- 2 -
25 tháng Mười Hai
hai ngày sau vụ mất tích
Cánh rừng thông đổ xuống sườn núi như những hàng quân lính san sát chuẩn bị đánh chiếm thung lũng dài và hẹp như một vết sẹo cũ. Ở trung tâm của nó, một dòng sông xanh biếc chảy qua, khi lững lờ, lúc sôi sục.
Avechot nằm giữa khung cảnh ấy.
Ngôi làng trên núi Alpes cách biên giới chỉ vài cây số. Những ngôi nhà mái dốc, nhà thờ có tháp chuông, tòa thị chính, đồn cảnh sát, một bệnh viện nhỏ. Một cụm trường, vài quán bar và một sân trượt băng.
Khu rừng, thung lũng, dòng sông, ngôi làng. Cùng một khu phức hợp khai mỏ gớm ghiếc, một vết rạch vào quá khứ và thiên nhiên nơi đây.
Một quán ăn nằm ngay ở rìa khu dân cư, bên cạnh quốc lộ.
Qua ô kính cửa sổ của quán, người ta có thể nhìn thấy con đường và một cây xăng. Hàng chữ bằng đèn neon trên đó gửi lời chúc Nghỉ lễ vui vẻ đến khách qua đường. Nhưng nhìn từ phía bên trong, những chữ cái lộn ngược tạo thành một thứ ký tự tượng hình khó hiểu.
Quán ăn có khoảng ba chục cái bàn bằng formica màu xanh dương nhạt, một số được che chắn bằng những tấm vách ngăn gắn cố định vào tường. Tất cả đều được sửa soạn, nhưng chỉ một bàn duy nhất có khách ngồi. Nó ở ngay giữa quán.
Thanh tra Vogel một mình dùng bữa sáng gồm có trứng và thịt xông khói. Ông mặc một bộ com lê xám chì, áo gile xám xanh, cà vạt xanh sẫm, và không buồn cởi chiếc áo khoác len cashmere khi ngồi vào bàn. Vogel ngồi thẳng người, ánh mắt tập trung vào một cuốn sổ đen mà ông dùng để ghi chép với một chiếc bút thanh nhã mạ bạc, chốc chốc lại đặt bút xuống để xúc một nĩa thức ăn. Ông tuần tự làm các động tác đó một cách đều đặn, tuân theo một thứ nhịp điệu bên trong cơ thể.
Ông chủ quán đeo một chiếc tạp dề lấm tấm vệt mỡ bên ngoài chiếc áo sơ mi hàng thịt bằng vải ca rô đỏ, tay áo xắn lên tận khuỷu. Ông ta rời quầy và tiến lại gần vị khách với một bình cà phê bốc khói.
– Anh thấy đấy, hôm nay tôi thậm chí không muốn mở cửa. Tôi đã nghĩ: ai lại đến đây vào ngày Giáng sinh kia chứ? Cho đến thời điểm cách đây vài năm, nơi này đầy khách du lịch, những gia đình đi cùng trẻ con… Nhưng từ khi họ phát hiện ra vỉa quặng chết tiệt kia, mọi thứ đã thay đổi. – Ông ta nói ra câu đó tuồng như nuối tiếc một thời đại sung sướng xa vời không bao giờ quay trở lại.
Trước đó ít lâu, cuộc sống ở Avechot thật thanh bình và yên tĩnh. Mọi người sống bằng nghề du lịch và thủ công nghiệp. Nhưng một ngày nọ, một người đến từ nơi khác đã dự đoán trong lòng núi nơi đây có một vỉa quặng fluorit.
Quả vậy, Vogel nghĩ thầm, ông già này nói đúng: mọi thứ đã thay đổi. Một tập đoàn đa quốc gia đã đến, mua lại quyền sử dụng các khu đất quanh vỉa quặng với giá cao. Nhiều người chủ đất đột nhiên trở nên giàu có. Còn những người không có may mắn sở hữu các lô đất vàng thì nghèo đi, vì khách du lịch không đến nữa.
– Lẽ ra tôi nên bán quách chỗ này đi và nghỉ hưu cho khỏe. – Ông chủ quán tiếp lời.
Nói đoạn, vừa lắc đầu ngao ngán, ông ta vừa rót cà phê vào tách của Vogel, dù không hề được yêu cầu.
– Khi tôi nhìn thấy anh bước vào, tôi đã nghĩ anh là một trong những gã bán dạo thỉnh thoảng tìm cách lừa tôi mua mấy món đồ vớ vẩn. Nhưng rồi tôi hiểu ra… Anh đến đây là vì con bé, đúng không?
Với một cử động gần như không thể ghi nhận của cái đầu, ông ta hất hàm chỉ tờ giấy dán trên tường, bên cạnh cửa ra vào.
In trên đó là hình ảnh tươi cười của một cô bé thiếu niên với mái tóc hung và khuôn mặt lấm tấm tàn nhang. Một cái tên, Anna Lou. Một câu hỏi: Có ai nhìn thấy cháu không? Kèm theo một số điện thoại và vài hàng chữ.
Nhận thấy ông chủ quán đang xem trộm cuốn sổ đen, Vogel vội đóng nó lại. Ông đặt nĩa xuống.
– Ông biết cô bé à?
– Tôi biết gia đình con bé. Họ thật can đảm. – Ông chủ quán đáp trong lúc kéo một chiếc ghế để ngồi xuống đối diện với Vogel. – Theo anh, con bé đã gặp chuyện gì?
Vogel đưa tay chống cằm. Đã bao nhiêu lần người ta hỏi ông câu này nhỉ? Luôn là như thế. Họ có vẻ lo lắng thật lòng, hoặc cố tỏ ra như vậy, nhưng chung quy lại vẫn chỉ là vì tò mò. Một sự tò mò bệnh hoạn, không thương xót.
– Hai mươi tư.
Ông chủ quán không hiểu gì cả, nhưng Vogel đã chặn trước mọi câu hỏi bằng một lời giải thích.
– Trung bình, các thiếu niên đi bụi cầm cự được hai mươi tư giờ trước khi bật điện thoại di động trở lại. Sau đó, chúng sẽ gọi một đứa bạn, hoặc kiểm tra xem người ta có nhắc đến mình trên mạng hay không. Và thế là chúng tôi định vị được chúng. Đa phần bọn trẻ tự động quay về sau bốn mươi tám tiếng… Do vậy, trong vòng hai ngày kể từ khi mất tích, trừ phi bọn trẻ gặp kẻ xấu hoặc bị tai nạn, có một khả năng lớn là mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp.
– Thế sau đó thì sao?
– Sau đó, thường thì người ta gọi cho tôi.
Vogel đứng dậy, đút tay vào túi rồi đặt lên bàn một tờ giấy bạc hai mươi euro để thanh toán cho bữa sáng. Ông tiến ra cửa, nhưng trước khi rời quán, ông quay lại nhìn ông chủ quán.
– Hãy tin tôi đi: đừng có bán cái chỗ này. Nó sắp đầy khách trở lại rồi đấy.
Bên ngoài vẫn còn lạnh, nhưng bầu trời đã quang mây và rực nắng. Những chiếc xe tải chạy trên quốc lộ làm vạt áo khoác của Vogel bay lật phật. Hai tay đút túi, ông đứng bất động trên sân trước của nhà hàng, bên cạnh cây xăng, mắt ngước lên trời.
Một thanh niên trạc ba mươi tuổi xuất hiện phía sau lưng Vogel. Anh ta cũng mặc com lê, đeo cà vạt, và có một chiếc áo khoác màu sẫm, nhưng không phải chất liệu cashmere. Mái tóc màu hạt dẻ rẽ ngôi lệch, đôi mắt có màu xanh nhạt. Đó là khuôn mặt của một chàng trai tử tế.
