← Quay lại trang sách

Chương 4 Cánh cửa của nỗi bất hạnh

Thế rồi, tôi bắn thêm bốn phát lên một thân xác bất động […].

Và đó như là bốn tiếng gõ cộc lốc lên cánh cửa của nỗi bất hạnh.

Albert CAMUS

1.

Hai mươi lăm năm trước

Thứ Bảy, ngày 19/12/1992

Tuyết rơi suốt từ lúc trời vừa sáng. Thời tiết xấu vừa bất thường vừa khó dự báo lại càng gây thêm lộn xộn cho một ngày trong kỳ nghỉ Giáng sinh như thế này. Một cảnh đại náo, như ở đây người ta thường nói. Trên vùng bờ biển Côte d’Azur, thường thì chỉ một lớp bông tuyết trắng nhẹ nhàng cũng đủ làm tê liệt mọi hoạt động. Nhưng lần này thì không phải vài bông tuyết, mà là một cơn bão thực sự. Một cơn bão chưa từng có, kể từ tháng Một năm 1985 và tháng Hai năm 1986. Người ta thông báo tuyết dày mười lăm xăng-ti-mét ở Ajaccio, mười xăng-ti-mét ở Antibes và tám xăng-ti-mét ở Nice. Các máy bay cất cánh theo kiểu nhỏ giọt, phần lớn các chuyến tàu bị hủy và đường xá thì rất khó đi. Đấy là còn chưa nói đến những lần cắt điện không hề đúng lúc khiến cuộc sống tại địa phương trở nên hết sức lộn xộn.

Qua cửa sổ phòng mình, tôi ngắm nhìn khu học xá như đóng khung trong cái lạnh. Quang cảnh thật siêu thực. Tuyết đã xóa nhòa vùng truông, để thay thế vào đó là một khoảng trắng rộng mênh mông. Những cây ô liu và cam quýt oằn mình dưới tuyết chẳng khác nào được phủ một lớp đường kính màn tuyết vậy. Còn những cây thông lọng thì trông như vừa được chuyển vào trồng trong những cảnh bài trí xốp mịn như bông của một câu chuyện cổ Andersen.

May mắn là đa số học sinh nội trú đã rời khỏi trường từ tối hôm trước. Theo truyền thống, kỳ nghỉ lễ Giáng sinh là giai đoạn vắng vẻ duy nhất trong năm ở trường Saint-Ex. Trong khuôn viên khu học xá chỉ còn vài học sinh nội trú hiếm hoi đã đề nghị được hưởng một ngoại lệ để tiếp tục ở lại phòng trong kỳ nghỉ. Đó là những học sinh thuộc các lớp dự bị đang nhắm đến những kỳ thi chọn lọc gắt gao, cũng như ba bốn giáo viên sinh sống tại trường, những người đã bị lỡ máy bay hoặc chuyến tàu sáng vì cơn bão tuyết.

Đã nửa giờ đồng hồ tôi ngồi trước bàn học, ánh mắt tắt lịm, tuyệt vọng dán chặt vào một đề toán đại số.

Bài tập 1

Cho hai số thực a và b sao cho 0 < a < b. Đặt u0 = a và v0 = b, với mọi số tự nhiên n,

u n + 1 = u n + v n 2

v n + 1 = u n + 1 v n

Hãy chứng minh rằng các dãy số (un) và (vn) tiếp cận nhau và có cùng giới hạn là

b sin ( arccos ( a b ) ) arccos ( a b )

Tôi sắp tròn mười chín tuổi. Tôi đang học lớp dự bị khoa học. Từ ngày khai giảng hồi tháng Chín, tôi sống trong cảnh địa ngục, với cảm giác mình lúc nào cũng ở dưới nước, và thường chỉ ngủ khoảng bốn tiếng đồng hồ mỗi đêm. Nhịp học của lớp dự bị khiến tôi mệt nhoài và mất tinh thần. Trong lớp tôi, trên tổng số bốn mươi học sinh, mười lăm đứa đã bỏ ngang. Tôi cố gắng bấu víu để bám trụ, nhưng chỉ càng phí công vô ích. Tôi ghét cả toán lẫn vật lý, thế nhưng vì lựa chọn nghề nghiệp của mình, tôi đành phải cống hiến cho hai bộ môn này phần lớn thời gian trong ngày. Ấy thế nhưng mối quan tâm của tôi lại chỉ xoay quanh nghệ thuật và văn chương, trong tâm trí cha mẹ tôi con đường thành đạt – con đường mà anh trai và chị gái tôi đã theo – bắt buộc phải đi qua một trường đào tạo kỹ sư hoặc bác sĩ.

