thế một cán bộ tuyển mộ từ ủy ban An ninh Quốc gia, được biết đến nhiều hơn với cái tên KGB, đã tới thăm căn hộ của hắn ở Moscow, cán bộ tuyển mộ bảo KGB đã theo dõi hắn từ lúc còn tấm bé và tin hắn có được tất cả các tố chất của một điệp viên hoàn hảo.

“Tôi được tâng bốc đến mức không tin nổi,” hắn thừa nhận. “Đấy là năm 1975. Ford và Brezhnev đang làm ra vẻ tử tế ở Helsinki, nhưng đằng sau vẻ hòa hoãn ở ngoài mặt, tranh chấp giữa Đông và Tây vẫn còn điên cuồng. Và tôi sẽ là một phần của cuộc tranh chấp ấy.”

Nhưng trước tiên, hắn nói thêm thật nhanh, phải theo học một học viện nữa: Học viện Cờ Đỏ là trung tâm huấn luyện của KGB ở Moscow. Ở đó hắn đã học căn bản nghiệp vụ của KGB. Tuy thế, chủ yếu hắn học cách tuyển mộ gián điệp mà với KGB, đó là một quá trình gian khổ chậm chạp, phải kiểm tra nghiêm ngặt, kéo dài đến một năm hay hơn nữa. Huấn luyện xong xuôi hắn được phân công về Cục 5 thuộc văn phòng chánh Giám đốc thứ Nhất, và nhận nhiệm sở ở Brussels. Tiếp theo là rất nhiều nhiệm sở khác ở Tây Âu cho tới khi cấp trên của hắn ở Trung tâm Moscow thấy rõ hắn có biệt tài để làm những việc hắc ám hơn của nghề gián điệp. Hắn được thuyên chuyển sang Cục S, đơn vị trông nom các gián điệp sống “bất hợp pháp” ở nước ngoài. Về sau hắn làm việc cho Cục V, bộ phận của KGB quản lý mokriye dela.

“Công việc ướt át,” Gabriel nói.

Zhirov gật đầu. “Tôi không phải là người lẩy cò như anh, Allon. Tôi là người tổ chức và vạch kế hoạch.”

“Anh có điều hành một điệp vụ mượn danh nghĩa nước khác khi làm ở Cục V hay không?”

“Bọn tôi vẫn luôn làm như thế,” hắn thừa nhận. “Mượn danh nghĩa nước khác là cách tiến hành điệp vụ tiêu chuẩn. Quả thật bọn tôi hầu như chẳng bao giờ có động thái chống lại một mục tiêu trừ phi bọn tôi có thể bịa ra một câu chuyện có vẻ hợp lý để che đậy, rằng kẻ nào khác đang ở đằng sau sự việc.”

“Anh làm ở Cục V bao lâu?”

“Đến cuối cùng.”

Hắn muốn nói tới thời điểm tháng Mười hai năm 1991. Hầu như chỉ qua đêm, một siêu cường từng rất hùng mạnh trở thành mười lăm nước riêng biệt với nước Nga, trái tim của liên bang cũ, là nước đứng đầu trong các nước bình đẳng với nhau. KGB vỡ ra làm hai cục riêng biệt. Chẳng bao lâu sau Trung tâm Moscow từng là thánh đường của ngành tình báo rơi vào một thời kỳ khó khăn. Những vết nứt xuất hiện ở mặt ngoài của tòa nhà và hành lang đầy rác rưởi không được thu gom. Các sĩ quan không cạo râu mặc đồ nhăn nhúm lang thang ở các sảnh trong tình trạng mê muội vì say xỉn.

“Thậm chí chẳng có giấy chùi trong các phòng vệ sinh nam,” giọng hắn nói đầy vẻ ghê tởm. “Toàn bộ nơi ấy là một cái chuồng heo. Và chẳng ai chịu trách nhiệm cả.”

Hắn nói điều ấy đã thay đổi khi Tổng thống sau cùng đã ra khỏi sân khấu chính trị và các siloviki, người của các cơ quan an ninh, đã nắm quyền điều hành Điện Kremlin. Gần như ngay lập tức, họ ra lệnh cho SVR tăng cường các điệp vụ chống Mỹ và Anh, cả hai trên danh nghĩa đều là đồng minh của Liên bang Nga mới thành lập. Zhirov được phong chức tân trưởng rezident của cục SVR ở Washington, một trong những nhiệm sở quan trọng nhất trong cục ấy. Nhưng vào ngày đáng lẽ phải rời khỏi nước Nga, hắn lại nhận được một lệnh triệu tập tới Điện Kremlin. Dường như Tổng thống vốn là đồng nghiệp cũ từ KGB muốn nói với hắn đôi lời.

“Tôi cứ tưởng trước khi chia tay ông ấy muốn dặn dò tôi phải xử lý công việc của mình ở Washington như thế nào. Nhưng hóa ra ông ấy lại có một kế hoạch khác cho tôi.”

“Volgatek,” Gabriel nói.

Hắn gật đầu. “Volgatek.”

Zhirov bảo để hiểu được những chuyện xảy ra kế tiếp, trước hết cần phải hiểu tầm quan trọng của dầu lửa đối với nước Nga. Hắn nhắc cho cử tọa nhớ lại hàng thập kỷ Liên Xô từng là nước sản xuất dầu lửa lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau Ả Rập Saudi và các nước Hồi giáo vùng Vịnh Ba Tư bị Mỹ khống chế. Những cú sốc dầu lửa vào các thập niên 1970 và 80 đã là mối lợi lớn đối với nền kinh tế Xô Viết ngả nghiêng chao đảo. Hắn nói chúng giống như một cái máy thở kéo dài cuộc sống của một người bệnh thật lâu sau khi não bộ đã ngừng hoạt động. Tân Tổng thống Nga hiểu những điều mà người tiền nhiệm đã không hiểu, rằng dầu lửa có thể biến nước Nga trở thành siêu cường một lần nữa. Vì thế ông ta tiễn chân bọn đầu sỏ chính trị như Viktor Orlov ra khỏi cửa và đặt toàn bộ ngành năng lượng Nga dưới quyền điều hành hữu hiệu của Điện Kremlin. Và sau đó ông ta khai trương một công ty dầu lửa của riêng mình.

“Công ty Dầu khí KGB,” Gabriel nói.

“Ít nhiều là thế,” hắn chầm chậm gật đầu đồng ý.

“Nhưng công ty bọn tôi phải làm cho khác đi. Bọn tôi có nhiệm vụ đạt được các giấy phép khoan dầu và các sản phẩm chế biến cuối cùng ở bên ngoài nước Nga. Và bọn tôi là KGB từ đầu đến chân. Quả thật một tỷ lệ phần trăm lớn lao từ lợi nhuận của bọn tôi giờ đây trực tiếp chảy vào các tài khoản ở Yasenevo.”

“Phần còn lại đi đâu?”

“Anh sử dụng trí tưởng tượng của mình đi.”

“Vào túi Tổng thống Nga à?”

“Ông ấy chẳng trở nên người giàu nhất châu Âu nhờ khôn ngoan đầu tư lương hưu KGB của mình đâu. Tổng thống của bọn tôi đáng giá chừng bốn mươi tỷ đô la, và phần lớn tài sản của ông ấy đến từ Volgatek.”

“Khoan dầu ở Bắc Hải là ý kiến của ai?”

“Là ý của ông ấy. Đấy là một ý kiến rất riêng tư. Ông ấy bảo mình muốn Volgatek cắm một cọng rơm vào lãnh hải của Vương quốc Anh và hút nó cho đến khi chẳng còn gì nữa. Theo hồ sơ đã ghi lại,” hắn nói thêm, “tôi đã chống lại ngay từ đầu.”

“Tại sao?”

“Một phần công việc trưởng ban an ninh và điệp vụ của tôi là khảo sát sân chơi trước khi có động thái đối với các tài sản hay hợp đồng khoan dầu. Đánh giá của tôi về tình hình ở Đảo quốc Anh không có gì hứa hẹn cả. Tôi đã tiên đoán căng thẳng chính trị giữa London và Moscow sẽ dẫn đến việc bác đơn xin khoan dầu của bọn tôi ngoài khơi Quần đảo phía Tây. Và thật đáng tiếc đã chứng tỏ là tôi đúng.”

“Tôi nghĩ Tổng thống đã thất vọng.”

“Ông ấy giận dữ chưa từng thấy,” Zhirov nói. “Chủ yếu vì tình nghi Viktor Orlov đã giở trò trong chuyện ấy. Ông gọi tôi vào văn phòng của ông trong Điện Kremlin và bảo tôi sử dụng bất cứ mọi thủ đoạn cần làm để đạt cho được hợp đồng ấy.”

“Vậy là anh đã để mắt tới Jeremy Fallon “

Zhirov ngần ngừ một lát rồi mới đáp lại. “Hiển nhiên anh có những nguồn thông tin rất tốt ở London.”

“Năm triệu euro trong một tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ,” đội trưởng nói. “Đó là tiền anh đã cho Jeremy Fallon để đạt được hợp đồng cho các anh.”

“Hắn cứ cò kè bớt một thêm hai mãi. Chẳng cần phải nói,” Zhirov thêm vào, “bọn tôi đã cực kỳ thất vọng khi hắn không giao được hợp đồng. Hắn bảo không làm gì được nữa. Lancaster và Bộ trưởng Năng lượng kiên quyết phản bác giao dịch ấy. Bọn tôi phải làm gì đấy để thay đổi động lực - phải bày binh bố trận, nếu anh muốn nói thế.”

“Vậy là anh đã bắt cóc nhân tình của Thủ tướng.”

Tên ác ôn không đáp.

“Nói đi,” Gabriel bảo, “bằng không chúng tôi sẽ diễn một màn bơi lội dưới ánh trăng nữa.”

“Đúng,” hắn nhìn thẳng vào ống kính camera, “tôi đã bắt cóc tình nhân của Thủ tướng.”

“Làm sao anh biết được Lancaster có quan hệ tình ái với cô ta?”

“Rezidentura ở London từng nghe tin đồn trong một khoảng thời gian về một phụ nữ trẻ từ tổng hành dinh của đảng đã đến Phố Downing lúc đêm khuya. Tôi đã bảo họ cố tìm hiểu thêm một chút về vấn đề ấy. Chẳng mất bao lâu họ đã hình dung ra cô ta là ai.”

“Fallon có biết anh dự định bắt cóc cô ta hay không?”

Zhirov lắc đầu. “Tôi đã đợi đến sau khi giao lời tự thú của Madeline rồi mới cho Fallon biết bọn tôi ở đằng sau vụ ấy. Tôi bảo hắn lợi dụng cơ hội để thực hiện giao dịch. Bằng không tôi cũng sẽ đốt hắn luôn.”

“Bằng cách tiết lộ chuyện hắn đã nhận hối lộ năm triệu euro từ một công ty dầu lửa Nga đã rõ là của Điện Kremlin.”

Tên trưởng ban an ninh gật đầu.

“Anh tiếp xúc với hắn lúc nào?”

“Tôi đi du lịch đến London trong lúc anh và anh bạn nhỏ từ đảo Corse của anh đang lùng kiếm cô ấy khắp nước Pháp. Lancaster tỏ ra quá bất lực vì bị căng thẳng đến nỗi đã bảo Fallon tùy nghi xử lý Fallon cố thúc ép để đi đến ký kết giao dịch mặc cho Bộ trưởng Năng lượng phản đối. Sau đấy tôi bày ra trò chơi kết cục.”

“Đòi tiền chuộc,” đội trưởng nói. “Mười triệu euro, bằng không cô gái phải chết, và Fallon đã biết hết mọi chuyện đó chẳng qua chỉ là một màn diễu hành được dàn dựng nhằm che đậy vai trò của Volgatek trong vụ Madeline mất tích.”

“Và cả vai trò của hắn nữa,” Zhirov thêm vào.

“Lancaster đã biết được bao nhiêu?”

“Không biết gì,” hắn đáp lại. “ông ấy vẫn tin mình đã trả mười triệu euro để cứu tình nhân và sự nghiệp chính trị của mình.”

“Tại sao anh khăng khăng yêu cầu tôi đi giao tiền?”

“Bọn tôi muốn vui đùa một chút để làm anh mất uy tín.”

“Bằng cách giết Madeline trước mặt tôi hay sao?” Zhirov im lặng.

“Nói với các máy quay đi, Pavel. Thừa nhận anh đã giết chết Madeline đi.”

“Tôi đã giết Madeline Hart,” hắn kể lại.

“Bằng cách nào?”

“Bằng cách đặt cô ấy đằng sau một chiếc xe Citroën với một quả bom xăng.”

“Tại sao?” Gabriel hỏi. “Tại sao anh lại giết cô ta?”

“Cô ấy phải chết. Chẳng có cách nào để cho cô ta được trở về nước Anh cả.”

“Tại sao anh không giết tôi luôn?”

“Hãy tin tôi, Allon, hẳn sẽ không gì khiến bọn tôi vui hơn khi làm thế. Nhưng bọn tôi từng nghĩ để anh sống sẽ hữu ích hơn là giết chết. Dù sao chăng nữa còn ai thích hợp hơn Gabriel Allon vĩ đại để chứng thực vụ sát hại Madeline là một phần của âm mưu bắt cóc tống tiền bình thường chứ?”

“Mười triệu euro đâu rồi?”

“Tôi đã biếu cho Tổng thống Nga làm quà rồi.”

“Tôi muốn lấy lại nó.”

“Chúc may mắn làm được việc ấy.”

Gabriel lại đặt tấm hình chụp bữa tiệc trưa ở nhà hàng Les Palmiers lên mặt bàn lần nữa.

“Chuyện gì đã diễn ra ở đây?” ông hỏi.

“Tôi nghĩ anh có thể gọi đấy là giai đoạn cuối của một cuộc tuyển mộ lãng mạn.”

Đội trưởng nhăn nhó tỏ vẻ hoài nghi. “Tại sao một cô gái trẻ đẹp như Madeline lại quan tâm tới một kẻ ghê gớm như anh?”

“Tôi có nghiệp vụ giỏi cơ mà, Allon. Cũng như anh thôi. Ngoài ra,” hắn nói thêm, “đấy là một cô gái cô đơn. Cô ấy rất dễ dãi.”

“Cứ xem lại mình đi, Pavel.” Gabriel làm ra vẻ đang săm soi tấm hình thật kỹ một lần nữa. “Thật nực cười,” một lát sau ông nói, “nhưng cả hai người có vẻ rất thoải mái bên nhau.”

“Đấy là cuộc gặp gỡ lần đầu của bọn tôi.”

“Gặp gỡ sao?”

“Hẹn hò,” hắn tự sửa sai.

“Với tôi không có vẻ như hai người đang vui vẻ,” Gabriel vẫn nhìn tấm hình chằm chặp. “Thật vậy, nếu tôi không hiểu đúng hơn thì phải nói là hai người đang cãi nhau.”

“Chẳng phải thế,” hắn nói thật nhanh.

“Anh có chắc điều đó không?”

“Tôi chắc chắn.”

Gabriel để tấm hình sang một bên, không nói một lời nào.

“Còn câu hỏi nào nữa không?” Zhirov hỏi.

“Chỉ một câu thôi,” Gabriel nói. “Làm sao anh biết Madeline có quan hệ tình ái với Jonathan Lancaster?”

“Tôi đã trả lời câu hỏi ấy rồi cơ mà.”

“Tôi biết. Nhưng lần này tôi muốn anh nói thật.”

Hắn đưa ra cũng lời giải thích đó - cũng chuyện tin đồn tới tai rezident của SVR ở London - nhưng Gabriel không chấp nhận, ông cho Zhirov thêm một cơ hội nữa; sau đó vì hắn lại nói dối như trước, ông giải gã người Nga ra cuối cầu tàu và ấn họng súng Makarov lên gáy hắn. Và tại đó, ở bờ mép của cái hồ đóng băng không tên, sự thật cứ được phun ra hết. Một phần ông đã mãi tình nghi. Dù vậy quả thật Gabriel không thể nào tin câu chuyện hắn kể. Nhưng chuyện đó phải có thật, ông nghĩ. Thật vậy, đó là lời giải thích khả dĩ duy nhất đối với toàn bộ những chuyện đã xảy ra.

Trở vào bên trong dacha, Zhirov kể lại câu chuyện một lần nữa, lần này cho máy quay phim nghe, trước khi bị trói và bịt miệng rồi trở lại hầm trú ẩn chống phóng xạ. Điệp vụ giờ đây gần như hoàn tất. Họ đã có được bằng chứng Volgatek đã hối lộ và tống tiền để tìm đường vào thị trường dầu lửa sinh lợi ở Bắc Hải. Tất cả những gì họ phải làm bây giờ là đi ra sân bay và lên những chuyến máy bay khác nhau trở về nhà. Hoặc là, Gabriel gợi ý, họ có thể hoãn lại thời điểm khởi hành để làm một chút chuyện cuối cùng nữa. Đó không phải một chuyện ông có thể quyết định một mình, vì vậy trong trường hợp đặc biệt này ông đưa vấn đề ra biểu quyết. Không có ai bất đồng cả.