– Xin chào. – Anh chàng lên tiếng.
Không có lời đáp nào.
– Tôi là trung úy Borghi. Người ta bảo tôi đến tìm ông.
Vogel không buồn để mắt đến anh ta. Ông vẫn nhìn lên trời.
– Cuộc họp chỉ đạo sẽ bắt đầu sau nửa tiếng nữa. Mọi người đều có mặt, đúng như ông đã yêu cầu.
Đến lúc này Borghi mới nghiêng đầu, và nhận ra ông thanh tra đang quan sát thứ gì đó trên nóc cây xăng.
Một chiếc camera giám sát với ống kính hướng ra quốc lộ.
Vogel rốt cuộc cũng quay người lại.
– Con đường này là lối vào thung lũng duy nhất, đúng không?
– Vâng, thưa thanh tra. Không có con đường ra vào nào khác. Nó chạy xuyên qua đây, từ đầu này đến đầu kia.
– Tốt. – Vogel đáp. – Bây giờ hãy đưa tôi đến đầu kia.
Nói đoạn ông bước nhanh về phía chỗ chiếc xe sedan màu đen không mã hiệu cảnh sát Borghi đã lái đến. Anh chàng cảnh sát trẻ tuổi ngập ngừng trong giây lát, trước khi nối gót ông thanh tra.
Vài phút sau, họ đã có mặt trên một cây cầu bắc qua sông dẫn vào thung lũng. Anh cảnh sát đứng chờ trước chiếc xe hơi bên vệ đường, trong khi Vogel ở cách đó vài mét lặp lại cùng một động tác như lúc nãy. Lần này ông ngước mắt nhìn một chiếc camera giao thông nằm trên đỉnh một cây cột bên đường. Những chiếc xe chạy qua chỗ ông bóp còi inh ỏi để phản đối. Nhưng Vogel điềm nhiên làm việc của mình. Borghi thấy cảnh tượng đó thật khó hiểu và ngược đời.
Khi đã chán chê, Vogel quay lại chỗ chiếc xe.
– Chúng ta đến gặp bố mẹ của cô bé. – Ông nói trong lúc bước lên xe mà không buồn đợi Borghi đáp.
Anh cảnh sát nhìn đồng hồ, rồi kiên nhẫn ngồi vào ghế lái.
– Anna Lou chưa bao giờ làm tôi phiền lòng. – Maria Kastner khẳng định một cách chắc chắn.
Mẹ của cô bé là một phụ nữ nhỏ nhắn nhưng tỏa ra một sức mạnh đặc biệt. Chị ta ngồi trên chiếc trường kỷ trong phòng khách ngôi nhà hai tầng, bên cạnh ông chồng, một người đàn ông vạm vỡ có vẻ hiền lành. Cả hai vẫn đang mặc đồ ngủ và nắm tay nhau.
Một thứ mùi ngòn ngọt pha trộn giữa mùi thức ăn và nước hoa xịt phòng làm Vogel cảm thấy khó chịu. Ông đang ngồi trên một chiếc ghế bành, trong khi Borghi ngồi cách đó một quãng. Giữa hai người cảnh sát và cặp vợ chồng là một cái bàn thấp với những tách cà phê sắp nguội lạnh: không ai tỏ ra muốn uống.
Trong phòng có một cây thông Giáng sinh. Dưới gốc cây là hai cậu bé sinh đôi bảy tuổi đang chơi với những món quà vừa mở.
Một gói quà vẫn còn nguyên vẹn. Nó có buộc một chiếc nơ to màu đỏ.
Bắt gặp ánh mắt của Vogel, người mẹ phân trần:
– Chúng tôi vẫn muốn bọn trẻ mừng ngày Chúa Jesus ra đời. Đó cũng là một cách để làm chúng khuây khỏa trong tình cảnh này.
Tình cảnh ở đây là con gái đầu lòng của họ, đứa con gái duy nhất, đã biến mất hai ngày trước đó. Cô bé rời nhà vào buổi chiều, tầm 17 giờ, để đi tới nhà thờ nằm cách đó vài trăm mét.
Và không bao giờ đến nơi.
Anna Lou đã đi một lộ trình ngắn ngủi trong một khu dân cư với những ngôi nhà nhỏ có sân vườn giống hệt nhau. Mọi người ở đây đều quen biết nhau từ lâu.
Nhưng không ai nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ điều gì.
Báo động được phát lúc 19 giờ, khi mẹ của cô bé không thấy con về và gọi vào điện thoại di động của con, lúc ấy đã bị tắt. Mọi chuyện đều có thể xảy ra trong khoảng hai tiếng đồng hồ đằng đẵng đó. Cuộc tìm kiếm diễn ra trong suốt buổi tối, trước khi lý trí khuyên bảo họ về nghỉ để tiếp tục vào sáng hôm sau. Hơn nữa, cảnh sát địa phương không có đủ nguồn lực để rà soát toàn bộ khu vực.
Trong lúc này, họ chưa có bất kỳ giả thiết nào về sự mất tích của cô bé.
Vogel một lần nữa quan sát cặp vợ chồng có đôi mắt trũng sâu vì mất ngủ. Trong những tuần lễ sắp tới, tình trạng thiếu ngủ sẽ làm họ già đi rất nhanh, dù hiện giờ nó chỉ để lại một dấu vết mờ nhạt.
– Con gái chúng tôi luôn là đứa có trách nhiệm. – Người mẹ nói tiếp. – Tôi không biết phải nói thế nào… Chúng tôi chưa bao giờ phải lo lắng cho nó. Con bé tự lớn lên, phụ giúp việc nhà, chăm sóc các em. Ở trường, các thầy cô đều hài lòng về nó. Dạo gần đây con bé còn dạy giáo lý trong hội thân hữu mà chúng tôi tham gia nữa cơ.
Phòng khách được bài trí khá khiêm nhường. Lúc đi vào, Vogel đã nhận ra nhiều đồ vật thể hiện một đức tin sâu sắc. Trên tường có treo ảnh thánh và những cảnh trích từ trong Kinh thánh. Chúa Jesus ngự trị khắp nơi, dưới dạng các bức tượng bằng nhựa hoặc thạch cao, Đức Mẹ đồng trinh cũng vậy, chưa kể hàng loạt vị thánh. Một cây thập giá bằng gỗ được đặt phía bên trên chiếc tivi.
Trong phòng cũng bày nhiều khung ảnh gia đình. Một cô bé tóc hung xuất hiện ở nhiều tấm trong số đó.
Anna Lou là phiên bản nữ của bố cô bé.
Cô bé luôn tươi cười. Ngày rước lễ lần đầu, chuyến đi núi cùng hai cậu em, đôi giày trượt quàng trên vai tại sân trượt băng và chiếc huy chương được khoe đầy tự hào sau một cuộc thi.
Vogel biết căn phòng này, những bức tường này, ngôi nhà này sẽ không còn như trước được nữa. Chúng chứa đầy những kỷ niệm mà không bao lâu nữa sẽ chỉ gây đau lòng.
– Chúng tôi sẽ không hạ cây thông xuống chừng nào con bé chưa về nhà. – Maria Kastner tuyên bố với giọng hùng hồn. – Nó sẽ sáng đèn để người ta có thể trông thấy qua cửa sổ.