Nhưng dù lớp dự bị khiến tôi đau khổ, nó cũng không hề là nguyên nhân duy nhất làm tôi day dứt. Điều thực sự đang giết chết tôi, điều đang thiêu rụi trái tim tôi thành tro bụi, chính là sự thờ ơ của một cô gái.

2.

Từ sáng đến tối, Vinca Rockwell án ngữ trong ý nghĩ của tôi. Chúng tôi quen nhau đã hơn hai năm. Từ khi ông nội cô, Alastair Rockwell, quyết định gửi cô đến học ở Pháp để tránh xa Boston sau cái chết của cha mẹ cô. Đó là một cô gái đặc biệt, có học thức, sống động và linh lợi, mái tóc đỏ hung, đôi mắt hai màu và nét mặt thanh tú. Vinca không phải cô gái xinh đẹp nhất trường Saint-Ex, nhưng cô tỏa ra một trường hấp dẫn và ẩn chứa một điều bí mật nào đó khiến ta bị nghiện ngay trước cả khi làm ta phát điên. Thứ không thể định nghĩa đó làm bám rễ trong đầu ta cái suy nghĩ hão huyền rằng nếu có thể sở hữu Vinca thì ta sẽ sở hữu được cả thế giới.

Trong suốt một thời kỳ dài, chúng tôi rất hợp nhau và là đôi bạn không thể tách rời. Tôi đã đưa cô đi khám phá tất cả những địa điểm mà tôi yêu thích trong vùng – những khu vườn ở Menton, Biệt thự Kérylos, công viên của Quỹ Maeght, những con phố nhỏ ở Tourrettes-sur-Loup… Chúng tôi lang thang khắp nơi và có thể trò chuyện với nhau suốt nhiều giờ liền. Chúng tôi đã hì hục leo via ferrata(1) La Colmiane, ngấu nghiến món bánh socca trong chợ đặc sản Provence ở Antibes, xây dựng lại thế giới trước tòa tháp Genova trên bãi biển Ondes.

Chúng tôi đọc được ý nghĩ của nhau, theo đúng nghĩa đen của từ này, và sự đồng cảm đó không ngừng khiến tôi ngây ngất. Vinca là người mà tôi đã cất công chờ đợi mỏi mòn từ khi đến tuổi biết chờ đợi một ai đó.

Trong ký ức xa xôi nhất mà tôi còn nhớ, tôi vẫn luôn cảm thấy mình cô độc, có đôi chút xa lạ với thế giới, với âm thanh của nó, với sự tầm thường của nó, thứ tẩm nhiễm vào ta như một căn bệnh truyền nhiễm. Có lúc, tôi tự huyễn hoặc mình rằng những cuốn sách có thể chữa trị cho tôi khỏi cảm giác bị bỏ rơi và hững hờ đó, nhưng ta không nên đòi hỏi quá nhiều ở những cuốn sách. Chúng kể với ta những câu chuyện, chúng khiến ta sống bằng cách ủy quyền cho ta sống chung cùng những mẩu đời, nhưng chúng không bao giờ choàng tay ôm lấy ta để an ủi mỗi khi ta sợ hãi.

Đồng thời với việc chiếu rọi những ánh sao vào cuộc đời tôi, Vinca đã thổi vào đó một nỗi lo lắng: nỗi lo mất cô. Và đó đúng là điều vừa mới xảy ra.

