Chương 62 ĐẢO CORSE
BA NGÀY SAU tên trùm mời Gabriel ghé qua văn phòng của hắn để nói chuyện phiếm. Thật ra không phải là một lời mời, vì lời mời có thể bị khước từ một cách lịch sự. Đó là một điều giới răn của Shamron đã được khắc lên đá, không được vi phạm.
“Ăn trưa được không?” Gabriel hỏi, vì biết Orsati lúc đó có thể có tâm trạng thoải mái.
“Hay lắm,” tên trùm trả lời. Rồi hắn nói thêm báo trước một điềm chẳng lành, “Nhưng có lẽ sẽ hay hơn nếu ông đến một mình.”
Gabriel rời biệt thự sau giữa trưa không bao lâu. Con dê để ông đi qua không hề đối đầu, vì nhận ra ông là một trợ lý của phụ nữ xinh đẹp người Ý. Đám bảo vệ bên ngoài trang viên của tên trùm cũng cho ông đi qua, vì tên trùm đã để lại lời nhắn hắn đang mong đợi người Israel này. Ông thấy tên trùm trong văn phòng rộng lớn của hắn, khom mình trên quyển sổ cái kế toán.
“Làm ăn ra sao rồi?” Gabriel hỏi.
“Chưa bao giờ tốt đẹp hơn,” Orsati đáp. “Tôi có nhiều đơn đặt hàng hơn khả năng hoàn thành của mình.”
Tên trùm đang đề cập tới máu hay dầu ăn, hắn không nói. Thay vào đó hắn dẫn Gabriel vào một phòng ăn, ở đó trên một cái bàn đã dọn sẵn bữa tiệc gồm các món của đảo Corse. Với những bức tường quét vôi trắng và bày biện đơn sơ, căn phòng nhắc ông nhớ tới phòng ăn riêng của Đức Thánh cha trong Cung điện Giáo Hoàng. Thậm chí còn có một tượng Chúa bị đóng đinh trên thánh giá bằng gỗ nặng nề trên bức tường đằng sau cái ghế dành riêng cho tên trùm.
“Cái ấy có khiến ông phiền lòng không?” hắn hỏi.
“Hoàn toàn không,” Gabriel đáp.
“Christopher bảo tôi ông biết cách lui tới các nhà thờ Công giáo.”
“Anh ta còn nói gì với ông nữa không?”
Orsati nhăn mặt nhưng không nói gì nữa khi bỏ thức ăn đầy đĩa bàn của Gabriel và rót rượu vang đầy ly ông.
“Biệt thự có hợp với sở thích của ông không?” cuối cùng hắn hỏi.
“Thật hoàn hảo, trùm Orsati à.”
“Và vợ ông ở đây có vui không?”
“Rất vui.”
“Ông định lưu lại bao lâu?”
“Ông cho tôi ở bao lâu thì tôi ở bấy lâu.”
Tên trùm im lặng một cách kỳ lạ.
“Có phải tôi đã hết được chào đón rồi, phải không Ông trùm Orsati?”
“Ông có thể lưu lại đây trên đảo này bao lâu tùy thích.” Tên trùm dừng lại, rồi nói tiếp, “Khi nào ông không liên can vào những vấn đề ảnh hưởng đến việc kinh doanh của tôi.”
“Hiển nhiên ông đang nói tới Keller.”
“Hiển nhiên là thế.”
“Không phải tôi có ý không tôn trọng ông, trùm Orsati à. Chỉ là tôi...”
“Xen vào những việc chẳng liên quan gì đến ông cả.”
Điện thoại di động của tên trùm khẽ rung lên. Hắn cứ phớt lờ.
“Chẳng phải tôi đã không giúp ông khi ông đến đảo này tìm cô gái người Anh hay sao?”
“Ông đã giúp,” Gabriel đáp.
“Và tôi đã không giao Keller cho ông miễn phí để giúp ông tìm cô gái hay sao?”
“Hẳn tôi đã không thể làm được việc đó nếu không có Keller.”
“Và tôi đã không xem xét chuyện mình chưa bao giờ được đưa cho số tiền chuộc mà chắc chắn ông đã lấy lại hay sao?”
“Tiền đang ở trong tài khoản ngân hàng của Tổng thống Nga.”
“Đấy là ông nói thế thôi.”
“Ông trùm Orsati à...”
Tên trùm phẩy tay tỏ vẻ khinh khi.
“Có phải đó là vấn đề? Tiền à?”
“Không phải,” tên trùm thừa nhận. “Là chuyện của Keller.”
Một luồng gió mạnh đập vào những cánh cửa kiểu Pháp dẫn ra vườn nhà tên trùm. Đó là gió libeccio, một cơn gió từ phía Đông Nam thổi tới. Thông thường nó đem mưa tới vào mùa đông, nhưng bây giờ đây bầu trời vẫn trong sáng.
