← Quay lại trang sách

Chương 59 LONDON

TRONG RẤT NHIỀU ngày Gabriel đã suy nghĩ cân nhắc xem có nên báo cho Graham Seymour biết mình sắp sửa chứa chấp một kẻ đào ngũ người Nga khá bất thường hay không. Sau cùng, ông quyết định không làm như vậy. Lý do của ông có tính chất cá nhân chứ không liên quan gì đến điệp vụ. Đơn giản là ông không muốn làm hỏng chuyện bất ngờ.

Kết quả là đội đón tiếp chờ đợi tại Sân bay Heathrow cuối buổi sáng hôm ấy là Văn phòng chứ không phải MI5. Họ bí mật đón Gabriel và Madeline trong sảnh đến và chở họ tới một căn hộ có đầy đủ tiện nghi vừa vội vàng kiếm được ở Pimlico. Sau đó Gabriel gọi điện cho Seymour ở văn phòng của ông ta và cho ông biết một lần nữa mình đã vào Vương quốc Anh mà chưa ký tên vào sổ khách mời.

“Thật ngạc nhiên quá,” Seymour nói một cách lãnh đạm.

“Không chỉ tới thôi đâu.”

“Anh đang ở đâu?”

Gabriel cho ông ta địa chỉ.

Seymour có cuộc họp với một phái đoàn điệp viên Úc tới viếng thăm không thể nào hoãn lại. Vì vậy một giờ trôi qua rồi xe hơi của ông mới xuất hiện trên đường phố bên ngoài tòa nhà. Khi đi vào căn hộ, ông thấy Gabriel một mình trong phòng khách. Trên cái bàn salon có một máy tính xách tay đang mở, mà Gabriel dùng để chiếu đoạn phim về việc Pavel Zhirov thú nhận nhiều tội lỗi của công ty năng lượng thuộc sở hữu của Điện Kremlin được biết với cái tên Dầu khí Volgatek. Khi đoạn phim kết thúc, ông ta có vẻ rất kinh ngạc. Điều đó chứng minh một trong các châm ngôn được ưa thích nhất của Ari Shamron, ông nghĩ bụng. Trong công tác tình báo cũng như trong cuộc sống, đôi khi tốt hơn hết không nên biết.

“Hắn là kẻ đã ăn trưa với Madeline ở đảo Corse đúng không?” cuối cùng ông ta hỏi, vẫn nhìn chằm chặp màn hình máy tính.

Gabriel gật đầu chầm chậm, “ông bảo tôi tìm hắn, và tôi đã tìm thấy.”

“Chuyện gì đã xảy đến với mặt hắn thế?”

“Hắn đã nói với Mikhail điều gì đó đáng lẽ không nên nói.”

“Hiện giờ hắn ở đâu?”

“Đi rồi,” Gabriel đáp.

“Ra đi có nhiều mức độ, anh biết rồi đây.”

Nét bối rối trên khuôn mặt Gabriel cho thấy rõ Pavel Zhirov đã ra đi vĩnh viễn.

“Bọn Nga đã biết chưa?”

“Chưa.”

“Bao lâu nữa rồi bọn chúng mới phát hiện ra?”

“Mùa Xuân, tôi xin nói như vậy.”

“Ai đã giết hắn?”

“Một chuyện khác thì để khi khác vậy.”

Gabriel lấy DVD ra khỏi máy tính rồi tặng nó cho Seymour. Khi nhận lấy ông ta thở ra chầm chậm như thể đang cố giữ cho huyết áp được ổn định.

“Tôi đã tham gia cái trò này lâu lắm rồi,” sau cùng ông ta nói, “và đoạn phim ấy là chuyện nổi đình nổi đám nhất tôi chưa từng thấy.”

“Ông vẫn chưa từng thấy mọi chuyện, Graham à.”