Vogel nghĩ tới sự nghịch lý của chuyện đó, đặc biệt là trong những tháng tới. Một cây thông Giáng sinh đóng vai trò của ngọn hải đăng dẫn lối cho một người có thể sẽ không bao giờ trở về. Bởi vì rất có thể như thế. Chỉ là bố mẹ của Anna Lou chưa nhận ra mà thôi. Những ánh đèn tươi vui sẽ thông báo với mọi người bên ngoài rằng, một thảm kịch đang xảy ra bên trong những bức tường này. Sự hiện diện của chúng sẽ trở nên nặng nề. Người qua đường, hàng xóm láng giềng sẽ không thể phớt lờ cái cây cùng với ý nghĩa của nó, và theo thời gian, thậm chí họ sẽ cảm thấy khó chịu vì nó. Khi đi ngang qua ngôi nhà, họ sẽ phải băng sang lề đường bên kia để khỏi nhìn thấy nó. Biểu tượng đó sẽ làm mọi người xa lánh gia đình Kastner, làm trầm trọng thêm sự cô độc của họ. Bởi vì cái giá mà ta phải trả để sống tiếp cuộc đời của mình, như Vogel đã biết, chính là sự bàng quan.
– Người ta nói một hành động phản kháng hay bốc đồng là chuyện bình thường ở lứa tuổi mười sáu. – Maria khẳng định, trước khi kiên quyết lắc đầu. – Với con gái tôi thì không.
Vogel gật đầu. Mặc dù chưa có bằng chứng gì, ông vẫn đồng ý với chị ta. Không phải ông chỉ chiều lòng một bà mẹ đang tìm cách gỡ tội cho bản thân qua việc cam đoan rằng con gái mình không hư hỏng. Ông thực sự tin rằng Maria nói đúng. Điều khiến Vogel tin tưởng như thế chính là khuôn mặt tươi cười của Anna Lou đang nhìn ông từ khắp nơi trong phòng, vẻ giản đơn gần như trẻ con của nụ cười ấy mách bảo ông rằng một chuyện gì đó đã xảy ra với cô bé. Và nó đã xảy ra không theo ý muốn của Anna Lou.
– Chúng tôi rất gắn bó với nhau, con bé giống tôi lắm. Nó đã làm cái này cho tôi đấy. Nó đã tặng cho tôi cách đây một tuần. – Người mẹ vừa nói vừa giơ ra một chiếc vòng đeo tay kết bằng những hạt nhựa màu ở cổ tay mình. – Dạo gần đây con bé rất mê món này. Nó làm vòng rồi tặng cho những người mà nó yêu quý.
Vogel nhận thấy trong khi kể lể những chi tiết vừa rồi, những chi tiết chẳng ích lợi gì đối với cuộc điều tra, giọng nói và ánh mắt của Maria Kastner không thể hiện chút cảm xúc nào. Nhưng dù sao thì nó cũng không phải là sự lạnh lùng. Vogel đã hiểu: thật ra, người đàn bà này tin rằng đây là một thử thách mà họ phải vượt qua trong thời điểm này, để chứng minh rằng đức tin của họ vẫn nguyên vẹn và vững chắc. Vì vậy, trong thâm tâm, chị ta chấp nhận sự việc đã xảy ra và chỉ biết kêu gào bất công với hy vọng ai đó ở trên kia, đích thân Chúa trời chẳng hạn, có thể nhanh chóng giải quyết mọi chuyện.
– Anna Lou tin tưởng tôi, nhưng một người mẹ không thể biết tường tận mọi điều về con cái của mình được, tất nhiên rồi. Hôm qua, khi dọn phòng con bé, tôi đã tìm thấy cái này…
Người phụ nữ buông tay chồng mình trong giây lát để đưa cho Vogel một quyển nhật ký có bìa màu sắc sặc sỡ mà chị ta giữ bên cạnh.
Ông chồm người qua chiếc bàn thấp để đón lấy nó. Trên bìa quyển nhật ký có hai con mèo nhỏ đang vờn nhau. Vogel lật vài trang.
– Ông sẽ không tìm thấy bất cứ điều gì đáng ngờ đâu. – Người mẹ nói.
Vogel đóng quyển nhật ký lại, rồi rút từ túi áo trong ra cuốn sổ đen và cây bút.
– Tôi đoán anh chị nắm được hết những mối quan hệ của con gái…
– Đương nhiên. – Maria tuyên bố với giọng hơi bực bội.
– Anna Lou có gặp gỡ người nào đó dạo gần đây hay không? Một người bạn trai, hoặc bạn gái mới chẳng hạn.
– Không.
– Chị chắc chứ?
– Chắc. Nếu có thì con bé đã kể với tôi.
Trước đó ít phút chị ta đã thừa nhận rằng một người mẹ không thể biết được mọi thứ về con cái mình, nhưng bây giờ chị ta lại khẳng định một cách quả quyết. Điển hình cho những cặp cha mẹ có con mất tích. Họ muốn giúp cảnh sát, nhưng cũng biết lỗi tại họ một phần, ít nhất là ở sự thiếu quan tâm con cái. Nếu khơi lên vấn đề này, bản năng tự vệ sẽ trỗi dậy, dù phải chối bỏ sự thật. Và Maria đã bắt đầu nói năng mâu thuẫn. Nhưng Vogel muốn tìm hiểu thêm.
– Anh chị có ghi nhận thái độ khác thường nào trong khoảng thời gian gần đây hay không?
– Khác thường nghĩa là sao?
– Chắc chị cũng biết bọn trẻ rồi đấy. Từ những dấu hiệu rất nhỏ, chúng ta có thể hiểu ra nhiều điều. Cô bé có mất ngủ không? Ăn uống có điều độ không? Tâm trạng có thay đổi không? Cô bé có khép mình lại, bẳn tính, hoặc tỏ những thái độ mà trước đây không có hay không?
– Nó vẫn luôn là Anna Lou của chúng tôi. Tôi hiểu con gái mình, thưa thanh tra, có điều gì không ổn là tôi biết ngay.
Cô bé có một chiếc điện thoại di động. Theo ghi nhận của Vogel thì nó thuộc đời cũ, không phải là smartphone.
– Con gái anh chị có hay lên mạng không?
Bố mẹ cô bé nhìn nhau.
– Hội thân hữu của chúng tôi không khuyến khích sử dụng một số công nghệ. – Maria đáp. – Mạng Internet toàn là bẫy rập, thưa thanh tra. Những thứ lọc lừa dối trá có thể ảnh hưởng tới việc nuôi dạy một tín đồ ngoan đạo. Nhưng dù sao thì chúng tôi cũng không bao giờ cấm đoán con gái mình. Đó luôn là sự lựa chọn của con bé.
Tất nhiên rồi, Vogel nhủ thầm. Nhưng người phụ nữ này nói đúng. Hiểm nguy thường đến từ Internet. Các thiếu niên nhạy cảm như Anna Lou có thể dễ dàng bị tác động. Trên mạng đầy những kẻ săn mồi có thể thao túng những tâm hồn không vững vàng, và len lỏi vào cuộc đời họ. Bằng cách triệt tiêu dần sự đề phòng và đảo ngược những mối quan hệ đáng tin, chúng có thể chiếm chỗ của những vị phụ huynh khó tính, sai khiến bọn trẻ từ xa, cho đến khi đạt được điều mình muốn. Trên phương diện này, Anna Lou là một con mồi hoàn hảo. Cô bé có thể chỉ giả vờ nghe lời bố mẹ và lướt mạng ở nơi khác, chẳng hạn tại trường hoặc thư viện. Vogel sẽ phải kiểm tra chuyện này. Còn hiện tại, ông cần đào sâu những chi tiết khác.
– Anh chị thuộc nhóm những dân làng may mắn được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho công ty khai mỏ, đúng không?
Câu hỏi thực ra dành cho Bruno Kastner, nhưng một lần nữa, vợ anh ta lại là người lên tiếng.
– Bố tôi đã để lại cho chúng tôi một thửa đất ở phía bắc khu dân cư. Ai mà biết được nó lại có giá trị đến thế… Chúng tôi đã dành một phần tiền cho hội thân hữu và trả dứt nợ ngôi nhà này. Phần còn lại được để dành cho các cháu.