“Ở đây trên đảo Corse,” tên trùm nói sau một hồi im lặng, “truyền thống của chúng tôi rất cổ xưa. Chẳng hạn như một thanh niên chẳng bao giờ mơ đến chuyện cầu hôn một phụ nữ khi chưa xin phép bố cô ấy trước tiên. Ông có hiểu ý tôi hay không, Gabriel?”
“Tôi tin mình hiểu, ông trùm Orsati à.”
“Ông nên nói với tôi trước khi bàn với Christopher về chuyện trở về nước Anh chứ.”
“Đó là một lỗi về phần tôi.”
Nét mặt tên trùm dịu xuống. Bên ngoài gió libeccio lật đổ một cái bàn và ghế trong vườn nhà tên trùm. Hắn ngước lên trần nhà hét gì đó bằng tiếng địa phương của đảo Corse, và vài giây sau một gã đàn ông để ria mép rậm rạp khoác súng trường trên vai nháo nhào chạy ra vườn để sắp xếp bàn ghế lại cho ngay ngắn.
“Ông không biết anh bạn Christopher của ông đã như thế nào lúc đến đây sau khi rời khỏi Iraq đâu,” Orsati vẫn đang nói. “Hắn bẩn thỉu và rối bời. Tôi đã cho hắn một mái nhà. Một gia đình. Một người đàn bà.”
“Và sau đó ông đã cho anh ta một việc làm,” Gabriel nói. “Nhiều việc làm.”
“Hắn làm việc ấy rất giỏi.”
“Đúng, tôi biết.”
“Giỏi hơn ông đấy.”
“Ai nói vậy?”
Tên trùm mỉm cười. Một khoảnh khắc im lặng buông xuống giữa hai người, mà Gabriel để cho kéo dài ra trong lúc ông hết sức thận trọng lựa lời để nói tiếp.
“Đó không phải một cách thích hợp để một người như Christopher kiếm sống,” sau cùng ông nói.
“Đừng chỉ trích khi tất cả đều có cùng khuyết điểm, Allon ạ.”
“Tôi chưa bao giờ nhận ra đó là một câu tục ngữ của đảo Corse.”
“Tất cả những điều khôn ngoan đều đến từ đảo Corse cả.” Tên trùm đẩy đĩa bàn của mình ra xa và tựa cẳng tay nặng nề của hắn lên mặt bàn. “Có một điều dường như ông không hiểu. Christopher còn hơn thế, chứ không chỉ là taddunaghiu giỏi nhất của tôi. Tôi thương hắn như con trai của mình. Và nếu có bao giờ hắn rời bỏ...” Giọng tên trùm lạc đi. “Tôi sẽ đau lòng lắm.”
“Cha ruột của anh ta tưởng anh ta đã chết.”
“Chẳng có cách nào khác cả.”
“Ông sẽ có cảm giác ra sao nếu vai trò đổi ngược lại?” Tên trùm không trả lời. Hắn đổi đề tài.
“Có thật ông bạn tình báo Anh này của ông sẽ quan tâm đến việc đưa Christopher trở về nước Anh không?”
“Ông ta sẽ là kẻ ngốc nghếch nếu không làm vậy.”
“Nhưng ông ấy có thể không chịu,” tên trùm chỉ rõ. “Và nêu lên vấn đề ấy với ông ta, ông có thể gây nguy hiểm cho vị trí của Christopher trên đảo Corse này đây.”
“Tôi sẽ làm theo một cách không gây ra đe dọa gì với anh ta.”
“Ông ấy có phải là người đáng tin cậy không, ông bạn của ông đấy?”
“Tôi sẽ tin tưởng ông ta cả đời mình. Thật sự trước đây tôi đã nhiều lần tin tưởng ông ta.”
Tên trùm thở ra nặng nề, đành cam chịu. Hắn định nói với Gabriel một lời xác nhận bất thường rằng hắn chúc phúc cho ông, thì điện thoại di động của hắn lại chợt reng lên. Lần này hắn đáp máy. Hắn im lặng một lát, nói vài lời bằng tiếng Ý rồi để điện thoại trở lại trên mặt bàn.
“Ai gọi đó?” Gabriel hỏi.
“Vợ ông,” tên trùm đáp.
“Có gì không ổn sao?”
“Cô ấy muốn đi dạo vào làng một chuyến.”
Gabriel định đứng lên.
“Ở lại dùng xong bữa trưa đã,” Orsati bảo. “Tôi sẽ sai hai thằng bé của tôi để mắt canh chừng cô ấy.”
Gabriel lại ngồi xuống. Gió libeccio đang giận dữ tàn phá tan hoang trong vườn nhà Orsati. Hắn rầu rĩ theo dõi một lát.
“Tôi vẫn rất vui vì bọn tôi đã không giết ông, Allon ạ.”
“Tôi có thể cam đoan với ông, Trùm Orsati, đó là cảm giác chung của hai chúng ta.”
Gió rượt đuổi Chiara xuôi theo lối mòn hẹp qua những căn nhà có cửa chớp và những con mèo rồi sau cùng tới quảng trường chính, ở đó gió cuộn xoáy vào trong những con phố nhỏ hai bên là hàng quán và phá hoại có ác ý những cái bàn bày hàng của các chủ tiệm. Nàng đi tới chợ và bỏ vào đầy cái giỏ bện bằng rơm vài món cho bữa ăn tối. Sau đó nàng ngồi vào bàn ở một quán café và gọi một tách cà phê. Ở trung tâm quảng trường, vài ông già đang chơi boules giữa những đám bụi nhỏ xíu cuồn cuộn, và trên bậc thềm nhà thờ một bà già mặc đồ đen đưa một miếng giấy nhỏ màu xanh lơ cho một thằng bé. Thằng bé có mái tóc dài quăn tít và rất xinh trai. Nàng nhìn nó mỉm cười buồn bã. Nàng hình dung Dani là con trai của Gabriel, hẳn có lẽ trông giống như thằng bé đó, giá như nó còn sống tới mười tuổi.
Bà già bước xuống các bậc thềm của nhà thờ rồi biến mất qua khung cửa của một căn nhà nhỏ xiêu vẹo. Sau đó thằng bé bắt đầu băng qua quảng trường, cầm trên tay miếng giấy nhỏ màu xanh lơ. Nàng quá đỗi kinh ngạc khi nó đi vào quán café nơi nàng đang ngồi và đặt miếng giấy trên bàn của nàng, không nói một lời nào. Đợi thằng bé đi khỏi rồi nàng mới đọc dòng chữ duy nhất trên đó. Tôi phải gặp cô ngay lập tức...
Mụ già signadora đang đợi trong khung cửa nhà mụ khi Chiara tới nơi. Mụ mỉm cười, dịu dàng vuốt má nàng rồi lôi nàng vào bên trong.
“Cô biết tôi là ai không?” mụ già hỏi.
“Tôi nghĩ ra rồi,” nàng trả lời.
“Chồng cô có nhắc tới tôi à?”
Chiara gật đầu.
“Tôi đã cảnh báo anh ta đừng tới thành phố của bọn dị giáo,” mụ signadora nói, “nhưng anh ta không chịu nghe. Anh ta thật may mắn mới còn sống đó.”
“Anh ấy khó bị giết chết lắm.”
“Rốt cục có lẽ anh ta là thiên thần.” Mụ già lại sờ lên mặt nàng. “Cô cũng đi nữa, đúng không?”
“Ai nói với bà tôi đã đi Nga?”
“Cô đã đi mà không báo cho chồng mình,” mụ signadora nói tiếp như thể không hề để ý tới câu hỏi của nàng. “Hai người đã ở cùng nhau vài giờ trong một căn phòng khách sạn ở thành phố đêm. Cô có nhớ không?”
Mụ già mỉm cười. Bàn tay mụ vẫn sờ mặt nàng. Nó di chuyển lên mái tóc.
“Tôi nói tiếp được không?” mụ hỏi.
“Tôi không tin bà có thể biết được quá khứ đâu.”
“Chồng cô đã cưới một người đàn bà khác trước khi lấy cô,” mụ già nói như thể để chứng tỏ nàng đã sai lầm. “Có một đứa con. Một ngọn lửa. Đứa con chết nhưng cô vợ sống. Cô ấy vẫn còn sống.”
Chiara đột nhiên thụt ra xa.
“Cô đã yêu anh ta một thời gian dài,” mụ già tiếp tục, “nhưng anh ta không chịu cưới cô vì đang đau buồn. Có lần anh ta đã bảo cô bỏ đi, nhưng lại trở về với cô ở một thành phố của nước.”
“Làm sao bà biết được chuyện đó?”
“Anh ta đã vẽ hình cô quấn trong khăn trải giường trắng.”
“Đó là một phác họa,” nàng nói.
Mụ già nhún vai như thể muốn nói không có gì khác biệt. Sau đó mụ hất hàm về phía cái bàn của mụ, ở đó một đĩa bàn nước và một chậu dầu ô liu để kế bên một cặp đèn nến đang cháy.
“Cô không ngồi xuống hay sao?” mụ hỏi.
“Tốt hơn hết tôi không nên ngồi.”
“Làm ơn đi,” mụ bảo. “Cô mất một vài phút thôi. Rồi tôi sẽ biết chắc chắn.”
“Biết gì?”
“Làm ơn đi mà,” mụ lại bảo.
Nàng ngồi xuống. Mụ già ngồi đối diện.
“Nhúng ngón tay trỏ vô dầu đi, con ta. Rồi sau đó để cho ba giọt rớt xuống nước.”
Nàng miễn cưỡng làm theo lời mụ. Dầu khi chạm mặt nước gom lại thành một giọt duy nhất. Mụ già thở hổn hển, và một giọt nước mắt trào ra trên gò má đánh phấn trắng của mụ.
“Bà đã thấy gì vậy?” nàng hỏi.
Mụ già cầm bàn tay nàng. “Chồng cô đang chờ ở biệt thự. Về nhà đi, và nói cho chồng biết anh ta sẽ làm cha lần nữa đó.”
“Con trai hay con gái?”
Mụ già mỉm cười, “Mỗi giống một đứa.