← Quay lại trang sách

Chương 5 Những ngày cuối cùng-của Vinca Rockwell

Không có thứ gì làm sống dậy quá khứ tốt hơn là thứ mùi mà ta đã gán cho nó ngày xưa.

Vladimir NABOKOV

1.

Ngày hôm nay

Ngày 13 tháng Năm năm 2017

“Tớ chưa bao giờ nhắc lại về tình tiết ấy với bố tớ,” Maxime vừa khẳng định vừa châm một điếu thuốc.

Một tia nắng ánh lên lấp lánh trên phần vỏ láng bóng của chiếc bật lửa, một chiếc Zippo được trang trí bằng bản sao một bức tranh khắc Nhật Bản: Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa. Chúng tôi đã rời bỏ khung cảnh ngột ngạt của nhà thể chất để leo lên Tổ Đại Bàng, một sườn treo hẹp hoa nở rực rỡ chạy dọc theo mỏm núi đá nhô ra phía trên hồ nước.

“Thậm chí tớ còn không biết ông ấy đã nhét cái xác vào chỗ nào trong bức tường,” cậu bạn tôi nói tiếp.

“Có thể đã đến lúc hỏi ông ấy chăng?”

“Bố tớ mất hồi mùa đông năm ngoái rồi, Thomas ạ.”

“Chết tiệt thật, tớ xin lỗi.”

Cái bóng của Francis Biancardini hiện ra trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Tôi vẫn luôn có cảm giác rằng ông bố của Maxime là người không thể phá hủy. Một tảng đá nơi tất cả những kẻ vô thức lao vào đều bị vỡ nát. Nhưng cái chết là một đối thủ đặc biệt. Đối thủ rốt cuộc luôn giành phần thắng.

“Ông mất vì lý do gì vậy?”

Maxime hít một hơi dài, khiến cậu ta hấp háy mắt.

“Đó là một câu chuyện tệ hại,” cậu ta báo trước. “Những năm vừa qua, ông sống phần lớn thời gian trong căn nhà ở khu Aurelia Park. Cậu biết chỗ đó không?”

Tôi gật đầu. Tất nhiên là tôi biết khu dinh thự sang trọng được đảm bảo an ninh trên núi ở Nice.

“Vào dịp cuối năm, nơi đó đã trở thành mục tiêu của một làn sóng trộm cắp, đôi khi rất hung bạo. Lũ du côn không ngần ngại đột nhập các biệt thự ngay cả khi có mặt chủ nhà. Đã có nhiều vụ đột nhập, nhiều vụ tấn công.”

“Và Francis là một nạn nhân của tình trạng đó?”

“Đúng thế. Dịp Giáng sinh. Ông vẫn luôn có súng trong nhà, nhưng không kịp dùng đến nó. Ông bị lũ trộm cướp trói lại và đánh đập. Ông chết vì nhồi máu cơ tim sau vụ tấn công.”

Những vụ đột nhập. Một trong những vết thương của vùng Côte d’Azur, với việc bê tông hóa vùng bờ biển, đường giao thông thường xuyên tắc nghẽn, mật độ dân số quá cao do du lịch ồ ạt…

“Có bắt được những kẻ gây ra vụ tấn công không?”

“Ờ có, một băng nhóm người Macedonia. Những kẻ rất có tổ chức. Cảnh sát đã tóm được hai hay ba tên gì đó, chúng đang phải ở tù.”

Tôi tì khuỷu tay lên lan can. Sườn núi hình lưỡi liềm kết cấu bằng khoáng chất này giúp ta có tầm nhìn khá ngoạn mục xuống mặt hồ.

“Ngoại trừ Francis, còn ai biết về vụ giết Clément nữa?”

“Cậu và tớ, thế thôi,” Maxime đảm bảo. “Cậu biết tính bố tớ đấy: ông không phải loại người đi rêu rao…”

“Chồng cậu thì sao?”

Maxime lắc đầu.

“Mẹ kiếp, đó là điều cuối cùng mà tớ muốn Olivier biết được về tớ. Suốt cuộc đời mình, tớ chưa bao giờ nhắc đến tội ác đó với bất kỳ ai.”

“Còn có cả Ahmed Ghazouani, người phụ trách công trường.”

Maxime tỏ vẻ nghi ngờ. “Không có người nào câm lặng hơn ông ấy đâu. Với lại, ông ấy có lợi ích gì khi nhắc đến một tội ác mà ông ấy cũng là tòng phạm chứ?”