Chắc là một số tiền không nhỏ, Vogel nghĩ bụng. Có lẽ đủ để bảo đảm một cuộc sống xông xênh cho nhiều thế hệ nhà Kastner. Họ có thể tự cho phép mình tiêu xài một chút, chẳng hạn mua một ngôi nhà to đẹp hơn. Thế nhưng họ đã không hề thay đổi lối sống của mình. Vogel không hiểu được làm thế nào người ta có thể cưỡng lại một sự đổi đời bất ngờ dễ dàng đến như vậy. Nhưng ông chỉ ghi nhận điều đó và, vẫn khom lưng trên cuốn sổ, ông hỏi:
– Anh chị không bị đòi tiền chuộc, do vậy tôi loại trừ khả năng bắt cóc tống tiền. Nhưng gia đình mình có bao giờ bị đe dọa hay chưa? Liệu có ai đó, một người họ hàng hoặc người quen, có lý do để oán giận, ganh ghét hay trách cứ anh chị hay không?
Hai vợ chồng Kastner tỏ ra ngỡ ngàng trước câu hỏi này.
– Không, không có ai cả. – Maria đáp. – Chúng tôi chỉ qua lại với các thành viên trong hội thân hữu mà thôi.
Vogel ngẫm nghĩ một chút về ẩn ý của câu nói: nhà Kastner tin tưởng một cách ngây thơ rằng trong hội thân hữu của họ không có chỗ cho sự xung đột. Thật ra ông không bất ngờ về câu trả lời này. Trước khi đặt chân tới đây, ông đã sục sạo cuộc sống của họ, và tìm kiếm mọi thông tin khả dĩ về họ.
Công luận nhìn chung chỉ đánh giá được bề nổi. Do vậy, khi có chuyện gì đó bất thường xảy ra, như vụ mất tích của một cô bé giản dị và có giáo dục chẳng hạn, và khi nó xảy ra trong bối cảnh một gia đình đàng hoàng, mọi người đều cho rằng cái xấu đến từ bên ngoài. Nhưng các cảnh sát như Vogel luôn chần chừ trong việc mở rộng điều tra, vì trong nhiều trường hợp, câu trả lời chỉ đơn giản – và cũng tàn nhẫn thay – ẩn giữa bốn bức tường của tổ ấm gia đình. Đã từng có những người cha lạm dụng chính con đẻ của mình và những người mẹ thay vì bảo vệ lại đối xử với con gái như một tình địch nguy hiểm. Thế rồi, để sống yên ổn, cặp cha mẹ đi đến quyết định rằng cách tốt nhất để cứu vãn hôn nhân là loại bỏ giọt máu của họ. Có lần, ông đã gặp một người phụ nữ mà, sau khi phát hiện ra hành vi lạm dụng, đã quyết định bao che cho chồng, và để khỏi mang nhục, bà ta đã xuống tay hạ sát con gái ruột, trước khi thủ tiêu cái xác. Nói tóm lại, những vụ thảm án trong gia đình ngày càng trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Vợ chồng nhà Kastner có vẻ đàng hoàng.
Anh chồng là tài xế xe tải, và ngay cả sau khi bất ngờ trúng đậm, anh ta cũng vẫn tiếp tục còng lưng trên ghế lái. Về phần mình, cô vợ là một người nội trợ bình thường, hết lòng vì gia đình và con cái. Ngoài ra, cả hai đều có vẻ cuồng nhiệt với đức tin của mình.
Nhưng những điều đó không có gì là chắc chắn cả.
– Tôi thấy cho đến lúc này, chúng ta đã nói hết mọi chuyện. – Vogel chốt lại với vẻ hài lòng giả tạo.
Nói đoạn ông đứng dậy. Borghi cũng lập tức làm theo, sau khi đã giữ im lặng từ đầu đến cuối.
– Cảm ơn vì đã mời cà phê… Và vì cái này. – Vogel nói thêm, tay chỉ vào quyển nhật ký của Anna Lou. – Tôi tin chắc nó sẽ rất hữu ích.
Vợ chồng Kastner đưa hai cảnh sát ra cửa. Vogel đưa mắt nhìn một lần cuối hai đứa trẻ đang chơi đùa vô lo bên cây thông. Ông tự hỏi vụ việc này sẽ lưu lại một ký ức như thế nào trong đầu bọn trẻ khi chúng lớn lên. Có lẽ vẫn còn thời gian để tránh cho chúng điều khủng khiếp nhất. Nhưng gói quà nguyên vẹn thắt ruy băng đỏ đang chờ Anna Lou mách bảo ông rằng sẽ luôn có thứ gì đó nhắc nhở bọn trẻ về tấn thảm kịch đã ập xuống gia đình của chúng. Bởi lẽ không có gì tệ hơn một món quà không đến được tay người nhận. Niềm hạnh phúc mà nó chứa đựng cứ thế thối rữa dần, làm uế tạp mọi thứ xung quanh.
Cảm thấy im lặng đã kéo dài quá lâu, Vogel nói với Borghi:
– Anh vui lòng ngồi đợi tôi trong xe, được không?
– Vâng, thưa thanh tra.
Còn lại một mình với vợ chồng nhà Kastner, Vogel dùng một giọng điệu khác, ân cần hơn, như thể rất lưu tâm đối với trường hợp này.
– Tôi phải nói thật với anh chị một điều. – Ông tuyên bố. – Truyền thông sẽ đánh hơi thấy vụ việc, không bao lâu nữa, họ sẽ đổ bộ đến đây hàng đàn… Đôi khi cánh nhà báo giỏi hơn cảnh sát trong việc moi móc thông tin, và những thứ được đưa lên truyền hình không phải lúc nào cũng có liên quan trực tiếp với cuộc điều tra. Không biết tìm ở đâu, họ sẽ khai thác anh chị. Do đó, nếu có gì cần nói, bất cứ điều gì… thì đây là lúc nói ra.
Vogel để cho im lặng kéo dài lâu hơn cần thiết. Thỏa thuận đã được thiết lập. Thực ra, lời khuyên hàm chứa một sự cảnh báo. Tôi biết hai người có những bí mật, ai cũng có bí mật cả. Nhưng từ giờ, bí mật của hai người thuộc về tôi.
– Tốt. – Cuối cùng ông lên tiếng để đưa họ ra khỏi sự bối rối. – Tôi thấy anh chị đã in tờ rơi có ảnh con gái, đó là một ý hay, nhưng chưa đủ. Vụ việc mới chỉ được truyền thông tại chỗ. Đã đến lúc tiến thêm một bước. Ví dụ ra một lời kêu gọi công chúng. Hai anh chị có khả năng làm được chuyện đó không?
Hai vợ chồng nhìn nhau. Sau đó mẹ của Anna Lou tiến tới một bước. Chị ta tháo cái vòng đeo tay mà con gái mình đã làm, rồi nâng tay trái của Vogel lên và đeo nó vào cổ tay ông, tựa như trong một lễ thụ phong trịnh trọng.
– Chúng tôi sẽ làm tất cả mọi điều cần thiết để giúp ông, thưa thanh tra. Hãy đưa con bé về nhà.
Trong lúc ngồi đợi Vogel trong xe, Borghi nói chuyện điện thoại.
– Tôi không biết phải mất bao nhiêu thời gian, ông ta yêu cầu tôi làm thế. – Anh giải thích với một trong những cảnh sát viên đã chờ cuộc họp chỉ đạo từ hơn một tiếng đồng hồ. – Tôi cũng có gia đình mà. Nói mấy người kia giữ bình tĩnh, bảo họ cứ yên tâm, sẽ không có ai bị lỡ bữa tiệc Giáng sinh đâu.