Từ ngày khai giảng năm học mới – cô học lớp dự bị văn còn tôi học lớp toán cao cấp – chúng tôi gần như không còn cơ hội gặp nhau. Và nhất là tôi có cảm giác Vinca đang lẩn tránh tôi. Cô không còn trả lời những cuộc gọi cũng như những lời nhắn mà tôi viết cho cô, và tất cả những lần tôi rủ cô đi chơi đều rơi vào im lặng chết chóc. Các bạn học cùng lớp có cảnh báo với tôi rằng Vinca đã bị cuốn hút bởi Alexis Clément, giáo viên triết học trẻ tuổi dạy các lớp dự bị văn. Thậm chí còn có tin đồn khẳng định rằng câu chuyện bông lơn của họ đã đi quá đà và họ đang duy trì quan hệ yêu đương. Lúc đầu, tôi không chịu tin vào lời đồn đó, nhưng bây giờ tôi đang bị giày vò trong cơn ghen tuông, và nhất thiết phải biết được mình đang đối mặt với chuyện gì.

3.

Mười ngày trước, vào một chiều thứ Tư, trong lúc các học sinh lớp dự bị văn đang làm bài thi thử, tôi đã tận dụng một tiếng đồng hồ được nghỉ để đến thăm Pavel Fabianski, ông bảo vệ của trường. Pavel rất quý tôi. Tôi đến thăm ông hằng tuần, biếu ông tờ France Football sau khi đã đọc xong. Ngày hôm đó, trong lúc ông đi tìm một lon soda trong tủ lạnh để cảm ơn tôi, tôi đã xoáy chùm chìa khóa cho phép xâm nhập phòng ở của các học sinh.

Có được chùm chìa khóa vạn năng đó rồi, tôi lao vội về phía tòa Nicolas-de-Staël, tòa nhà màu xanh da trời nơi Vinca sống, và cẩn thận lục lọi phòng của cô.

Tôi biết, yêu một người không có nghĩa là ta có đủ mọi thứ quyền. Tôi biết, tôi là một gã khốn kiếp và các vị muốn gán cho tôi bất kỳ danh xưng nào khác cũng được. Nhưng, cũng giống như phần lớn những người đang trải qua mối tình đầu, tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có được tình cảm sâu sắc đến thế với bất kỳ ai khác. Và về điểm này, đáng buồn thay, tương lai sẽ khẳng định là tôi đã đúng.

Một tình tiết giảm nhẹ khác là tôi tin mình hiểu về tình yêu bởi đã đọc các tiểu thuyết. Trong khi trên thực tế, chỉ có những cú đập vào mặt mới thực sự dạy cho ta hiểu về cuộc đời. Vào tháng Mười hai năm 1992 ấy, tôi đã rời bỏ những bến bờ của tình cảm yêu đương đơn thuần từ lâu, để trôi dạt đến lãnh thổ của dục vọng. Và dục vọng thì chẳng liên quan gì đến tình yêu. Dục vọng là một vùng đất vô chủ (no man’s land), một vùng chiến sự đầy bom đạn, nằm đâu đó giữa đau đớn, điên cuồng và chết chóc.

Trong khi đang tìm kiếm những bằng chứng về mối quan hệ giữa Vinca và Alexis Clément, tôi lật giở lần lượt những cuốn sách trên giá sách nhỏ của cô bạn gái. Kẹp giữa các trang một cuốn tiểu thuyết của Henry James, hai tờ giấy gập tư rơi xuống sàn. Tôi nhặt chúng lên, hai bàn tay run rẩy, và bị mùi của chúng làm cho sửng sốt: một thứ mùi pha trộn giữa những cấp độ dai dẳng, lẫn lộn giữa tươi mát, nồng mùi gỗ và mùi gia vị. Tôi giở hai tờ giấy ra. Đó là những bức thư của Clément. Tôi đang tìm bằng chứng, và vừa tìm thấy những bằng chứng không thể chối cãi.

Ngày 5 tháng Mười hai

Vinca, tình yêu của tôi,

Tối qua, em đã dành cho tôi một điều ngạc nhiên tuyệt diệu biết bao, khi chấp nhận mọi rủi ro để đến qua đêm cùng tôi! Khi nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của em lúc mở cửa nhà, tôi tưởng mình sắp tan chảy vì hạnh phúc.

