← Quay lại trang sách

Chương 61 ĐẢO CORSE

NHƯNG AI LÀ nguồn cung cấp tấm hình kết tội đã xua Jeremy Fallon ra khỏi nhiệm sở và xô y qua lan can cầu Westminster? Đó là một câu hỏi sẽ chi phối giới chính trị Vương quốc Anh trong nhiều tháng sắp tới; nhưng trên hòn đảo mê đắm nơi phát sinh vụ bê bối chỉ có vài người có văn hóa nhìn về phương Bắc nêu ra nhiều ý nghĩ về chuyện đó. Thỉnh thoảng một cặp đôi chụp hình ở nhà hàng Les Palmiers trong tư thế của Madeline Hart và Pavel Zhirov vào buổi chiều định mệnh khi họ cùng dùng bữa, nhưng phần lớn cư dân đảo Corse lại làm hết sức để quên đi vai trò nhỏ nhoi của họ trong cái chết của một chính khách Anh có thâm niên gạo cội. Vì bị mùa đông khống chế, dân đảo Corse theo bản năng lại quay về với những lối sống cũ. Họ đốt macchia để sưởi ấm. Họ ngúc ngắc mấy ngón tay với những kẻ lạ mặt để tránh tà ma. Và trong một thung lũng hẻo lánh gần bờ biển phía Tây Nam, họ quay sang ông trùm Anton Orsati để nhờ giúp đỡ khi chẳng biết phải nhờ cậy ai khác.

Vào một buổi chiều gió gào thét ầm ầm ngay giữa tháng Hai, trong lúc yên vị ở cái bàn gỗ sồi trong văn phòng rộng lớn của mình, hắn nhận được một cú điện thoại bất thường. Người đàn ông ở đầu dây bên kia không nhờ trừ khử ai đó - tên trùm nghĩ hầu như chẳng đáng ngạc nhiên vì ông ấy thừa sức để làm cái việc giết người - thay vì vậy ông ấy đang tìm kiếm một biệt thự nơi có thể trải qua vài tuần một mình với bà vợ. Nó phải ở một chỗ không ai nhận ra ông ấy và là nơi không cần phải thuê vệ sĩ. Tên trùm đúng là đã có chỗ đó. Nhưng có một vấn đề nan giải, chỉ có một con đường ra vào. Và con đường đó ngang qua ba cây ô liu cổ thụ, ở đó con dê palomino xơ xác của Ông trùm Casabianca đang cắm chốt.

“Có cách nào có thể xảy ra tai nạn thương tâm trước khi chúng tôi tới nơi hay không?” người đàn ông đang trên đường dây điện thoại hỏi.

“Xin lỗi,” tên trùm đáp. “Nhưng ở đây trên đảo Corse một số chuyện chẳng bao giờ thay đổi.”

Họ đến nơi trên hòn đảo ba ngày sau đó, đã bay từ Tel Aviv tới Paris, rồi từ Paris bay tới thị trấn Ajaccio. Tên trùm đã để lại một chiếc xe hơi ở sân bay, một chiếc sedan hiệu Peugeot màu xám bóng loáng mà Gabriel lái theo kiểu cách tự do phóng túng của dân đảo Corse về phía Nam xuôi theo bờ biển rồi đi vào nội địa qua một thung lũng rậm rạp macchia. Khi họ tới chỗ ba cây ô liu cổ thụ, con dê nhổm dậy với vẻ đe dọa từ nơi ngơi nghỉ của nó, rồi chắn ngang lối đi. Nhưng nó mau chóng rút lui khi Chiara bỏ nhỏ vào lỗ tai tơi tả của nó vài lời dỗ dành.

“Em đã nói gì với nó vậy?” Gabriel hỏi khi lái xe đi tiếp.

“Em nói với nó anh rất tiếc vì đã keo kiệt với nó.”

“Nhưng anh cố hối tiếc gì đâu. Rõ ràng nó là đứa hung hăng mà.”

“Nó là một con dê, anh yêu.”

“Nó là một tên khủng bố đó.”

“Làm sao anh có thể điều hành Văn phòng nếu không thể hòa thuận với một con dê đây?”

“Câu hỏi hay lắm,” ông cau có nói.