“Tôi không biết anh có để ý hay không,” Seymour nói như thể chưa nghe thấy lời cảnh báo của Gabriel, “nhưng chúng tôi vừa mới tổ chức một cuộc bầu cử ở đất nước này. Jonathan Lancaster vừa thắng một trận long trời lở đất lớn lao nhất trong lịch sử Vương quốc Anh. Và Jeremy Fallon bây giờ là Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh đấy.”

“Không lâu đâu,” Gabriel nói.

Seymour không đáp lại.

“Ông không đang nghĩ tới chuyện để cho hắn ta thoát khỏi vụ này, phải không Graham?”

“Không. Nhưng sẽ là một cuộc thảm sát đẫm máu đấy.”

“Ông vẫn luôn biết sẽ như vậy mà.”

“Nhưng tôi cũng đang hy vọng máu không vương vãi vào tôi.” Ông ta chìm vào trong im lặng nặng nề.

“Phải chăng có điều gì đó trĩu nặng trong lòng mà ông cần trút bỏ, Graham?”

“Thủ tướng đã đề nghị thăng chức cho tôi,” ông ta nói sau một lúc do dự.

“Kiểu thăng chức nào vậy?”

“Cái kiểu mà tôi chẳng thể nào gạt bỏ.”

“Tổng Giám đốc à?”

Seymour gật đầu. “Nhưng chẳng phải của MI5 đâu,”

Ông ta nhanh chóng thêm vào. “Anh đang nhìn sếp tương lai của Cơ quan Mật vụ phụng sự Nữ hoàng Bệ hạ đấy. Anh và tôi sẽ cùng nhau điều hành thế giới... một cách vụng trộm, dĩ nhiên là thế.”

“Trừ phi ông lật đổ chính phủ Lancaster.”

“Chính xác,” Seymour đáp. “Nếu tôi làm thế, có cơ hội rất tốt tôi sẽ bị quét ra biển với những người còn lại trong bọn họ. Và anh sẽ mất một đồng minh thân thiết trong quá trình ấy.” Ông ta hạ thấp giọng rồi nói tiếp, “Tôi thiết nghĩ một người ở vào địa vị của anh sẽ muốn đeo bám một người bạn như tôi. Thời buổi này anh chẳng có nhiều bạn bè đâu.”

“Nhưng ông không thể nào để cho một công ty năng lượng thuộc sở hữu của KGB khoan dầu trong lãnh hải của các ông.”

“Đấy sẽ là sự xao lãng nhiệm vụ,” ông ta đồng ý một cách thành thật.

“Ông cũng không thể để cho một tên gián điệp được Điện Kremlin trả tiền tiếp tục giữ chức vụ bộ trưởng. Bằng không,” Gabriel nói tiếp, “có thể hắn sẽ là thủ tướng kế tiếp của ông.”

“Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi tôi đã rùng mình rồi.”

“Vậy ông phải hủy hoại hắn, Graham à.” Gabriel tạm dừng. “Hoặc ông phải ngoảnh mặt ngó lơ khi tôi làm việc đó thay ông.”

Seymour im lặng một lát. “Anh sẽ tiến hành việc ấy thế nào?”

“Bằng cách đáp trả lại một ân huệ.”

“Còn Lancaster thì sao?”

“Ông ta mắc tội ngoại tình. Có cơ hội tốt để nhân dân Anh sẽ tha thứ cho ông ta, nhất là khi họ được biết Jeremy Fallon có năm triệu euro trong một tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ.” Gabriel dừng lại rồi nói tiếp, “Và còn có một trường hợp giảm khinh khác tôi vẫn chưa nói cho ông biết.”

“Chuyện gì thế?”

Gabriel mỉm cười và đứng thẳng dậy.

Ông đi vào phòng ngủ và một lát sau trở ra với một phụ nữ trẻ đẹp bên cạnh. Cô ta có mái tóc đen tuyền và làn da từng nhợt nhạt của cô đã đen sạm đi rất nhiều vì ánh nắng của Hồng Hải. Seymour đứng lên với phong cách của một hiệp sĩ rồi mỉm cười chìa bàn tay ra. Vì nó cứ lửng lơ ở đó không được tiếp nhận, trên mặt ông hiện lên một nét bối rối. Và rồi ông đã hiểu ra. Ông nhìn Gabriel, thì thầm, “Ôi Chúa ơi.”

Cô kể cho Graham Seymour nghe câu chuyện từ lúc bắt đầu - cũng là câu chuyện cô đã kể cho Gabriel nghe vào buổi chiều buốt giá ấy ở St. Petersburg, trên mái vòm của Giáo đường Thánh Isaac. Rồi làm ra vẻ nghiêm trang, cô thản nhiên tuyên bố mình ước muốn đào thoát đến Vương quốc Anh và nếu có thể được, một ngày nào đó trở lại với cuộc sống của riêng mình.

Là Phó Giám đốc của MI5, Graham Seymour không có thẩm quyền cấp quy chế đào thoát cho một điệp viên Nga; người duy nhất có thể làm việc đó là tình nhân trước đây của cô, Jonathan Lancaster. Điều đó giải thích vì sao lúc hai giờ mười lăm chiều hôm ấy, Seymour xuất hiện tại Số Mười mà không báo trước và yêu cầu được nói vài lời với Thủ tướng một cách riêng tư. Thật trùng hợp, cuộc gặp mặt diễn ra trong phòng làm việc, ở đó, cũng bên dưới bức chân dung của Bà Nam tước Thatcher đang quắc mắt nhìn, ông ta kể cho Thủ tướng mọi chuyện mình đã được biết. Rằng Tổng thống Nga đã ra lệnh cho Volgatek dùng bất cứ thủ đoạn nào có thể để đạt được hợp đồng khoan dầu ở Bắc Hải. Jeremy Fallon, trợ lý thân thiết nhất và thân tín của Thủ tướng Anh đã phản bội ông ta để lấy năm triệu đồng bạc Nga. Và Madeline Hart, nhân tình trước đây của ông là một điệp viên sinh trưởng ở nước Nga vẫn còn sống rất khỏe mạnh và đang thỉnh cầu được bảo trợ ở Đảo quốc Anh này. Vì uy tín của mình, mặc dù mất bình tĩnh trông thấy rõ, Lancaster không hề do dự trước khi đưa ra câu trả lời của mình. Fallon phải ra đi, Madeline phải ở lại và cứ để chuyện muốn tới đâu thì tới. Ông chỉ yêu cầu mỗi một điều: ông muốn được cho một cơ hội để báo tin cho vợ ông biết.

“Tôi sẽ không chờ đợi quá lâu nếu tôi là ông, thưa Thủ tướng.”

Lancaster đưa tay tới máy điện thoại thật chậm chạp. Seymour đứng thẳng dậy rồi lẳng lặng lẻn ra khỏi phòng.

Chỉ còn lại cái tên của phóng viên sẽ được ban cho độc quyền đưa một tin làm náo động dư luận nhiều nhất trong lịch sử nền chính trị Vương quốc Anh. Seymour gợi ý Tony Richmond ở tờ Times hoặc có lẽ cho Gibbons từ tờ Independent, nhưng Gabriel bác bỏ ý kiến của ông. Ông nói đã có một lời hứa và định giữ lời hứa đó. Ông gọi đến điện thoại của cô ta, vào hộp thư thoại và để lại một lời nhắn vắn tắt. Cô gọi lại cho ông ngay tức khắc. Bốn giờ ở Café Nero, Gabriel nói. Và lần này đừng tới trễ.

Mặc dù Graham Seymour rất buồn tủi, Gabriel và Madeline vẫn khăng khăng đòi đi dạo với nhau một lần cuối. Họ đi tới tận tòa phức hợp Millbank xuyên qua một trận cuồng phong thổi từng cơn - ngang qua Công viên Victoria Tower, Tu viện Westminster và Tòa nhà Nghị viện - rồi vào quán café lúc bốn giờ kém mười phút. Gabriel gọi cà phê đen; Madeline dùng trà Bá tước Grey pha sữa và một cái bánh bích quy giúp tiêu hóa dễ dàng. Cô lấy ra một hộp phấn từ ví xách tay và soi gương để kiểm tra lại dung nhan.

“Trông tôi như thế nào?” cô hỏi.

“Rất giống người Israel.”

“Có thể cho đấy là một lời khen hay không?”

“Cô cất nó đi,” ông bảo.

Cô làm theo lời Gabriel chỉ dẫn. Sau đó cô ngó qua cửa sổ đám đông đang di chuyển trên vỉa hè của Phố Bridge. Cứ như thể trước đây cô ta chưa bao giờ trông thấy họ, ông nghĩ thầm. Như thể cô sẽ không bao giờ nhìn thấy họ lần nữa. Ông liếc nhìn quanh bên trong quán ăn nhỏ. Không ai nhận ra cô. Sao họ nhận ra chứ? Cô đã chết và đã chôn rồi - chôn cất trong một nghĩa trang của nhà thờ ở Basildon. Một thị trấn không hề có một linh hồn cho một cô gái không có một cái tên, cũng chẳng có một quá khứ.

“Cô không cần phải làm chuyện này,” một lát sau ông nói. “Dĩ nhiên tôi phải làm chứ.”

“Không có cô tôi cũng có đủ bằng chứng rồi. Tôi đã có đoạn phim của Zhirov.”

“Điện Kremlin có thể chối chuyện Zhirov,” cô trả lời. “Nhưng không thể nào chối chuyện của tôi.”

Cô vẫn đang nhìn chằm chặp ra ngoài cửa sổ.

“Cô cứ nhìn ngắm cho đã đi,” ông nói. “Vì nếu cô làm chuyện này, còn rất lâu nữa họ mới cho cô trở về London.”

“Ông cho rằng họ sẽ đưa tôi vào nơi nào?”

“Một căn nhà an toàn giữa một nơi không ai biết được.

Có lẽ một căn cứ quân sự cho tới khi cơn bão qua đi.”

“Nghe có vẻ chả hấp dẫn lắm, phải không?”

“Lúc nào cô cũng có thể trở về Israel với tôi.”

Cô không đáp lại. Gabriel ngả người tới trước ngang qua cái bàn và cầm lấy bàn tay cô. Nó hơi run lên.

“Tôi có thuê một căn nhà nhỏ ở Cornwall,” ông khẽ nói. “Thị trấn đó không có gì nhiều, nhưng ở gần biển. Cô có thể lưu trú ở đó nếu cô thích.”

“Nó có một khung cảnh để ngắm không?” cô hỏi.

“Một khung cảnh tuyệt đẹp,” ông trả lời.

“Có thể tôi thích đấy.”

Cô mỉm cười can đảm. Bên kia đường chuông đồng hồ Big Ben điểm bốn giờ.

“Cô ta tới trễ rồi,” Gabriel có vẻ ngờ vực. “Tôi không thể tin cô ta tới trễ.”

“Cô ấy vẫn luôn đến trễ,” Madeline nói.

“À này, cô đã tạo một ấn tượng thật sâu sắc với cô ta đó.”

“Cô ấy chẳng phải là người duy nhất đâu.”

Bất giác cô bật cười, rồi uống ít trà. Ông nhăn nhó ngó đồng hồ đeo tay. Rồi ông ngước nhìn lên vừa đúng lúc trông thấy Samantha Cooke đang hấp tấp đi qua cửa. Một lát sau cô đang đứng ở bàn của họ, hơi bị hụt hơi. Cô ngó Gabriel một lát rồi mới chuyển ánh mắt đăm đăm của mình sang cô gái tóc đen xinh đẹp ngồi bên kia bàn. Và rồi cô đã hiểu ra.

“Ôi Chúa ơi,” cô thì thào.

“Chúng tôi có thể gọi gì đấy cho cô uống không?” Madeline hỏi với giọng Anh thật chuẩn.

“Thật sự,” Samantha Cooke lắp bắp, “có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta đi dạo.”