Tình yêu của tôi, vài giờ đó là những thời khắc mãnh liệt nhất trong suốt cuộc đời tôi. Suốt cả đêm, tim tôi đập rộn, vùng riêng tư của tôi hòa làm một với miệng em, máu tôi bốc cháy trong huyết mạch.

Sáng nay, khi thức dậy, tôi vẫn cảm thấy vị i-ốt từ những nụ hôn của em trên da tôi. Ga giường vẫn còn lưu mùi va ni của cơ thể em, nhưng em không còn ở đây nữa. Tôi những muốn khóc vì điều đó. Tôi muốn được thức dậy trong vòng tay em, tôi muốn tiếp tục được ăn sâu vào thân thể em, cảm nhận hơi thở em trong hơi thở của tôi, đoán biết ham muốn mãnh liệt nơi em trong giọng nói của em. Tôi muốn rằng một lần nữa, không phần da thịt nào trên người tôi thoát khỏi sự dịu dàng của lưỡi em.

Tôi những muốn mình không bao giờ phải tỉnh. Mà luôn được say khướt vì em, vì những nụ hôn của em, vì những vuốt ve của em.

Tôi yêu em.

Alexis

Ngày 8 tháng Mười hai

Vinca yêu dấu của tôi,

Mỗi giây trong ngày hôm nay, toàn bộ suy nghĩ của tôi đều nằm trong vòng cương tỏa của một mình em. Ngày hôm nay, tôi đã giả vờ làm mọi chuyện: giảng bài, tranh luận với các đồng nghiệp, quan tâm đến vở diễn do các học sinh trình bày… Tôi giả vờ, nhưng tâm trí tôi hoàn toàn bị xâm chiếm bởi những kỷ niệm ngọt ngào và nóng bỏng về đêm qua của chúng ta.

Đến trưa, tôi không thể nào chịu nổi nữa. Giữa hai lần đổi lớp, tôi cần phải ra hàng hiên phòng nghỉ giáo viên để hút một điếu thuốc, và chính ở đó tôi đã nhìn thấy em từ xa, em ngồi trên một chiếc ghế dài, đang trò chuyện với bạn bè em. Khi nhìn thấy tôi, em đã kín đáo ra dấu với tôi, cử chỉ đó đã sưởi ấm con tim tội nghiệp của tôi. Mỗi lần tôi nhìn em, cả người tôi run lên và thế giới xung quanh em tan chảy. Có một lúc, bất chấp việc phải cẩn trọng, tôi đã suýt bước về phía em và ôm em trong vòng tay để tình yêu trong tôi bùng nổ trước mắt tất cả mọi người. Nhưng chúng ta vẫn phải giữ bí mật riêng của chúng ta thêm một thời gian nữa. May mắn làm sao, ngày giải thoát sắp đến rồi. Chẳng mấy nữa, chúng ta sẽ có thể phá vỡ xiềng xích và tìm được tự do. Vinca, em đã xóa tan mọi tăm tối quanh tôi, để giúp tôi tìm lại niềm tin vào một tương lai đầy ánh sáng. Tình yêu của tôi ơi, mỗi nụ hôn của tôi đều là vĩnh cửu. Mỗi lần lưỡi tôi lướt qua em, nó đánh dấu làn da em bằng dấu sắt nung của tình yêu và vẽ nên ranh giới của một vùng lãnh thổ mới. Một miền đất tự do, màu mỡ và xanh ngắt, nơi đó chúng ta sắp dựng nên gia đình của riêng chúng ta. Con chúng ta sẽ gắn bó định mệnh của chúng ta mãi mãi. Con sẽ có nụ cười thiên thần và đôi đồng tử màu bạc của em.

Tôi yêu em.

Alexis

4.

Việc phát hiện ra những bức thư này đã hạ gục tôi hoàn toàn. Tôi không ăn, không ngủ nữa. Tôi tan nát, bị nhấn chìm trong nỗi đau đớn khiến tôi phát điên. Điểm số của tôi rơi tự do khiến các thầy cô và gia đình tôi lo lắng. Trước những lời tra hỏi của mẹ, tôi không thể làm cách nào khác ngoài việc kể cho mẹ nghe những gì đang đè nặng trong lòng. Tôi kể cho bà nghe về những tình cảm tôi dành cho Vinca, và về những bức thư mà tôi đã tìm thấy. Bà lạnh nhạt trả lời tôi rằng không có đứa con gái nào xứng đáng để tôi phải bỏ bê việc học hành vì cô ta, và ra lệnh cho tôi phải gượng dậy càng sớm càng tốt.