“Ông ấy còn sống không?”

“Không. Bị giày vò bởi bệnh ung thư, vào cuối đời, ông ấy đã quay về Bizerte để chết.”

Tôi đeo cặp kính mắt tối màu lên. Đã gần giữa trưa. Tít trên cao, mặt trời tỏa nắng ngập tràn Tổ Đại Bàng nơi chúng tôi đang đứng. Được bao quanh bằng một hàng lan can gỗ đơn giản, nơi này vừa nguy hiểm lại vừa cuốn hút.

Từ trước đến nay, người ta vẫn cấm học sinh leo lên đây, nhưng với tư cách là con trai của hiệu trưởng, tôi có nhiều quyền ngoại lệ, và vẫn còn giữ rất nhiều kỷ niệm khá kỳ ảo về những buổi tối cùng Vinca hút thuốc và uống rượu hoa quả mandarinello trong khi ánh trăng phản chiếu trên mặt hồ.

“Người gửi những tờ báo này cho chúng ta chắc chắn biết chuyện chúng ta đã làm!” Maxime thốt lên.

Cậu ta rít một hơi cuối cùng khiến điếu thuốc cháy đến tận đầu lọc.

“Gã đó, Alexis Clément ấy, có người thân gì không?”

Tôi thuộc lòng cây gia phả của gia đình gã thầy giáo.

“Clément là con trai duy nhất và hồi ấy bố mẹ hắn đã già rồi. Chắc cả họ cũng đã chết hết rồi. Dù sao đi nữa, mối đe dọa cũng không xuất phát từ phía đó.”

“Vậy thì từ ai? Stéphane Pianelli chăng? Đã nhiều tháng nay cậu ta bám lẵng nhẵng theo tớ. Từ khi tớ cam kết ủng hộ Macron, cậu ta đã điều tra về tớ trên mọi phương diện. Cậu ta mở lại những hồ sơ cũ về bố tớ. Với lại, cậu có nhớ là cậu ta đã viết cuốn sách đó về Vinca không?”

Có thể tôi ngây thơ, nhưng tôi không tưởng tượng được rằng Stéphane Pianelli có thể đi xa đến thế để buộc chúng tôi phải lộ mặt.

“Cậu ta là kẻ ưa tọc mạch,” tôi thừa nhận. “Nhưng tớ không nghĩ cậu ta là loại chim săn mồi ác độc, cậu ta sẽ tấn công chúng ta trực diện hơn nếu có nghi ngờ. Ngược lại, cậu ta đã nhắc đến một chuyện khiến tớ lo lắng, là số tiền mà người ta tìm thấy trong một ngăn tủ cũ.”

“Cậu đang nói về chuyện gì vậy?”

Maxime không biết đến thông tin này. Tôi tóm tắt cho cậu ta nghe tình hình: vụ ngập lụt, việc phát hiện ra mấy trăm ngàn franc trong một cái túi, việc lấy được hai dấu vân tay, trong đó có một dấu vân tay là của Vinca.

“Vấn đề là số tiền đó được tìm thấy trong ngăn tủ của tớ hồi đó.”

Hơi thất thần, Maxime nhíu mày. Tôi tiếp tục giải thích thêm, “Trước khi cha mẹ tớ được bổ nhiệm đến Saint-Ex, tớ đã đăng ký một phòng ký túc, nơi tớ ở năm lớp mười.”

“Tớ vẫn còn nhớ chuyện đó.”

“Khi họ được thuyên chuyển và nhận được nhà ở công vụ, cha mẹ tớ đã yêu cầu tớ trả lại căn phòng đó để một học sinh khác có thể sử dụng nó.”

“Cậu đã làm như thế đúng không?”

“Đúng thế, chỉ có điều cậu học sinh kia không dùng đến ngăn tủ và chưa bao giờ đòi tớ đưa chìa khóa. Thế nên tớ đã giữ nó, mặc dù bản thân tớ cũng không dùng đến ngăn tủ ấy nhiều lắm, cho đến khi, vài tuần trước khi mất tích, Vinca hỏi mượn nó.”

“Mà không bảo cậu là cô ấy sẽ dùng nó để cất tiền sao?”

“Đương nhiên! Câu chuyện về ngăn tủ này đã hoàn toàn ra khỏi đầu óc tớ. Ngay cả khi Vinca đã mất tích, tớ cũng không hề liên hệ chuyện đó với tình tiết ấy.”

“Dù sao cũng thật khó hiểu khi người ta không bao giờ tìm ra dấu vết của cô gái này.”

2.

Đang tựa vào một bức tường nhỏ bằng đá ong, Maxime bước vài bước để đến bên tôi sưởi nắng. Đến lượt cậu ta nhắc lại đoạn điệp khúc mà chính tôi đã được hưởng nhiều lần kể từ sáng nay.

“Chúng ra chưa bao giờ thực sự biết Vinca là ai.”

“Có chứ, chúng ta biết rõ về cô ấy. Cô ấy là bạn của chúng ta.”

“Chúng ta quen biết nhưng không hiểu rõ về cô ấy,” cậu ta tiếp tục nhấn mạnh.

“Chính xác thì cậu đang nghĩ đến điều gì?”

“Tất cả đều chứng tỏ rằng cô ấy yêu Alexis Clément: những bức thư mà cậu đã tìm thấy, những bức ảnh ra thấy họ ở cùng nhau… Cậu còn nhớ bức ảnh chụp ở vũ hội cuối năm trong đó cô ấy nhìn như muốn ngấu nghiến gã bằng mắt không?”

“Thế thì sao?”

“Thì sao ư? Tại sao vài hôm sau cô ấy lại khẳng định rằng gã đó đã cưỡng hiếp cô ấy?”

“Cậu cho rằng tớ đã nói dối cậu sao?”

“Không, nhưng…”

“Qua đây cậu muốn nói đến chuyện gì?”

“Thế nếu Vinca vẫn còn sống thì sao? Thế nếu chính cô ấy là người gửi những thông điệp đó cho chúng ta thì sao?”

“Tớ cũng đã nghĩ đến chuyện đó, tôi thừa nhận. Nhưng vì lý do gì chứ?”

“Để trả thù. Bởi vì chúng ta đã giết gã trai mà cô ấy yêu.”

Tôi mất bình tĩnh. “Mẹ kiếp, cô ấy sợ gã, Maxime ạ! Tớ thề với cậu như thế. Cô ấy đã nói với tớ. Thậm chí đó còn là điều cuối cùng cô ấy nói với tớ. Chính Alexis đã ép tớ. Tớ không muốn ngủ với ông ấy!”

“Có thể cô ấy đã kể linh tinh. Hồi đó, cô ấy thường hơi ngáo đá. Cô ấy dùng thuốc gây ảo giác và tất cả những thứ chết tiệt mà cô ấy vớ được.”

Tôi chấm dứt cuộc tranh cãi. “Không, thậm chí cô ấy còn nhắc lại câu ấy với tớ. Gã đó là một kẻ hiếp dâm.”

Khuôn mặt Maxime sầm lại. Trong một lúc, ánh mắt cậu ta mông lung ngắm nhìn mặt hồ, rồi quay trở lại phía tôi.

“Cậu vẫn luôn khẳng định với tớ rằng hồi đó cô ấy có thai?”

“Đúng thế, đó chính là điều cô ấy nói với tớ, còn có bằng chứng nữa.”

“Nếu chuyện đó là đúng và nếu cô ấy đã sinh con, thì hiện nay con cô ấy đã hai mươi lăm tuổi rồi. Có thể có một đứa con trai hoặc một đứa con gái muốn trả thù cho cái chết của cha mình.”

Ý tưởng đó đã lướt qua tâm trí tôi. Đó cũng là một khả năng, nhưng tôi thấy nó có vẻ tiểu thuyết hơn là thực tế. Một cú lật ngược tình thế hơi cũ kỹ trong tiểu thuyết trinh thám. Tôi đáp lại Maxime như thế nhưng cậu ta có vẻ không hoàn toàn bị thuyết phục. Rồi tôi quyết định đề cập đến chủ đề mà tôi thấy có vẻ quan trọng nhất đối với những giờ sắp tới.

“Còn một chuyện khác nữa mà tớ phải nói với cậu, Max ạ. Đầu năm 2016, khi trở về quảng bá cho cuốn sách mới của mình, tớ đã vặc nhau với một sĩ quan tại khu vực nhập cảnh ở sân bay Roissy. Gã khốn ấy đã thích thú sỉ nhục một người đàn ông chuyển giới bằng cách gọi người đó là quý ông. Vụ việc đã đi khá xa, tớ bị tạm giữ trong vòng vài giờ đồng hồ và…”

“Họ đã lấy dấu vân tay của cậu!” Maxime phỏng đoán.