Biệt thự cách chừng một dặm bên kia chốt canh của con dê. Nó nhỏ và bày biện thật đơn sơ, với những sàn nhà bằng đá vôi xanh xám và một nền đá hoa cương cao. Những cây thông laricio che mát cho nền đá vào buổi sáng, nhưng tới chiều ánh nắng chiếu sáng trên đá. Ban ngày trời lạnh và dễ chịu; về đêm gió vi vu thổi qua hàng thông. Họ uống rượu vang đỏ của đảo Corse bên lò sưởi và ngắm những cây cao đong đưa trước gió. Lửa cháy từ củi macchia màu xanh lơ-xanh lục tỏa mùi hương thảo và có xạ hương. Chẳng bao lâu Gabriel và Chiara cũng phảng phất mùi hương đó. Họ chẳng có kế hoạch nào khác, chỉ làm chút ít việc gì đó. Họ ngủ dậy trưa. Họ uống cà phê sáng trong quảng trường của làng. Họ ăn trưa với món cá ở gần biển. Buổi chiều nếu tiết trời ấm áp họ thường phơi nắng trên nền đá hoa cương; còn nếu tiết trời lạnh giá thì họ rút vào phòng ngủ đơn sơ của mình và ân ái cho tới khi lăn ra ngủ vì mệt lả. Shamron để lại nhiều lời nhắn than vãn buồn phiền mà may mắn thay Gabriel đã lờ đi. Trong một năm mọi giây phút thức tỉnh của ông đều dùng cả vào việc bảo vệ Israel tránh khỏi những kẻ muốn phá hoại nó. Thế nhưng bây giờ đây chỉ có Chiara, mặt trời lạnh giá và biển cả, với cái mùi độc địa của những cây thông và cả macchia nữa.

Trong vài ngày đầu tiên họ tránh các nhật báo, mạng Internet và truyền hình. Nhưng dần dần Gabriel lại liên kết với một thế giới đầy vấn nạn chẳng bao lâu nữa sẽ là của ông. Người đứng đầu IAEA [1] cơ quan làm nhiệm vụ canh giữ hạt nhân của Liên Hợp Quốc tiên đoán Iran sẽ trở thành cường quốc hạt nhân trong vòng một năm tới. Ngày hôm sau có báo cáo cho biết chế độ ở Syria đã chuyển giao vũ khí hóa học cho nhóm Hezbollah. Và hôm sau đó nữa, tổ chức Huynh đệ Hồi giáo hiện cai trị Ai Cập bị bắt gặp nói trong băng ghi âm về một cuộc chiến tranh mới với Israel. Thật thế, tin tức tốt lành duy nhất mà ông có thể tìm thấy xảy ra ở London, nơi Jonathan Lancaster khi đã qua khỏi chuyện Phố Downing, đã bổ nhiệm Graham Seymour làm sếp kế nhiệm của MI6. Gabriel gọi điện cho ông ta tối hôm đó để nói lời chúc mừng. Tuy thế, chủ yếu ông đang tò mò về Madeline.

“Cô ấy đang làm tốt hơn tôi mong đợi nữa đấy,” Seymour nói.

“Cô ta đang ở đâu?”

“Dường như một người bạn cho cô một ngôi nhà nhỏ gần biển.”

“Thật vậy sao?”

“Có một chút không chính thống đấy,” Seymour thừa nhận. “Nhưng chúng tôi quyết định đấy là một chỗ cũng tốt như bất cứ chỗ nào.”

“Chỉ cần đừng quay lưng lại với cô ta, Graham à. Bọn SVR có tầm tay dài lắm đó.”

Chính vì tầm tay dài ấy mà Gabriel và Chiara mới thận trọng hạ thấp lai lịch của mình trên hòn đảo này. Họ hiếm khi rời khỏi biệt thự khi trời sập tối, và hằng đêm rất nhiều lần Gabriel bước ra nền đá để lắng nghe xem có động tĩnh gì trong thung lũng hay không. Một tuần sau khi lưu trú, ông nghe tiếng lạch cạch quen thuộc của một chiếc hatchback hiệu Renault, rồi một lát sau trông thấy ánh đèn cháy sáng lên lần đầu tiên trong biệt thự của Keller, ông đợi đến chiều hôm sau đó mới ghé thăm mà không báo trước. Keller đang mặc một quần dài trắng rộng thùng thình và một áo len chui đầu màu trắng. Y khui một chai Sancerre, và họ uống rượu bên ngoài trời nắng. Rượu Sancerre vào buổi chiều, rượu vang đỏ của đảo Corse vào buổi tối: Gabriel nghĩ mình có thể quen với điều này. Nhưng giờ đây không có chuyện quay đầu trở lại. Nhân dân của ông cần ông. Ông có một cuộc hẹn gặp với lịch sử.