Thật ra, Borghi sợ rằng mình không thể hứa chắc như vậy, vì anh chẳng biết trong đầu thanh tra Vogel đang có ý tưởng gì. Anh chỉ biết một điều là sáng nay, anh đóng vai trò lái xe cho ông ta.
Tối hôm qua, chỉ huy của Borghi đã yêu cầu anh đến Avechot sáng nay để hỗ trợ Vogel trong việc điều tra vụ cô bé mất tích. Anh nhận được tập hồ sơ mỏng dính kèm theo lời chỉ dẫn kỳ lạ. Có mặt đúng 8 giờ 30 phút, trang phục com lê cà vạt sẫm màu, trước cửa quán ăn tại lối vào làng.
Dĩ nhiên Borghi đã nghe nói rất nhiều về Vogel và sự kỳ quặc của ông ta. Người ta hay nhắc đến ông ta cùng các vụ phá án trên truyền hình. Ông ta cũng được mời tham gia nhiều chương trình có liên quan đến pháp lý. Báo giấy và báo hình tranh nhau phỏng vấn ông ta. Vogel luôn tỏ ra thoải mái trước ống kính, như một diễn viên già không gì giỏi hơn là ứng biến, với sự tự tin về thành công của mình.
Người trong ngành cũng kể cho nhau nghe những câu chuyện về ông ta, họ mô tả ông ta như một kẻ chi li, gàn dở, chỉ quan tâm đến hình ảnh của mình trên truyền thông, và chăm chăm tìm cách lấn lướt mọi người xung quanh.
Thế nhưng, dạo gần đây, mọi việc không còn thuận lợi cho Vogel. Một vụ án đã đặc biệt làm khó ông ta. Người trong ngành lấy làm mừng vì điều đó, nhưng Borghi, rõ ràng còn quá ngây thơ, luôn nghĩ rằng sẽ có nhiều điều cần học hỏi từ một gã cớm như ông ta. Nói cho cùng, bản thân anh mới bắt đầu sự nghiệp, kinh nghiệm này cũng chẳng hại gì.
Chỉ có điều, Vogel luôn quan tâm đến những vụ án chấn động, những vụ sát nhân tàn bạo, gây phẫn nộ trong dư luận. Người ta nói ông ta luôn lựa chọn rất kỹ vụ án cho mình.
Bởi vậy, Borghi tự hỏi Vogel nhìn thấy điều gì đặc biệt trong vụ mất tích của một cô bé.
Anh thông cảm được với nỗi sợ của bố mẹ Anna Lou, và cũng nghĩ có thể cô bé đã gặp một chuyện gì đó rất xấu, nhưng anh chẳng thấy trong đó có gì hấp dẫn truyền thông. Trong khi Vogel là người chỉ quan tâm đến những vụ án được truyền thông để mắt tới.
– Chúng tôi sắp đến rồi. – Anh nói vào điện thoại để trấn an, rồi cúp máy.
Đúng lúc đó, Borghi chú ý tới một chiếc xe thùng màu đen đậu ở cuối đường.
Hai người đàn ông trên xe đang chăm chú quan sát ngôi nhà của gia đình Kastner mà không nói với nhau tiếng nào.
Borghi sắp sửa xuống xe để đến hỏi giấy tờ của họ thì thấy Vogel bước ra khỏi nhà và đi về phía anh. Rồi anh nhận thấy ông thanh tra bước chậm lại. Ông ta làm một chuyện mà anh không hiểu gì cả.
Ông ta vỗ tay.
Thoạt đầu còn nhẹ, sau đó mạnh dần. Cùng lúc đó, Vogel quan sát xung quanh. Âm thanh truyền đi một cách dễ dàng, và những khuôn mặt ló ra trên cửa sổ của các ngôi nhà lân cận. Một bà già, một cặp vợ chồng có con cái, một người đàn ông rất to béo, và một bà nội trợ có mái tóc quấn lô. Họ chứng kiến cảnh tượng mà không hiểu gì cả.
Lúc đó Vogel dừng lại.
Ông ta nhìn quanh một lần cuối, trước khi đi tiếp như thể không có chuyện gì xảy ra và bước lên xe. Borghi rất muốn hỏi vì sao ông ta lại làm như thế, nhưng một lần nữa anh bị Vogel chặn họng.
– Hôm nay anh ghi nhận được điều gì trong ngôi nhà của họ, trung úy Borghi?
– Hai vợ chồng lúc nào cũng nắm tay nhau, họ có vẻ tâm đầu ý hợp… Nhưng chị vợ luôn là người phát ngôn.
Vogel gật gù đồng tình qua gương chiếu hậu.
– Người đàn ông này đang cực kỳ muốn nói với chúng ta một điều gì đó.
Borghi không bình luận gì. Anh nổ máy, quên đi những cái vỗ tay và chiếc xe thùng màu đen.
Đồn cảnh sát quá bé nhỏ và chật chội đối với những ý tưởng mà Vogel có trong đầu. Ông đã yêu cầu một nơi thích hợp hơn cho công tác điều tra. Do vậy, phòng thể chất của trường học đã được trưng dụng làm phòng tác chiến cho cuộc điều tra vụ mất tích.
Các tấm thảm và dụng cụ tập luyện đã được xếp dọc theo tường. Những chiếc bàn học đã được đem tới để làm bàn viết, ghế thì dùng loại ghế gấp di động. Thư viện đã cho mượn máy tính xách tay và máy tính để bàn, nhưng chỉ có một điện thoại cố định liên lạc được với bên ngoài. Một tấm bảng đen đã được đặt bên dưới trụ bóng rổ, trên đó viết bằng phấn mấy chữ: Kết quả điều tra. Bên dưới dòng chữ, họ dán những chi tiết đã thu thập được cho đến thời điểm hiện tại: tấm ảnh của Anna Lou được in trong tờ rơi, và một tấm bản đồ của thung lũng.
Trong phòng, một nhóm cảnh sát địa phương mặc trang phục bình thường đang tán gẫu quanh chiếc máy pha cà phê và một khay bánh ngọt. Họ vừa nhai vừa nói chuyện, mắt sốt ruột nhìn đồng hồ. Tất cả tạo thành một mớ âm thanh hỗn độn, nhưng vẻ mặt của mọi người cho thấy họ đang phàn nàn về cùng một thứ.
Khi nghe thấy tiếng động trầm đục và đột ngột do cánh cửa đôi chống cháy bật mở đồng thời, mọi người nhất loạt quay lại. Vogel bước vào trong phòng, theo sau là Borghi. Tất cả ngừng nói. Cánh cửa ồn ào đóng lại phía sau lưng thanh tra. Trong phòng, người ta chỉ còn nghe thấy những âm thanh đanh chắc và hơi đay nghiến phát ra từ đôi giày da của ông.
Không chào hỏi gì, cũng không buồn nhìn một ai, Vogel tiến đến chỗ tấm bảng đen. Ông nhìn mấy chữ Kết quả điều tra trong một thoáng, như thể đang nghiền ngẫm nó. Sau đó, bằng một cử chỉ dứt khoát, ông xóa dòng chữ, giật phăng tấm ảnh và bản đồ thung lũng.
Tiếp đến, ông dùng phấn ghi lên bảng một mốc thời gian: 23 tháng Mười Hai.
– Hai ngày đã trôi qua kể từ khi cô bé mất tích. – Ông nói với tốp cảnh sát. – Trong những vụ việc như thế này, thời gian là kẻ thù của chúng ta, nhưng cũng có thể là đồng minh. Tất cả phụ thuộc ở chúng ta. Đã đến lúc hành động. Tôi muốn lập hai chốt chặn trên quốc lộ, ở hai đầu thung lũng. Các anh không phải chặn bắt ai, nhưng ta phải gửi một tín hiệu.
Những người có mặt không nói tiếng nào. Borghi đứng hơi tách biệt, lưng dựa vào tường, mắt quan sát mọi người.
– Camera an ninh ở cây xăng và camera giao thông, có ai kiểm tra chưa? – Vogel hỏi.
Sau một thoáng ngập ngừng, một cảnh sát bụng phệ mặc áo sơ mi ca rô và đeo cà vạt xanh da trời giơ tách cà phê xin phát biểu. Anh ta khó chịu ra mặt.
– Có rồi, thưa ông. Chúng tôi đã có đoạn phim được quay trong khoảng thời gian diễn ra vụ mất tích.
– Tốt. Các anh hãy nhận dạng các tài xế nam trên những chiếc xe hơi đi qua, và kiểm tra lý do ra vào thung lũng của họ. Tập trung vào những người đã có tiền án.
Từ vị trí quan sát của mình, Borghi ghi nhận một sự bất bình tập thể.
Một cảnh sát viên thứ hai lên tiếng, người này lớn tuổi hơn, và do vậy tự cho phép mình quyền chỉ trích.
– Thưa ông, chúng tôi không có đủ nhân lực, cũng không có ngân sách chi trả cho thời gian làm ngoài giờ.
Những người còn lại lẩm bẩm tán thành.
Vogel không hề nao núng. Ông quan sát những chiếc bàn dã chiến. Sự thiếu thốn là rõ ràng, và nó khiến họ trở nên lố bịch. Ông không thể trách cứ những người đàn ông này vì đã tỏ ra hoài nghi và chán nản. Nhưng ông cũng không thể cho phép họ kiếm cớ trốn việc.
– Tôi biết các anh muốn được ở nhà đón Giáng sinh cùng gia đình. – Vogel ôn tồn đáp. – Tôi biết các anh coi trung úy Borghi và tôi như hai kẻ lạ mặt dám đến đây để hạch sách này nọ. Nhưng khi vụ việc này kết thúc, Borghi và tôi, chúng tôi sẽ quay về chỗ của mình. Các anh thì ngược lại… Các anh sẽ tiếp tục đối diện với phụ huynh của cô bé trên đường phố.
Tiếp theo là một sự im lặng.
– Thưa ông, – viên cảnh sát lớn tuổi hơn nói tiếp, – tôi xin phép được hỏi một câu: tại sao lại tìm kiếm một người đàn ông, trong khi người mất tích là một cô bé? Chẳng phải chúng ta nên tập trung vào cô bé hay sao?
– Bởi vì ai đó đã bắt cóc cô bé.
Đúng như dự kiến, câu nói có tác dụng như một quả bom chặn đứng mọi ý đồ đáp trả. Vogel nhìn những người có mặt. Bất kỳ cảnh sát có lý trí nào cũng xem lời khẳng định vừa rồi như một thứ tà thuyết. Chẳng có bằng chứng nào để củng cố cho nó, dù là một manh mối nhỏ. Đó là một lời khẳng định vô căn cứ. Nhưng nó quan trọng đối với Vogel, ông muốn gieo vào đầu họ suy nghĩ rằng chuyện đó là có thể. Từ hạt mầm đó, sự đoan chắc sẽ sớm xuất hiện. Ông thừa biết nếu thuyết phục được những người này thì ông có thể thuyết phục bất kỳ ai. Tất cả được quyết định tại đây. Không phải trong một phòng tác chiến thực thụ được trang bị để giải quyết khủng hoảng, mà là một phòng giáo dục thể chất học đường. Không phải với những chuyên viên tinh nhuệ có nhiều năm lăn lộn thực địa, mà là những cảnh sát địa phương thiếu trang bị và không biết phải tiến hành một cuộc điều tra phức tạp ra sao. Trong những giây phút này, số phận của cuộc điều tra sẽ được định đoạt, và biết đâu cùng với nó là số phận của một cô bé mười sáu tuổi. Để bán được ý tưởng của mình, Vogel sẽ vận dụng mọi mánh lới mà ông đã học được trong những năm qua.
– Không cần phải lòng vòng. Cứ thẳng thắn với nhau. Bởi lẽ, như tôi đã nói, những thứ còn lại chỉ làm chúng ta mất thời gian. Nhưng thời gian ở đây là của Anna Lou, chứ không phải của chúng ta… – Ông nói và rút cuốn sổ đen trong túi ra xem các ghi chú. – Anna Lou Kastner rời nhà để đến một cuộc hẹn ở nhà thờ, nằm cách nhà cô bé khoảng ba trăm mét.
Vogel dừng lời để chấm hai điểm lên bảng, cách xa nhau.
– Chúng ta đã biết cô bé không bao giờ đến nơi. Thế nhưng, Anna Lou không phải là dạng thiếu niên bỏ nhà đi bụi. Những người quen biết cô bé khẳng định điều đó, và lối sống của cô bé cũng xác nhận như vậy: ngôi nhà không gắn Internet, Anna Lou không có tài khoản nào trên mạng xã hội, và chỉ có năm số điện thoại trong danh bạ điện thoại di động của mình: mẹ, bố, nhà, nhà ông bà, và nhà thờ.
Vogel vừa nói vừa vẽ một đường thẳng nối hai điểm trên bảng.
– Mọi câu trả lời đều nằm trong ba trăm mét này. Có mười một gia đình sống ở đây. Bốn mươi sáu người cả thảy, trong đó ba mươi hai đang có mặt ở nhà… Thế nhưng không một ai nhìn thấy hay nghe thấy bất kỳ điều gì. Các camera an ninh đều hướng vào cửa nhà, không hướng ra ngoài đường, do vậy hoàn toàn vô tích sự. Người ta nói thế nào nhỉ? Vườn nhà ai người nấy rào… Kẻ bắt cóc đã nghiên cứu sinh hoạt trong khu vực, hắn biết làm thế nào để không bị phát hiện. – Vogel tuyên bố trong lúc cất sổ tay vào túi áo. – Việc chúng ta chỉ có thể phỏng đoán về sự tồn tại của hắn cho thấy hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc chơi… Và hắn đang thắng.
Đặt phấn xuống, Vogel vỗ hai tay vào nhau để rũ sạch bụi phấn, sau đó quan sát mọi người để xem ông có tác động được đến họ hay không. Có. Ông đã gieo một mối nghi ngờ vào đầu họ. Không những thế, ông đã cho họ một động cơ để dấn bước. Kể từ buổi sáng hôm nay, ông sẽ không gặp khó khăn trong việc sai khiến họ, và sẽ không ai chất vấn các mệnh lệnh của ông nữa.
– Tốt rồi. Đừng quên điều này: vấn đề không phải là hiện nay Anna Lou đang ở đâu. Vấn đề thực sự là: cô bé đang ở cùng ai. Giờ thì vào việc thôi.
Với cái bụng đói meo, Borghi lui về căn buồng khách sạn mà anh đặt vào buổi chiều, cùng lúc với phòng của Vogel. Anh đã tưởng mình sẽ không tìm được phòng trong ngày Giáng sinh. Tuy nhiên, bất chấp việc là một trong những hạ tầng du lịch cuối cùng còn hoạt động của thung lũng, khách sạn Fiori delle Alpi vẫn gần như trống vắng. Những cái khác đều đã đóng cửa sau khi mỏ fluorit đi vào hoạt động. Lúc đầu, Borghi tự hỏi tại sao chúng không được chuyển đổi công năng để phục vụ cho nhân viên của tập đoàn đa quốc gia, nhưng người ta đã giải thích với anh rằng công nhân tại đây hầu hết là người làng, còn các lãnh đạo công ty thì di chuyển bằng trực thăng và chẳng bao giờ lưu lại dài ngày.
Avechot có chưa đầy ba ngàn dân, và một nửa trong số các nam thanh niên độ tuổi lao động đã được tuyển dụng bởi tập đoàn khai mỏ.
Sau khi bước vào phòng, Borghi bắt đầu cởi giày và tháo cà vạt. Anh bị lạnh suốt cả ngày hôm nay. Thường thì anh chỉ mặc com lê khi đến tòa án cung cấp bằng chứng. Anh không quen với việc mặc nó liên tục nhiều giờ như thế này. Borghi chờ cho đến khi thân nhiệt của mình thích ứng với nhiệt độ phòng rồi mới cởi áo vest và sơ mi. Anh phải giặt áo và phơi nó trong buồng tắm, với hy vọng nó sẽ kịp khô cho ngày mai. Khi chuẩn bị va li cho chồng, vợ anh đã quên sắp vào đó vài chiếc áo dự phòng. Caroline dạo này rất đãng trí. Hai vợ chồng anh mới cưới được hơn một năm, và cô đang có bầu sáu tháng.
Thật khó để thuyết phục một cô vợ trẻ đang bụng mang dạ chửa rằng mình sẽ không ăn Giáng sinh cùng cô ấy, bất chấp lý do cực kỳ chính đáng là đi làm nhiệm vụ của cảnh sát.
Borghi gọi cho vợ sau khi đã ngâm áo sơ mi trong lavabo.
– Anh gặp chuyện gì ở Avechot thế? – Cô hỏi với giọng bực bội.
– Thật ra thì bọn anh còn chưa rõ.
– Thế thì họ đâu cần bắt anh đi làm vào ngày nghỉ?
Rõ ràng Caroline đang muốn gây sự. Dạo này cô ấy rất bẳn tính.
– Anh đã nói với em rồi, việc anh đến đây rất quan trọng đối với sự nghiệp của anh.
Borghi cố gắng xoa dịu, nhưng không dễ dàng. Anh bị xao lãng vì những giọng nói phát ra từ chiếc tivi bật trong phòng.
– Anh xin lỗi, anh phải cúp máy đây. Có người gọi cửa. – Anh nói dối.
Borghi gác máy trước khi Caroline kịp kêu ca, rồi vội vàng ngồi xem bản tin thời sự trên truyền hình.
Tối 25 tháng Mười Hai, khi mọi người đã tiệc tùng xong và chuẩn bị khép lại một ngày dài, bố mẹ của Anna Lou xuất hiện trên truyền hình.
Họ ngồi cạnh nhau sau một chiếc bàn chữ nhật lớn, trên một cái bục nhỏ. Cả hai có vẻ bé nhỏ trong chiếc áo khoác đi tuyết, như thể mối lo lắng trong những giờ qua đã gặm nhấm một phần cơ thể họ. Hai vợ chồng có vẻ mệt mỏi nhưng luôn nắm tay nhau.
Borghi nhận ra đây là lời kêu gọi được một kênh truyền hình địa phương ghi hình trong buổi chiều, dưới sự chỉ đạo của Vogel. Anh cũng có mặt tại đó, nhưng việc xem lại đoạn phim trên màn ảnh nhỏ gây ra cho anh một cảm giác lạ lùng khó tả.
Bruno Kastner giơ ra trước ống kính máy quay một khung ảnh của con gái. Tấm ảnh được chụp vào cuối một buổi thánh lễ, khi đó Anna Lou mặc một chiếc áo thụng màu trắng và đeo thánh giá gỗ. Maria Kastner, với cùng cây thánh giá trên cổ, cất giọng đọc mấy dòng thông cáo như sau:
“Anna Lou cao một mét sáu mươi bảy, tóc hung dài, thường buộc đuôi ngựa. Lúc mất tích, cháu mặc quần thể dục màu xám và áo khoác lông vũ màu trắng, đi giày thể thao. Cháu cũng đeo một chiếc ba lô có màu sặc sỡ.”
Sau khi ngừng lấy hơi, Maria nhìn thẳng vào ống kính, như thể muốn nói với tất cả những ông bố bà mẹ đang xem truyền hình, cũng như kẻ đã biết sự thật:
“Con gái Anna Lou của chúng tôi rất ngoan, những ai biết cháu đều hiểu cháu có một trái tim nhân ái. Cháu rất yêu mèo và tin người. Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ muốn nói với những ai chưa từng gặp cháu trong mười sáu năm qua rằng: nếu trông thấy cháu, hoặc biết cháu đang ở đâu, hãy giúp chúng tôi đưa cháu về nhà.”
Cuối cùng, chị nói với con gái, như thể cô bé có thể nghe thấy từ một nơi bí mật và xa xôi nào đó:
“Anna Lou… mẹ, bố và hai em thương con nhiều lắm. Dù con đang ở đâu, mẹ hy vọng con nghe thấy những lời này, và cảm nhận được tình yêu của cả nhà. Khi nào con về, bố mẹ sẽ tặng con chú mèo nhỏ mà con rất muốn có, Anna Lou, mẹ xin hứa… Chúa bảo vệ con, con gái bé bỏng của mẹ.”
Borghi nhận thấy người mẹ lặp lại nhiều lần cái tên của con gái, mặc dù chuyện đó không cần thiết. Có lẽ chị ta sợ đánh mất một chút gì còn sót lại của Anna Lou.
Từ lúc này, một cô bé giản dị và vô danh, vốn chẳng bao giờ tưởng tượng được có ngày sẽ được lên tivi, cùng với ngôi làng Avechot nhỏ xíu, đã trở nên nổi tiếng theo cách đáng buồn. Borghi rốt cuộc cũng nhận ra điều mà mình cảm thấy ban nãy, khi anh xem lại đoạn phim như thể chưa từng biết đến nó.
Truyền hình có hiệu ứng như thế. Tựa hồ những lời nói và cử chỉ có một sức nặng mới trên truyền hình.
Trước đây, truyền hình chỉ dừng lại ở việc tái hiện thực tế, nhưng bây giờ thì khác. Nó làm cho thực tế trở nên nắm bắt được, như một thứ có hình hài và vững chắc.
Nó tạo ra thực tế.
Không hiểu sao Borghi nhớ đến câu mà Vogel nói về bố của Anna Lou sau khi đứng vỗ tay trước cửa nhà Kastner.
“Người đàn ông này đang cực kỳ muốn nói với chúng ta một điều gì đó.”
Anh sắp làm cha của một bé gái. Từ hơn hai ngày qua, người đàn ông kia không hề biết con gái mình đang ra sao. Đột nhiên Borghi cảm thấy lo lắng. Anh tự hỏi liệu cái thế giới sắp chào đón con gái anh có thực sự tàn nhẫn đến vậy hay không.
Đã gần nửa đêm, ngôi nhà của gia đình Kastner chìm trong im lặng. Nhưng sự thinh lặng này không có chút gì gọi là êm đềm, nó bộc lộ khoảng trống đã được tạo ra trong nhà từ hơn bốn mươi tám giờ qua. Sự vắng mặt của Anna Lou là quá rõ ràng. Bố cô bé không thể phớt lờ chuyện đó như đã làm trong suốt cả ngày hôm nay, né tránh việc nhìn vào những chỗ quen thuộc của con gái, như chiếc ghế ở bàn ăn, cái ghế bành mà cô bé hay cuộn mình đọc sách buổi tối hoặc xem tivi, hoặc thậm chí là cánh cửa phòng cô bé. Anh đã bù đắp sự vắng mặt của con bằng những tiếng động khác. Chẳng hạn, khi nỗi đau vì không được nghe con nói cười hoặc hát hò trở nên không thể chịu đựng nổi, Bruno Kastner dời chỗ một món đồ, để tiếng ồn lấp đầy khoảng trống mà Anna Lou để lại, giúp cho anh không chú ý đến sự im lặng tồi tệ này.
Bác sĩ Flores đã kê toa thuốc an thần cho Maria để chị có thể ngủ được. Sau khi chắc chắn vợ đã uống thuốc, anh đi dém chăn cho hai đứa bé sinh đôi, và dừng lại nơi ngưỡng cửa phòng ngủ của bọn trẻ, để canh chừng giấc ngủ chập chờn của chúng một chút. Bọn trẻ chịu được cú sốc, nhưng những giấc mơ cho thấy chúng cũng bị chấn động. Suốt ngày hôm nay, hai đứa đã hỏi nhiều câu với giọng điệu vô tư và hài lòng về những câu trả lời lảng tránh cụt ngủn. Nhưng sự bàng quan của bọn trẻ cho thấy chúng sợ biết được sự thật. Một sự thật mà chúng chưa sẵn sàng để đối diện ở cái tuổi lên bảy.
Bruno Kastner không biết nó là gì. Anh chỉ biết nó rất khủng khiếp.
Anh đã mặc đồ ngủ trở lại. Sau chuyến viếng thăm của hai cảnh sát, anh đã mặc quần áo đi ra ngoài, dù không rõ sẽ đi đâu. Anh tìm thấy sự an ủi trong công việc hằng ngày, do vậy anh đã trải qua nhiều giờ sau đó trên chiếc xe tải, chạy lang thang không mục đích trên những con đường núi. Anh tìm một dấu hiệu của Anna Lou, bất kỳ cái gì. Thật ra, anh chạy trốn sự lo lắng và cảm giác bất lực mà chỉ có một người cha mới cảm thấy khi không thể chăm lo cho người thân như mình lẽ ra phải làm.
Trải qua một ngày dài bất tận, mặc dù kiệt sức, anh vẫn không chắc mình sẽ ngủ được. Anh sự những giấc mơ đang chờ đón mình. Anh không thể uống thuốc ngủ, vì phải có ai đó bảo vệ ngôi nhà, bảo vệ gia đình. Dẫu cho chuyện đó giờ đã trở thành vô ích, vì cái ác đã tìm được cách để đi vào. Bên cạnh đó, có một cơ hội mong manh rằng Anna Lou sẽ quay về, hoặc chiếc điện thoại sẽ đổ chuông, giải phóng họ khỏi nỗi ám ảnh đáng sợ này.
Đi vào phòng khách, Bruno lấy từ trong ngăn kéo ra cuốn album ảnh gia đình mà Maria đã làm với biết bao yêu thương trong nhiều năm qua. Anh cầm nó sang phòng ăn, ngồi vào bàn, nhưng không bật đèn. Ánh sáng từ ngọn đèn đường lọt vào qua cửa sổ cũng đủ đối với anh. Bruno lấy những tấm ảnh ra khỏi album, rồi bày chúng lên bàn, tấm nọ nối tiếp tấm kia, theo một trật tự mà chỉ có anh biết, như một thầy bói chuẩn bị phán về tương lai của người đối diện.
Trên những tấm ảnh, anh thấy con gái mình, từ lúc còn nhỏ xíu.
Anna Lou lớn dần lên trước mắt anh. Cái ngày con biết bò, chập chững bước đi đầu tiên, ngày anh dạy con đi xe đạp. Một loạt những cái đầu tiên. Ngày đầu tiên đi học, sinh nhật đầu tiên của con. Giáng sinh đầu tiên. Và rất nhiều khoảnh khắc khác. Những kỳ Giáng sinh khác, một buổi leo núi, một cuộc thi trượt băng. Hàng đống kỷ niệm vui. Bởi vì không ai lại đi chụp ảnh những ngày tồi tệ cả – ý tưởng đó thật ngu ngốc. Mà nếu có thì sau đó chúng cũng bị gạt qua một bên.
Có những hình ảnh được chụp từ chuyến du lịch đầu tiên của cả nhà, hồi năm ngoái, khi họ đi biển. Anna Lou trông thật tồ trong bộ đồ bơi, con bé cũng biết điều đó. Có lẽ vì thế mà nó luôn đứng tách ra trong những tấm ảnh. Khác với những cô bé cùng tuổi khác, con bé còn chưa phổng phao. Trông nó vẫn là một bé gái có mái tóc đuôi ngựa hung đỏ và những chấm tàn nhang. Bruno muốn Maria nói chuyện với con bé, giải thích cho nó hiểu rằng như thế là bình thường, một ngày kia, cơ thể của nó sẽ trải qua một sự biến đổi đột ngột theo hướng tốt đẹp hơn. Thế nhưng vợ anh là một người rất ngoan đạo, những thứ như giới tính và tuổi dậy thì là chủ đề cấm kỵ. Mà anh thì không thể giải thích thay mẹ con bé được. Với hai thằng con trai thì nhiệm vụ sẽ là của anh, vào một ngày nào đó. Nhưng một người cha thì không thể đề cập những chủ đề như vậy với con gái. Anna Lou sẽ rất ngại, con bé sẽ đỏ mặt và cảm thấy ngượng ngùng hơn nữa.
Con gái anh cũng giống bố, rụt rè và hơi bối rối khi phải tương tác với phần còn lại của thế giới. Kể cả những người trong gia đình.
Bruno rất muốn cho con nhiều hơn. Chẳng hạn, anh có thể dùng một phần tiền bán đất để gửi con đi học ở một ngôi trường tốt hơn. Sao không là một trường tư nhỉ? Nhưng miếng đất là của vợ anh, do vậy tiền cũng là của chị. Maria đã quyết định, như thường lệ. Anh không phản đối việc hiến một khoản lớn cho hội thân hữu, nhưng anh muốn con cái cũng có phần ngay từ bây giờ, chứ không phải trong một tương lai giả định nào đó.
Bởi vì anh không rõ liệu có tương lai nào đang chờ đón Anna Lou hay không.
Bruno xua ý nghĩ đó đi. Anh chỉ muốn đấm xuống bàn. Anh đủ mạnh để làm nó gãy đôi, nhưng anh kiềm chế lại. Anh đã luôn kìm hãm bản thân trong suốt cả cuộc đời mình.
Anh dụi mắt. Khi mở ra, mắt anh dừng lại ở một tấm ảnh. Nó được chụp mới đây. Con gái anh đang cười với một cô bé khác. Trong khi Anna Lou chỉ như một bé gái, cô bạn kia trang điểm, ăn mặc theo mốt, và đã phổng phao lắm rồi. Nhìn cô gái, Bruno muốn khóc mà không khóc được.
Chuyện đã xảy ra là do lỗi của anh, chỉ của anh mà thôi.
Anh là một người có đức tin, không đến mức như Maria, nhưng cũng đủ để biết mình đã sai. Nếu anh đủ mạnh mẽ để đối đầu với vợ, thì hôm nay Anna Lou vẫn bình an vô sự trong một ngôi trường nội trú, hoặc ở đâu đó. Nếu anh đủ dũng khí để nói với Maria điều anh nghĩ, và bày tỏ quan điểm của mình, con gái anh đã không mất tích.
Thế nhưng, anh đã im lặng. Bởi vì đó là điều mà những người có tội vẫn làm: họ im lặng, và bằng cách im lặng, họ nói dối.
Đó là phán quyết mà Bruno Kastner tự dành cho mình. Anh cất gần hết các tấm ảnh, đóng quyển album lại, và chuẩn bị đối diện với một đêm thức trắng thứ ba.
Trên bàn chỉ còn lại một tấm ảnh. Của Anna Lou và cô bạn kia.
Anh nhét nó vào túi.