“Đúng thế, tớ có hồ sơ lưu. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không có thời gian để xoay xở. Ngay khi họ phát hiện ra cái xác và thanh sắt, nếu còn lại dù chỉ một dấu vân tay, tên tớ cũng sẽ bị lộ và họ sẽ đến bắt rồi hỏi cung tớ.”

“Chuyện đó thì có thay đổi được gì?”

Tôi thổ lộ với cậu ta quyết định tôi đã đưa ra khi ở trên máy bay đêm trước. “Tớ sẽ không để dây dưa đến cậu. Cả cậu lẫn bố cậu. Tớ sẽ nhận hết về mình. Tớ sẽ bảo rằng tớ đã giết Clément một mình, và đã nhờ Ahmed giúp tớ làm cho cái xác biến mất.”

“Người ta sẽ không bao giờ tin cậu. Với lại, tại sao cậu lại làm thế? Tại sao cậu phải hy sinh bản thân?”

“Tớ không có con, không có vợ, không có cuộc đời. Tớ chẳng có gì để mất cả.”

“Không, chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì hết!” cậu ta vừa tuyên bố vừa chớp chớp mắt.

Đôi mí mắt cậu ta nổi rõ quầng thâm và khuôn mặt bơ phờ như thể đã hai ngày nay cậu ta không ngủ. Không những không có tác dụng xoa dịu, đề xuất của tôi còn khiến cậu ta căng thẳng hơn. Sau khi ra sức vặn hỏi, tôi đã hiểu nguyên do.

“Cảnh sát đã biết điều gì đó, Thomas ạ. Tớ tin chắc như thế. Cậu sẽ không thể gỡ tội cho tớ. Tối qua, tớ nhận được một cuộc gọi từ sở cảnh sát Antibes. Đích thân cảnh sát trưởng, Vincent Debruyne, anh ta…”

“Debruyne? Cùng họ với cựu công tố?”

“Ờ, anh ta là con trai ông ấy.”

Đó hoàn toàn không phải là một tin tốt lành. Vào những năm 1990, chính phủ Jospin đã bổ nhiệm Yvan Debruyne làm công tố viên Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng Nice, với tham vọng rõ ràng là muốn lật tung đường dây lợi ích ở vùng Côte d’Azur. Yvan khủng khiếp, như ông ta thích được gọi bằng biệt danh ấy, đã trống dong cờ mở đến vùng bờ biển này, chẳng khác nào một hiệp sĩ trắng. Ông ta đã ở lại đây hơn mười lăm năm, chiến đấu chống lại các mạng lưới của Hội Tam Điểm và nạn tham nhũng của các dân biểu. Viên quan vừa mới về hưu, mang lại cảm giác nhẹ nhõm cho một số người. Thẳng thắn mà nói, trong vùng này, nhiều người ghét Debruyne và khuynh hướng Dalla Chiesa(1) ở ông ta, nhưng ngay cả những kẻ chỉ trích Debruyne cũng phải thừa nhận ông ta là một hình mẫu nhất định của sự kiên quyết. Nếu con trai ông ta thừa hưởng những phẩm chất này thì chúng tôi đang bị bám theo bởi một cảnh sát xảo quyệt, căm thù các dân biểu và tất cả những ai ít nhiều có điểm giống với một người có địa vị.

“Chính xác thì Debruyne đã nói gì với cậu?”

“Anh ta yêu cầu tớ đến gặp khẩn cấp, bởi vì anh ta có một số điều cần hỏi. Tớ đã trả lời là chiều nay tớ sẽ qua.”

“Lúc nào đi được thì cậu đi ngay đi, để chúng ta biết mình phải làm gì.”

“Tớ sợ lắm,” Maxime thú nhận với tôi.

Tôi đặt bàn tay lên vai cậu ta và dồn toàn bộ niềm tin trong mình, cố gắng trấn an cậu bạn.

“Đây không phải một vụ triệu tập theo đúng quy chuẩn. Có thể Debruyne chỉ tung đòn gió thôi. Chắc chắn là anh ra đang thu thập thông tin. Nếu biết được điều gì cụ thể, anh ta sẽ không làm theo cách này đâu.”

Nỗi căng thẳng rịn ra thành từng giọt qua toàn bộ lỗ chân lông trên da cậu ta. Maxime cởi thêm một chiếc cúc trên áo sơ mi, và lau mồ hôi nhỏ giọt trên trán.

“Tớ không thể nào chịu nổi cảnh phải sống với thanh gươm Damoclès treo trên đầu như thế này nữa. Có lẽ nếu chúng ta kể hết với…”

“Không đâu, Max! Hãy cố gắng chịu đựng, ít nhất là trong hai ngày cuối tuần. Tớ biết việc này không dễ dàng, nhưng người ra đang tìm cách khiến chúng ta sợ hãi và bất ổn. Đừng rơi vào cái bẫy ấy.”

Maxime hít một hơi thật sâu, rồi sau khi thực sự nỗ lực, cậu ta có vẻ đã lấy lại được bình tĩnh.

“Hãy để tớ điều tra từ phía tớ. Mọi chuyện xảy ra dồn dập, cậu thấy đấy. Hãy để tớ có thời gian tìm hiểu chuyện gì đã xảy đến với Vinca.”

“Được rồi,” cậu ta chấp thuận. “Tớ sẽ ghé qua văn phòng cảnh sát. Tớ sẽ thông tin cho cậu.”

Tôi nhìn theo cậu bạn bước xuống các bậc thang trên vách đá rồi đi theo con đường ngoằn ngoèo giữa những khoảnh ruộng trồng oải hương. Khi đi xa, vóc dáng Maxime nhỏ dần rồi trở nên mờ mịt trước khi mất hẳn, bị nuốt chửng vào tấm thảm màu tím hoa cà.

3.

Trước khi rời khuôn viên trường, tôi dừng lại trước Agora, tòa nhà bằng kính có hình chiếc đĩa lót kết nối với thư viện lịch sử. (Có lẽ không ai ở Saint-Ex dùng cái tên chính thức là Trung tâm Tư liệu và Thông tin để gọi một nơi đầy tính biểu tượng như thế này.)

Tiếng chuông buổi trưa vừa vang lên, giải phóng phần lớn sinh viên. Bây giờ phải có thẻ mới được vào các phòng đọc, tôi tự giải thoát mình khỏi ràng buộc đó bằng cách nhảy qua cửa kiểm soát – một hành động bắt chước những gì tôi từng nhìn thấy bọn du đãng, đám sinh viên cháy túi hoặc các tổng thống vẫn làm ở bến tàu điện ngầm Paris.

Khi đến gần quầy mượn sách, tôi nhận ra Eline Bookmans, người từng được mọi người ở đây gọi là Zélie. Vốn gốc Hà Lan, người phụ nữ mọt sách khá tự phụ này luôn có nhận định chắc chắn và ít nhiều có căn cứ về mọi chuyện. Lần cuối cùng gặp tôi, bà là một phụ nữ trạc tuổi bốn mươi hơi kiểu cách biết tận dụng vóc dáng vận động viên của bản thân. Theo tuổi tác, nữ thủ thư này bây giờ giống với một bà già Bôhêmiêng: cặp kính tròn, khuôn mặt vuông, cằm hai ngấn, búi tóc màu xám, chiếc áo chun phồng cổ cánh sen.

“Chào cô Zélie.”

Ngoài việc cai quản thư viện, trong nhiều năm bà còn phụ trách việc lên chương trình chiếu phim cho khu học xá, hoạt động của đài truyền thanh trường cũng như của Sophia Shakespeare Company, cái tên thùng rỗng kêu to dùng để chỉ câu lạc bộ kịch của trường, nơi mẹ tôi đầu tư thời gian khi bà còn quản lý các lớp dự bị.

“Chào cậu, anh chàng cạo giấy,” bà lên tiếng chào tôi như thể chúng tôi vừa nói chuyện với nhau hôm qua.

Bà là một phụ nữ mà tôi luôn cảm thấy khó hiểu. Tôi ngờ rằng bà từng là nhân tình của cha tôi trong một thời gian ngắn, nhưng trong ký ức của tôi, mẹ tôi có vẻ quý mến bà. Trong thời gian tôi học ở Saint-Ex, phần lớn học sinh đều rất ngưỡng mộ bà – chỗ này Zélie, chỗ kia Zélie – lần lượt coi bà như một người để thổ lộ tâm sự, một nhân viên bảo trợ xã hội, một người khai mở nhận chức. Còn Zélie – cái tên gọi tắt mà tôi thấy thật nực cười – lại thích thú và lạm dụng vị trí đó. Mạnh mẽ với những kẻ yếu đuối, yếu đuối với những kẻ mạnh mẽ, bà áp dụng thái độ đó, dành sự quan tâm thái quá cho một số học sinh – thường là những học sinh có điều kiện thuận lợi hoặc vô cùng hướng ngoại – và không đếm xỉa gì đến những học sinh khác. Tôi nhớ rằng bà rất ngưỡng mộ anh trai và chị gái tôi, nhưng dường như chưa bao giờ quan tâm để ý chút nào đến tôi. Thật là trùng hợp: sự thiếu thiện cảm ấy xuất phát từ cả hai phía.

“Điều gì đưa cậu đến đây thế, Thomas?”

Kể từ lần cuối cùng nói chuyện với bà cho đến ngày hôm nay, tôi đã viết được cả chục cuốn tiểu thuyết, được dịch ra hai chục thứ tiếng và bán ra hàng triệu bản trên khắp thế giới. Đối với một nữ thủ thư đã từng chứng kiến tôi lớn lên, điều đó hẳn phải có chút ý nghĩa gì đó. Điều tôi chờ đợi không hẳn là một lời khen, nhưng ít ra cũng là một dấu hiệu quan tâm. Nhưng nó không bao giờ xuất hiện.

“Cháu muốn mượn một cuốn sách,” tôi trả lời.

“Trước hết, tôi sẽ kiểm tra xem thẻ của cậu còn hạn không,” bà tuyên bố đáp lại câu nói của tôi.

Đẩy trò đùa đi xa hơn chút nữa, bà bắt đầu tìm kiếm trong các dữ liệu lưu trữ trên máy tính một tấm thẻ thư viện giả định nào đó đã có từ hai mươi lăm năm trước.

“Đây rồi, tôi tìm thấy rồi! Đúng như tôi tự nhủ, còn hai cuốn sách mà cậu chưa từng trả cho tôi: Sự phân biệt của Pierre Bourdieu, cũng như Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản của Max Weber.”

“Cô đang đùa đấy à?”

“Đúng thế, tôi đùa đấy. Cho tôi biết cậu đang tìm thứ gì.”

“Cuốn sách do Stéphane Pianelli viết.”

“Cậu ta đã tham gia viết một Giáo trình nghề phóng viên xuất bản tại…”

“Không phải cuốn đó, cuốn điều tra của cậu ta về vụ Vinca Rockwell, Cô gái và thần Chết cơ.”

Bà gõ nhan đề cuốn sách vào máy tính.

“Cuốn đó thì chúng tôi không còn nữa.”

“Sao lại thế?”

“Cuốn đó xuất bản năm 2002, ở một nhà xuất bản nhỏ. Sách đã bán hết và sau đó không được tái bản nữa.”

Tôi bình thản nhìn bà.

“Có đang trêu cháu đúng không, Zélie?”

Bà tỏ vẻ bực bội và xoay màn hình máy tính về phía tôi. Tôi liếc mắt nhìn và nhận thấy rằng cuốn sách không nằm trong danh mục.

“Chuyện này thật vô lý. Pianelli là một học sinh cũ của trường. Hồi ấy, chắc chắn mọi người phải mua nhiều bản sách của anh ta.”

Bà nhún vai.

“Hy vọng cậu không nghĩ rằng chúng tôi mua nhiều bản sách của cậu.”

“Cô hãy trả lời câu hỏi của cháu đi, xin cô!”

Hơi ngượng nghịu, bà vặn vẹo người trong chiếc áo thun quá rộng và gỡ cặp kính mắt.

“Mới đây, ban giám đốc đã ra quyết định thu hồi toàn bộ sách này của Stéphane trong thư viện.”

“Vì lý do gì?”

“Bởi vì, hai mươi lăm năm sau khi mất tích, cô gái này đã trở thành đối tượng của một trào lưu sùng bái ở một số học sinh hiện tại trong trường.”

“Cô gái này? Cô đang nói về Vinca sao?”

Zélie gật đầu.

“Từ ba bốn năm nay, chúng tôi nhận thấy rằng cuốn sách của Stéphane được mượn thường xuyên. Chúng tôi có nhiều bản ở đây, nhưng danh sách chờ mượn vẫn dài bằng cả cánh tay tôi. Hình ảnh Vinca thường xuyên trở đi trở lại trong các câu chuyện của đám học sinh. Năm ngoái, thậm chí nhóm Heterodites còn dựng một vở diễn về cô ấy.”

“Nhóm Heterodites?”

“Đó là một nhóm những cô gái trẻ giỏi giang xuất chúng, bảo vệ nữ quyền. Một kiểu hội nữ sinh lặp lại những luận điểm của một nhóm nữ quyền ở New York hồi đầu thế kỷ 20. Một vài người trong số họ sống ở tòa Nicolas-de-Staël và đã xăm lên người biểu tượng mà Vinca từng xăm ở mắt cá chân.”

Tôi còn nhớ hình xăm đó. Những chữ cái GRL PWR được kín đáo xăm trên da cô. Girl Power. Quyền lực cho nữ giới. Vừa tiếp tục giải thích, Zélie vừa mở một tài liệu trên máy tính. Đó là tấm áp phích của một vở nhạc kịch: Những ngày cuối cùng của Vinca Rockwell. Tấm áp phích khiến tôi nghĩ đến bìa một album của Belle & Sebastian: bức ảnh đen trắng, bộ lọc màu hồng nhạt, cách sắp chữ sang trọng và đầy nghệ thuật.

“Chúng tôi cũng chứng kiến những buổi dạ tiệc trong căn phòng Vinca từng ở, việc sùng bái bệnh hoạn đối với một số di vật cũng như việc kỷ niệm ngày mất tích của cô ấy.”

“Cô giải thích thế nào về việc các học sinh thế hệ 2000 say sưa Vinca?”

Zélie ngước mắt nhìn lên trần nhà.

“Tôi hình dung là một số nữ sinh đã tự gắn mình với cô ấy, với câu chuyện tình lãng mạn giữa cô ấy và Clément. Cô ấy là biểu tượng cho một thứ lý tưởng sai lầm về tự do. Và việc cô ấy mất tích vào năm mười chín tuổi đã khiến cô ấy trở nên bất biến trong ánh chói lòa của vĩnh hằng.”

Vừa trò chuyện, Zélie vừa rời khỏi ghế để xem xét các giá sách bằng kim loại vươn dài dọc theo quầy đón tiếp. Cuối cùng, bà quay lại cùng với tác phẩm của Pianelli.

“Tôi còn giữ một cuốn đây. Nếu cậu muốn xem qua.” Bà thở dài.

Tôi lướt lòng bàn tay lên bìa cuốn sách.

“Cháu không thể tin được là đến năm 2017 rồi mà mọi người vẫn còn kiểm duyệt một cuốn sách.”

“Việc này là vì muốn tốt cho các học sinh.”

“Hẳn là cô đang nói đùa! Kiểm duyệt ở Saint-Exupéry: vào thời cha mẹ cháu quản lý không có chuyện như thế này.”

Zélie chăm chăm nhìn tôi một lát, rất bình thản, rồi thẳng thừng tuyên bố:

“Thời cha mẹ cậu quản lý đã kết thúc không được tốt đẹp cho lắm, nếu tôi nhớ không nhầm.”

Tôi cảm thấy cơn giận dữ dồn lên trong các mạch máu, nhưng vẫn giữ được bề ngoài bình tĩnh.

“Cô đang nhắc đến chuyện gì vậy?”

“Chẳng nhắc đến chuyện gì cả,” Zélie cẩn trọng đáp.

Tất nhiên, tôi biết bà đang ám chỉ điều gì. Quyền lực của cha mẹ tôi đối với trường trung học Saint-Ex đã đột ngột chấm dứt vào năm 1998, theo một cách rất bất công, khi cả hai người họ đều bị đưa ra xem xét trong một vụ việc mờ ám về không tuân thủ các nguyên tắc đấu thầu.

Đó là minh họa hoàn hảo cho khái niệm nạn nhân liên đới. Yvan Debruyne, công tố viên hồi đó (và là cha của viên cảnh sát sắp sửa hỏi cung Maxime), nung nấu trong đầu ý định lật đổ một số dân biểu trong vùng, những người bị ông ta nghi ngờ là đã nhận tiền hối lộ, đặc biệt là từ Francis Biancardini. Đã từ lâu, vị thẩm phán chĩa ống ngắm đến nhà thầu này. Dù phần lớn các lời đồn về Francis thật vô lý – đôi khi người ta khẳng định rằng ông rửa tiền cho giới xã hội đen Calabria – thì một số khác lại có vẻ có căn cứ hơn. Chắc hẳn ông đã lót tay cho một số chính khách để có được các gói thầu. Vậy là trong lúc tìm cách hạ bệ Francis, vị thẩm phán đã nhìn thấy tên cha mẹ tôi xuất hiện trong một hồ sơ. Francis đã thực hiện nhiều công trình trong trường mà không hoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc mời thầu. Trong khuôn khổ vụ điều tra, mẹ tôi đã bị tạm giữ hai mươi bốn giờ, ngồi trên một chiếc ghế đẩu trong đồn Auvare bẩn thỉu, một đồn cảnh sát ở Tây Bắc Nice. Ngày hôm sau, một bức ảnh chụp cha mẹ tôi đã xuất hiện trên trang nhất tờ báo địa phương. Kiểu dựng ảnh đen trắng hẳn không hề lạc lõng giữa cả loạt hình chụp các cặp đôi giết người hàng loạt. Đâu đó giữa cặp tình nhân khát máu ở Utah và những gã tá điền giết người ở Kentucky.

Bị chấn động bởi thử thách mà họ không hề được chuẩn bị trước này, cả hai người đã từ chức khỏi ngành giáo dục.

Mặc dù hồi ấy tôi không còn sống ở Côte d’Azur, vụ việc đó vẫn ảnh hưởng đến tôi. Cha mẹ tôi cũng có những khuyết điểm, nhưng họ không phải những kẻ bất lương. Họ luôn làm nghề vì lợi ích của học sinh, và không đáng phải chịu cái kết cục nhục nhã khiến người ta nghi ngờ tất cả những gì họ đã làm được như thế. Một năm rưỡi sau khi vụ điều tra bắt đầu, hồ sơ đã được thừa nhận là trắng, và kết thúc bằng việc miễn tố. Nhưng điều tồi tệ đã xảy ra. Đến tận ngày hôm nay, những kẻ u mê hoặc những nhân vật quỷ quyệt như Eline Zélie Bookmans vẫn có thể khuấy lại vũng nước đục ấy, chỉ bằng một câu nói vòng vo mà không tỏ vẻ gì là đả động đến chuyện đó.

Tôi nhìn bà bằng ánh mắt thách thức cho đến khi bà cụp mắt xuống bàn phím máy tính. Mặc dù bà đã cao tuổi và có khuôn mặt của một người bà dễ tính, tôi vẫn sẵn lòng đập nát mặt bà bằng cái bàn phím đó. (Nói cho cùng, tôi chính là một tên tội phạm thực sự.) Nhưng tôi không làm gì hết. Tôi nuốt cơn giận, dành sức lực để tiến thêm trong vụ điều tra.

“Cháu mượn mang đi được không?” tôi vừa hỏi vừa chỉ vào cuốn sách của Pianelli.

“Không.”

“Cháu sẽ mang trả cho cô trước thứ Hai, cháu hứa đấy.”

“Không,” Zélie đáp lại, không chút xiêu lòng. “Nó thuộc về nhà trường.”

Không đếm xỉa đến lời nhận xét của bà, tôi kẹp cuốn sách vào nách rồi vừa xoay gót vừa tuyên bố: “Cháu tin là cô nhầm rồi. Hãy kiểm tra lại trong cơ sở dữ liệu xem. Cô sẽ thấy là cuốn sách không hề có trong danh mục!”

Tôi ra khỏi thư viện và đi vòng qua Agora. Đến lượt mình, tôi đi theo con đường tắt cắt ngang cánh đồng để rời khỏi khuôn viên trường học. Năm nay hoa oải hương nở đặc biệt sớm, nhưng mùi hương đồng nội ấy không ăn khớp với các kỷ niệm của tôi, như thể có điều gì đó đã bị sai lệch. Mùi long não và kim loại theo gió xộc đến tận mũi tôi, khiến tôi choáng váng như ngửi thấy mùi máu.

Chú Thích:

Tướng Dalla Chiesa, thị trưởng Palermo và là chiến binh chống lại Mafia, bị ám sát sau khi được bổ nhiệm vài tháng, cùng với vợ và vệ sĩ của ông. Lino Ventura đã đảm nhiệm vai diễn về ông trong bộ phim Một trăm ngày ở Palermo. (Chú thích của tác giả).