“Bức tranh Cezanne có thể sửa sang lại một chút,” Gabriel buột miệng nói ra. “Sao anh không để tôi làm sạch nó cho anh khi còn ở thị trấn này?”

“Tôi thích cứ để bức tranh y nguyên như thế. Hơn nữa,” y nói tiếp, “ông đến đây để nghỉ ngơi cơ mà.”

“Vậy anh không cần gì sao?”

“Cần gì chứ?”

“Nghỉ ngơi,” Gabriel trả lời.

Keller chẳng nói gì cả.

“Anh đã ở đâu, Christopher?”

“Tôi có một chuyến công tác.”

“Dầu ô liu hay máu?”

Khi y nhướng một bên lông mày lên để chỉ rõ đó là máu, Gabriel lắc đầu trách móc.

“Tiền chẳng đến nhờ ca hát đâu,” Keller nói khẽ.

“Có nhiều cách khác để kiếm tiền, anh biết mà.”

“Chẳng có đâu, khi tên ông là Christopher Keller và được cho là đã chết.”

Gabriel uống đôi chút rượu vang. Một lát sau ông nói, “Tôi đã không gom anh vào đội công tác là vì cần anh giúp sức. Tôi muốn chứng tỏ cho anh thấy có nhiều việc để kiếm sống hơn là giết người vì tiền.”

“Ông muốn phục chế tôi ư? Có phải đấy là điều ông đang nói?”

“Đó là một bản năng tự nhiên của tôi mà.”

“Có một điều ở ngoài tầm tay chẳng thể nào sửa chữa.” Keller tạm dừng rồi tiếp tục, “Chẳng thể nào chuộc lại lỗi lầm.”

“Anh đã giết bao nhiêu người rồi?”

“Chẳng biết nữa,” y phản pháo, “Ông đã giết bao nhiêu rồi?”

“Việc của tôi thì khác. Tôi là một người lính. Một lính kín, nhưng dẫu sao cũng là một người lính.” Gabriel nghiêm trang nhìn y một lúc. “Và anh cũng có thể là một người lính.”

“Có phải ông đang đề nghị cho tôi một việc làm?”

“Anh sẽ phải trở thành một công dân Israel và học nói tiếng Do Thái để làm việc cho Văn phòng.”

“Tôi vẫn luôn cảm thấy mình có một chút gì đấy là người Do Thái.”

“Phải, trước đây anh đã đề cập tới chuyện đó.”

Keller mỉm cười, và một khoảnh khắc im lặng buông xuống giữa hai người, cơn gió chiều đang bắt đầu nổi lên.

“Còn có một khả năng nữa, Christopher à.”

“Là khả năng gì?”

“Anh có tình cờ để ý ai vừa mới được phong chức Tổng Giám đốc của MI6 hay không?”

Keller không đáp lại.

“Tôi sẽ nêu thành tích của anh với Graham, ông ta có thể cho anh một căn cước mới. Một cuộc sống mới.”

Y nâng ly rượu vang hướng về thung lũng. “Tôi vẫn có một cuộc sống. Một cuộc sống rất tuyệt, thật thế?”

“Anh là một tay súng đánh thuê. Anh là một tội phạm.”

“Tôi là một kẻ cướp chân chính. Có khác chứ.”

“Anh muốn nói sao cũng được.” Gabriel rót thêm một ít rượu vào ly của mình.

“Có phải chính vì chuyện này mà ông đến đảo Corse? Để bàn với tôi chuyện lại trở về quê nhà?”

“Chắc là vậy đó.”

“Nếu tôi để cho ông phục chế bức tranh của Cezanne, ông sẽ hứa để yên cho tôi chứ?”

“Không đâu,” Gabriel trả lời.

“Thế thì có lẽ chúng ta nên im lặng sẽ vui vẻ hơn.”

Chú thích:

[1] Viết tắt của “International Atomic Energy Agency”: Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế.