Phần ba - Vụ bê bối Chương 58 LONDON - JERUSALEM
SÁNG HÔM SAU cả đảo quốc Anh tiến hành cuộc tuyển cử. Jonathan Lancaster đi bỏ phiếu thật sớm cùng với bà vợ Diana và ba đứa con rất ăn ảnh của họ rồi mới trở về Phố Downing để chờ đợi phán quyết của cử tri. Trong ngày có rất ít hồi hộp mong chờ; một cuộc khảo sát vào đêm cuối trước cuộc tuyển cử đã tiên đoán đảng của Lancaster hầu như chắc chắn sẽ tăng mức độ đa số trong nghị viện nhờ thắng rất nhiều ghế. Giữa buổi chiều Whitehall nhốn nháo quay cuồng vì các tin đồn về một cuộc tàn sát trong tuyển cử, và đầu buổi tối rượu champagne tuôn tràn trong trụ sở của đảng tại tòa nhà phức hợp Millbank. Dù vậy Lancaster vẫn có vẻ u sầu một cách kỳ lạ khi rảo bước trên sân khấu tại Sảnh Lễ hội Hoàng gia để đọc bài diễn văn chiến thắng của mình. Trong số các phóng viên chính trị ghi chép lại về thái độ nghiêm trang của ông ta có Samantha Cooke của tờ Daily Telegraph. Cô viết rằng, Thủ tướng trông có vẻ như một người biết nhiệm kỳ thứ nhì của mình sẽ chẳng được tốt đẹp như nhiệm kỳ đầu tiên. Nhưng rồi, cô viết tiếp, các nhiệm kỳ thứ nhì hiếm khi tốt đẹp.
Những điều phiền toái của Lancaster bắt đầu vào cuối tuần đó khi ông bắt tay vào việc cải tổ theo truyền thống Nội Các và ban tham mưu cá nhân của mình. Như đã được tiên đoán rộng khắp, Jeremy Fallon giờ đây là nghị sĩ từ thành phố Bristol, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh, tức là bộ óc và ông chủ giật dây con rối Lancaster, còn là người thân cận của ông ta ở Phố Downing nữa. Người đàn ông mà báo chí một dạo đã mô tả đặc điểm như một Phó Thủ tướng chỉ trên danh nghĩa, giờ đây đối với hết thảy mọi người ở Whitehall lại có vẻ bề ngoài của một Thủ tướng đang chờ bổ nhiệm. Fallon mau chóng tập hợp hết các nhân viên còn lại trong ban tham mưu của y ở Phố Downing lúc trước - chí ít những kẻ vẫn còn có thể chịu đựng được để làm việc cho y - và dùng ảnh hưởng của y bên trong tổng hành dinh của đảng để đưa những kẻ trung thành lấp đầy các địa vị chính trị chủ chốt. Sân khấu chính trị giờ đây đã được sắp đặt, Samantha Cooke viết, cho một cuộc đấu tranh giành quyền lực với tương quan lực lượng như trong kịch Shakespeare. Chẳng bao lâu nữa, cô nói, Fallon sẽ gõ cửa Số Mười và đòi lấy chùm chìa khóa. Jeremy Fallon đã tạo ra Lancaster. Và chắc chắn, cô tiên đoán, Fallon cũng sẽ cố hủy hoại Lancaster.
Chẳng một thời điểm nào trong suốt các cuộc vận động chính trị hậu tuyển cử mà cái tên Madeline Hart lại xuất hiện trên mặt báo, ngay cả khi chủ tịch đảng quyết định đã đến lúc lấp vào chức vụ còn bỏ trống của cô. Một nhân viên cấp dưới ở tổng hành dinh lo liệu việc vặt vãnh không lành mạnh, dọn dẹp đi những đồ đạc cuối cùng của cô ở nơi cô làm việc trước đây. Chẳng còn lại gì nhiều: vài xấp giấy tờ dính bụi bặm, tấm lịch của cô, những cây bút và kẹp giấy, một ấn bản nhăn nheo nhàu nát vì những nếp gấp làm dấu của tiểu thuyết Pride and Prejudice (Tạm dịch: Kiêu hãnh và Định kiến) mà trước đây cô thường hay đọc bất cứ lúc nào có được đôi chút thời gian rảnh rỗi. Cấp dưới giao các món đồ cho chủ tịch đảng, tới lượt ông này lại thuyết phục thư ký của mình cứ việc lẳng lặng tùy nghi sử dụng chúng với phẩm giá hết mức có thể. Và thế là những vết tích cuối cùng của một cuộc đời chưa kết liễu đã bị xóa sổ ra khỏi tổng hành dinh của đảng. Madeline Hart cuối cùng đã ra đi. Hoặc họ cứ tưởng như thế.
Thoạt tiên có vẻ như cô đã đổi một hình thức giam cầm này lấy một hình thức giam cầm khác. Lần này căn hộ làm xà lim nhà tù của cô không ngó xuống Sông Neva ở thành phố St. Petersburg mà nhìn ra Địa Trung Hài ở thành phố Netanya. Ban quản lý chung cư đã được báo cho biết cô ta đang an dưỡng sau một thời gian dài bệnh hoạn. Điều đó không khác xa sự thật.
Cả tuần cô không hề bước chân ra ngoài bốn bức tường của căn hộ. Những ngày ấy của cô thiếu hẳn những việc thường lệ có thể nhận biết được. Cô ngủ dậy trưa, cô ngắm biển, cô đọc lại quyển tiểu thuyết mình yêu thích nhất, tất cả đều dưới ánh mắt chăm chú cảnh giác của một đội bảo an thuộc Văn phòng. Một bác sĩ mỗi ngày một lần tới kiểm tra sức khỏe cho cô. Vào ngày thứ bảy, khi được hỏi có bị đau đớn gì không, cô trả lời mình đang chịu đựng một cảm giác buồn chán đến tột cùng.
“Thà chết vì buồn chán còn hơn vì thuốc độc của Nga,” bác sĩ đành chịu thua.
“Điều ấy tôi cũng chẳng chắc chắn lắm,” cô đáp lại bằng tiếng Anh kéo dài ra.
Bác sĩ hứa sẽ thỉnh cầu lên người có thẩm quyền cao hơn về điều kiện bị giam hãm của cô; và đến ngày lưu trú thứ tám người có thẩm quyền cao hơn cho phép cô được đi bộ một thời gian ngắn trên dải cát lộng gió lạnh giá nằm bên dưới khoảnh sân trước căn hộ của cô. Hôm sau đó cô được đi xa hơn một chút. Và vào ngày thứ mười cô cứ đi mãi tới gần Tel Aviv, rồi những người theo nhắc nhở cô mới nhẹ nhàng đặt cô lên đằng sau một chiếc xe hơi của Văn phòng và chở cô trở về căn hộ. Khi bước vào cô thấy một bản sao chép chính xác của bức tranh The Pond at Montgeron treo trên tường phòng khách - thật chính xác ngoại trừ chữ ký của họa sĩ đã vẽ ra nó. Người họa sĩ ấy gọi điện cho cô vài phút sau đó và tự giới thiệu thật đúng đắn lần đầu tiên.
“Là Gabriel Allon ấy sao?” cô hỏi.
“Tôi e rằng đúng như vậy,” ông trả lời.
“Còn người phụ nữ giúp tôi lên máy bay là ai thế?”
“Rồi cô sẽ sớm biết thôi.”
Gabriel và Chiara đến thành phố Netanya lúc giữa trưa ngày hôm sau, khi Madeline đã trở về sau cuộc đi dạo buổi sáng dọc theo bãi biển. Họ đưa cô tới Caesarea để ăn trưa rồi dạo chơi qua những tàn tích của La Mã và Thập Tự Quân; sau đó theo bờ biển đi lên xa hơn, gần tới Lebanon, để lang thang trong các hang động miền biển ở Rosh HaNikra. Từ đó họ di chuyển về phía Đông dọc theo đường biên giới căng thẳng, ngang qua chốt thám thính của IDF và thị trấn nhỏ đã bị cuộc chiến vừa qua với nhóm Hezbollah khiến dân cư trở nên thưa thớt, cho tới khi họ đến Kiryat Shmona. Gabriel đã đặt trước hai phòng ở nhà khách của một kibbutz [1] cũ. Từ phòng của Madeline có thể ngắm phong cảnh tuyệt đẹp của vùng Thượng Galilee. Một cận vệ bảo đảm an ninh của Văn phòng qua đêm ngoài cửa phòng cô, và một cận vệ khác ngồi bên ngoài khoảnh sân vườn trước căn phòng.
Sáng hôm sau, khi đã dùng bữa điểm tâm trong phòng ăn tập thể của kibbutz rồi, họ lái xe tiến vào Cao nguyên Golan. IDF đang trông đợi họ; một đại tá trẻ đưa họ tới một địa điểm dọc theo biên giới với Syria, nơi đó có thể nghe thấy các lực lượng của chế độ đang nã pháo vào các vị trí của phiến quân. Sau đó họ viếng thăm một thời gian ngắn Pháo đài Thợ săn, một thành lũy của Thập Tự Quân thời cổ nhìn xuống vùng đất bằng phẳng của Galilee, rồi mới tiến về thành phố Safed cổ kính của người Do Thái. Họ ăn trưa trong khu phố của các họa sĩ, tại nhà một phụ nữ tên là Tziona Levin. Mặc dù Gabriel nhắc tới bà Tziona như là doda, tức là dì của ông, nhưng thực sự bà là người thân thiết nhất mà ông có được như chị em ruột. Dường như bà không hề ngạc nhiên khi thấy ông nơi ngưỡng cửa nhà mình cùng với một phụ nữ trẻ đẹp mà toàn thế giới tin là đã chết. Bà biết rõ Gabriel có thói quen trở về Israel với những đồ vật bị mất.
“Công việc ra sao rồi?” bà hỏi khi uống cà phê ngoài khu vườn rực nắng của minh.
“Chưa bao giờ tốt đẹp hơn,” Gabriel vừa đáp vừa liếc nhìn Madeline.
“Tôi đang nói về nghề họa sĩ của anh, Gabriel à.”
“Cháu vừa phục chế xong một bức tranh rất đẹp của Bassano.”
“Anh nên tập trung vào công việc của mình,” bà nói có vẻ trách móc.
“Cháu đang tập trung ạ,” ông phản ứng lại một cách mơ hồ, khiến bà ta đành bỏ luôn đề tài đó. Khi họ uống cà phê xong rồi, bà dẫn họ vào xưởng vẽ của mình để xem những bức tranh mới nhất. Rồi theo yêu cầu của Gabriel, bà mở khóa kho lưu trữ. Bên trong có hàng trăm bức tranh và phác họa do mẹ Gabriel vẽ, bao gồm rất nhiều tác phẩm miêu tả một người đàn ông cao ráo mặc quân phục SS.[2]
“Cháu tưởng dì đã đốt hết mấy bức này theo yêu cầu của cháu rồi chứ.”
“Anh đã bảo,” bà Tziona thừa nhận, “nhưng tôi không thể tự khiến mình làm việc đó.”
“Hắn là ai thế?” nhìn chằm chặp bức tranh, Madeline hỏi.
“Tên hắn là Erich Radek,” Gabriel trả lời. “Hắn điều hành một chương trình bí mật của Đức Quốc xã gọi là Aktion 1005. Mục tiêu của nó là che giấu tất cả chứng cứ cho thấy cuộc Đại Thảm sát đã diễn ra.”
“Vì sao mẹ ông lại vẽ hắn?”
“Hắn suýt giết chết bà trên chặng đường dẫn giải tử thần từ trại Auschwitz vào tháng Giêng năm 1945.”
Cô gái người Anh nhướng một bên lông mày lên một cách kỳ quặc. “Radek chẳng phải là kẻ đã bị bắt ở Vienna cách đây vài năm và bị giải đến Israel để xét xử sao?”
“Theo hồ sơ lưu trữ,” Gabriel đáp, “thì Erich Radek đã tự nguyện tới Israel.”
“Vâng,” cô vẫn còn hồ nghi. “Còn tôi thì đã bị bọn tội phạm Pháp từ Marseilles bắt cóc.”
Ngày hôm sau họ lái xe tới Eilat. Văn phòng đã thuê một biệt thự tư nhân rộng lớn không xa biên giới Jordan. Madeline qua những ngày của mình bằng cách nằm kế bên hồ bơi, đọc đi đọc lại một chồng tiểu thuyết Anh cổ điển. Gabriel nhận thấy cô đang chuẩn bị để trở về một đất nước thật ra không phải của cô. Cô ta không phải là ai hết, ông nghĩ. Cô không hoàn toàn là một nhân vật có thật. Và không phải lần đầu tiên ông tự hỏi phải chăng có lẽ cô sống ở Israel thoải mái hơn ở Vương quốc Anh. Đó là câu hỏi ông đặt ra cho cô vào đêm cuối cùng họ lưu trú ở miền Nam. Họ yên vị trên đỉnh một tảng đá nhô lên khỏi mặt đất ở vùng Negev, cùng ngắm mặt trời đang lặn xuống vùng đất cằn cỗi của bán đảo Sinai.
“Thật hấp dẫn,” cô nói.
“Nhưng sao?”
“Đây chẳng phải là quê nhà của tôi,” cô trả lời. “Sẽ giống như nước Nga. Ở đây tôi sẽ là người xa lạ.”
“Sẽ khó khăn đó, Madeline à. Khó khăn rất nhiều hơn cô tưởng đó. Chính quyền Anh sẽ bắt cô phải trải nghiệm những khó khăn căng thẳng cho tới khi họ chắc chắn về lòng trung thành của cô. Rồi sau đó họ sẽ giam giữ để cách ly cô ở nơi nào đó mà người Nga sẽ không bao giờ tìm thấy cô. Cô sẽ không bao giờ trở lại với cuộc sống của mình trước đây. Không bao giờ,” ông lặp lại. “Sẽ khốn khổ đó.”
“Tôi biết,” cô nói một cách lạnh nhạt.
Thật ra cô ta không biết, ông thầm nghĩ, nhưng có lẽ như vậy sẽ tốt hơn. Mặt trời vẫn treo lơ lửng ở chân trời. Không khí hoang mạc bỗng trở lạnh đủ để cô gái run lên.
“Chúng ta có nên quay trở về không?” ông hỏi.
“Khoan về đã,” cô trả lời.
Ông cởi áo khoác ra, phủ lên hai vai cô. “Tôi sẽ cho cô biết một điều có lẽ không nên nói. Không bao lâu nữa tôi sẽ là sếp của tình báo Israel.”
“Xin chúc mừng.”
“Có lẽ chia buồn mới phải. Nhưng như vậy nghĩa là tôi có quyền hành để chăm sóc cho cô. Tôi sẽ cho cô một nơi thật tốt để sinh sống. Một gia đình. Đó là một gia đình không có quan hệ họ hàng thân thuộc,” ông vội vàng nói thêm, “nhưng là gia đình duy nhất tôi có được, chúng tôi sẽ cho cô một đất nước. Một quê nhà. Đó là việc chúng tôi vẫn làm ở Israel, chúng tôi cho người ta một quê nhà.”
“Tôi đã có quê nhà rồi cơ mà.”
Cô không nói gì nữa. Vầng dương đã trượt xuống bên dưới chân trời. Rồi cô mất hút vào bóng tối.
“Ở lại đi,” Gabriel bảo. “Ở lại với chúng tôi đi.”
“Tôi không thể ở lại. Tôi là Madeline. Tôi là một cô gái người Anh.”
Đêm kế tiếp là đại nhạc hội khai mạc cuộc triển lãm Những chiếc Cột Đền Solomon tại Viện Bảo tàng Israel ở thành phố Jerusalem. Tổng thống và Thủ tướng có đến dự, cũng như các thành viên của Nội Các, hầu hết Knesset (Quốc hội Israel) và đông đảo nhà văn, họa sĩ quan trọng và các nghệ sĩ đến giúp vui. Chiara là một trong những người phát biểu tại lễ hội được tổ chức trong phòng triển lãm mới xây dựng. Nàng không hề đề cập tới chuyện chồng mình là sĩ quan tình báo Israel huyền thoại Gabriel Allon đã phát hiện những cây cột, hay chuyện người phụ nữ tóc đen xinh đẹp bên cạnh ông thật ra là một cô gái người Anh đã chết tên là Madeline Hart. Họ lưu lại trong bữa tiệc chiêu đãi rượu cocktail chỉ vài phút trước khi lái xe qua Jerusalem tới một nhà hàng yên tĩnh tọa lạc trên khu đất cũ của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Thiết kế Bezalel. Sau đó trong khi tản bộ trên Phố Ben Yehuda, Gabriel lại hỏi Madeline có muốn lưu lại Israel hay không, nhưng cô vẫn trả lời như trước. Cô qua đêm cuối cùng ở Israel trong phòng ngủ dành riêng cho khách tại căn hộ của Gabriel ở Phố Narkiss, vốn là căn phòng dành cho một đứa con. Sáng sớm hôm sau họ lái xe tới Sân bay Ben Gurion trong bóng tối rồi lên một chuyến bay đi London.
Chú thích:
[1] Công xã hay cộng đồng kinh tế- xã hội trong nông nghiệp, nông thôn Israel.
[2] Viết tắt tiếng Đức “Schutzstaffel”: Đội Phòng vệ, một tổ chức bán quân sự của Đức Quốc xã do Hitler thành lập năm 1925 như một đội cận vệ của mình; trong Thế chiến thứ Hai, SS đảm nhiệm việc cai quản các trại tập trung.