Tôi có linh tính sẽ không bao giờ thực sự thoát khỏi cái vực thẳm mình đã rơi vào. Cho dù còn lâu tôi mới đủ khả năng hình dung ra cơn ác mộng đích thực đang chờ đợi mình.

Nói thật lòng, tôi hiểu Vinca cảm thấy bị Clément cuốn hút. Năm ngoái, thầy giáo đó đã dạy tôi hồi lớp mười hai. Tôi vẫn luôn thấy anh ta là người hời hợt, nhưng phải thừa nhận rằng anh ta biết cách gây ảo tưởng. Ở lứa tuổi ấy trong đời tôi, cuộc chiến là không công bằng. Ở bên phải là Alexis Clément, hai mươi bảy tuổi, đẹp trai như một ngôi sao, xếp hạng 15 bộ môn quần vợt, lái một chiếc Alpine A310 và trích dẫn Schopenhauer không sai một chữ. Ở bên trái là Thomas Degalais, mười tám tuổi, đang chật vật với môn toán cao cấp, mỗi tuần được nhận bảy mươi franc tiền tiêu vặt do mẹ trợ cấp, lái một chiếc xe mobylette 103 Peugeot (thậm chí động cơ còn chưa bổ) và dành phần lớn thời gian rảnh rỗi ít ỏi để chơi trò Kick Off trên chiếc máy vi tính Atari ST cũ kỹ.

Tôi chưa từng cho rằng Vinca thuộc về tôi. Nhưng Vinca được sinh ra vì tôi cũng như tôi sinh ra là vì cô. Tôi chắc chắn mình là người phù hợp, dù chưa hẳn đã đúng thời điểm. Tôi linh cảm rằng sẽ đến một ngày tôi trả thù được những gã như Alexis Clément, dù còn phải mất thêm rất nhiều năm nữa để mọi chuyện thay đổi. Trong lúc chờ cái ngày ấy đến, trong đầu tôi lướt qua những hình ảnh cô bạn mình đang ngủ với gã thầy giáo ấy. Và đó là điều tôi không thể chịu đựng nổi.

Khi điện thoại reo vang vào chiều hôm ấy, tôi đang ở nhà một mình. Hôm trước đó, ngày chính thức bắt đầu kỳ nghỉ, cha tôi đã đi Papeete cùng anh trai và chị gái tôi. Ông bà nội tôi sống ở Tahiti từ khoảng chục năm nay, và cứ cách một năm chúng tôi lại nghỉ Giáng sinh ở đó một lần. Năm nay, kết quả học tập bí bét đã khiến tôi từ bỏ chuyến du lịch. Còn mẹ tôi, bà đã quyết định dành kỳ nghỉ cuối năm ở vùng Landes, tại nhà người chị gái là bác Giovana, người đang chật vật hồi phục sau một ca mổ khó khăn. Bà dự kiến khởi hành vào ngày mai, và lúc này, chính bà là người trực ở vị trí quản lý trường học, và đang cầm lái con tàu bị cuốn vào cơn bão.

Từ sáng nay, điện thoại không ngừng reo vì những vụ tuyết lở. Ở Sophia Antipolis, vào thời kỳ ấy, không nên trông chờ vào xe phá băng hoặc xe gạt tuyết để dọn dẹp đường. Nửa tiếng trước, mẹ tôi đã bị gọi thông báo về thảm họa. Một chiếc xe tải chở hàng đã trượt ngang con đường phủ băng và chắn mất lối vào trường, ở đoạn ngang phòng bảo vệ. Trong nỗi tuyệt vọng, mẹ tôi đã nhờ đến sự giúp đỡ của Francis Biancardini, bố của Maxime, ông đã hứa sẽ làm hết khả năng để đến đây thật nhanh.

Tôi vừa nhấc ống nghe vừa nghĩ đến một sự cố khẩn cấp không biết lần thứ bao nhiêu liên quan đến thời tiết hoặc cuộc gọi của Maxime để hủy hẹn với tôi. Vào chiều thứ Bảy, chúng tôi có thói quen gặp nhau để chơi bi lắc ở quán Dino, xem những băng phim VHS dài tập, trao đổi các đĩa CD, ngồi vắt vẻo trên xe máy của mình đằng trước quán McDo, trên bãi đỗ xe của siêu thị Antibes trước khi trở về xem các bàn thắng của giải vô địch quốc gia Pháp trong bản tin Ngày bóng đá.

“Đến đây, Thomas, làm ơn đi!”

Tim tôi thắt lại trong lồng ngực. Không phải giọng Maxime. Chính là giọng Vinca, hơi nghẹn lại. Trong khi tôi tưởng cô đã về nghỉ với gia đình ở Boston, thì cô giải thích với tôi rằng cô vẫn ở Saint-Ex, rằng cô thấy mình không được khỏe và muốn gặp tôi.

Tôi nhận thức rõ ràng rằng toàn bộ cách hành xử của mình đều có chút gì đó đáng thương, nhưng mỗi lần Vinca gọi cho tôi, mỗi lần cô nói chuyện với tôi, tôi lại lấy lại niềm hy vọng và lao bổ đến. Tất nhiên là cả lần này tôi cũng làm thế, vừa lao đến vừa nguyền rủa bản thân vì đã yếu đuối và không biết tự ái, vừa tiếc nuối vì tinh thần không đủ mạnh mẽ để tỏ ra hờ hững với cô.

5.

Theo dự báo, trời sẽ ấm lên vào cuối chiều, nhưng đó là điều vẫn phải chờ đợi. Cái lạnh cắt da cắt thịt, được tăng cường thêm bởi những trận gió mistral thốc lồng lộng, quật tung những bông tuyết. Trong lúc vội vàng, tôi đã quên xỏ chân vào đôi bốt hoặc đôi giày ấm đi sau lúc trượt tuyết, và đôi giày thể thao Air Max của tôi sục vào lớp tuyết. Quấn kín người trong chiếc áo choàng lót lông, tôi dấn bước, cúi gập người đi ngược gió, chẳng khác nào một gã Jeremiah Johnson đang đuổi theo một con gấu xám ma quỷ. Mặc dù tôi đi vội, và mấy tòa nhà khu ký túc chỉ cách khu nhà công vụ của cha mẹ tôi chừng trăm mét, tôi vẫn mất gần mười phút mới đến được tòa Nicolas-de-Staël. Trong cơn bão, tòa nhà đã mất đi màu xanh nhạt, chỉ còn là một khối xám xịt đầy ma mị bị nuốt gọn trong lớp sương mù lấp lánh ánh xà cừ.

Tiền sảnh vừa vắng lặng vừa giá buốt. Thậm chí người ta đã đóng cả những cánh cửa trượt dẫn vào phòng sinh hoạt chung của các nữ sinh. Tôi phủi lớp tuyết bám trên giày và leo bốn bậc một lên cầu thang. Đứng ở hành lang, tôi gõ nhiều lần vào cánh cửa phòng Vinca. Vì không nghe thấy tiếng trả lời, tôi đẩy cánh cửa và bước vào một căn phòng được chiếu sáng thơm mùi va ni và cánh kiến trắng, thứ mùi đặc trưng của giấy Arménie(3).

Hai mắt nhắm nghiền, Vinca đang nằm ở cuối giường. Mái tóc dài màu hung đỏ gần như biến mất hoàn toàn bên dưới một tấm nệm lông sáng rực lên trong ánh phản chiếu màu trắng sữa của bầu trời đầy tuyết. Tôi lại gần cô, lướt tay qua má rồi đặt lên trán cô. Vầng trán nóng rực. Không mở mắt, Vinca thì thầm vài từ trong cơn nửa tỉnh nửa mê. Tôi quyết định để cho cô ngủ và đưa mắt nhìn vào phòng tắm, tìm kiếm một vỉ thuốc hạ sốt. Tủ thuốc cá nhân đầy những loại thuốc liều nặng, thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc giảm đau, nhưng tôi không tìm thấy paracetamol.

Tôi trở ra ngoài để sang gỗ cửa căn phòng cuối cùng dãy hành lang. Khuôn mặt Fanny Brahimi hiện ra ở ngưỡng cửa. Tôi biết mình có thể tin tưởng cô bạn này. Mặc dù không còn gặp nhau nhiều từ ngày khai giảng, cả hai đều chúi mũi vào việc học hành, nhưng Fanny vẫn là một người bạn trung thành.

“Chào Thomas,” cô vừa nói vừa gỡ cặp kính đang đeo trên sống mũi.

Cô mặc một chiếc quần jean rách, đi đôi giày Converse cũ và mặc chiếc áo len chui đầu bằng vải lông dê angora cỡ XL. Vẻ duyên dáng và ánh sáng của đôi mắt cô gần như bị dập tắt bởi lớp chì than viền quanh mắt. Kiểu trang điểm ăn nhập với album nhạc của The Cure đang quay trên máy hát.

“Chào Fanny, tôi cần cậu giúp một tay.”

Tôi giải thích tình hình với Fanny và hỏi cô có paracetamol không. Trong lúc cô đi tìm thuốc, tôi bật bếp ga trong căn phòng nhỏ để đun nước.

“Tôi tìm thấy Doliprane cho cậu đây,” cô vừa nói vừa lại gần tôi.

“Cảm ơn. Cậu pha cho cô ấy cốc trà được không?”

“Được, tôi sẽ cho thật nhiều đường để cô ấy không bị mất nước quá nhiều. Để tôi lo chuyện đó.”

Tôi quay vào phòng Vinca. Cô mở mắt rồi nhổm dậy, tựa người vào gối.

“Uống cái này đi,” tôi vừa nói vừa đưa cho cô hai viên thuốc. “Người cậu nóng như lò than rồi.”

Cô không mê sảng, nhưng ốm nặng. Khi tôi hỏi tại sao cô lại gọi cho tôi, Vinca òa khóc nức nở. Mặc dù đang sốt, mặc dù khuôn mặt nhàu nhĩ và nhòe nhoẹt nước mắt, cô vẫn giữ được sức quyến rũ khó tin và tỏa ra một vầng hào quang không thể giải thích nổi, thanh khiết, như trong cõi mộng. Giọng nói thanh khiết và lảnh lót của cô nghe chẳng khác nào tiếng célesta trong một khúc nhạc dân ca hồi những năm 1970.

“Thomas…,” cô lúng búng.

“Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

“Tớ là một con quái vật.”

“Vớ vẩn. Mà tại sao cậu lại nói thế?”

Cô nghiêng người về phía chiếc bàn đầu giường và vớ lấy thứ gì đó mà lúc đầu tôi tưởng là một chiếc bút, trước khi nhận ra rằng đó là que thử thai.

“Tớ có thai rồi.”

Khi nhìn thấy cái vạch ngang nhỏ xíu cho thấy kết quả thử thai là dương tính, tôi nhớ đến vài đoạn trong bức thư của Alexis, những đoạn đã khiến tôi choáng váng khi đọc được: Chúng ta sẽ sớm xây dựng gia đình của riêng chúng ta. Con chúng ta sẽ gắn kết định mệnh chúng ta mãi mãi. Con sẽ có nụ cười thiên thần và đôi đồng tử màu bạc của em.

“Cậu phải giúp tớ, Thomas ạ.”

Tôi choáng váng đến nỗi không thể hiểu nổi cô có thể trông chờ sự giúp đỡ nào từ tôi.

“Tớ không muốn, cậu biết đấy… Tớ không muốn,” cô lúng búng.

Trong lúc tôi ngồi xuống cạnh cô, cô tiết lộ với tôi một điều, giữa hai cơn nức nở, “Không phải lỗi của tớ! Chính Alexis đã ép tớ.”

Sững sờ, tôi yêu cầu cô nhắc lại, và cô nói rõ:

“Chính Alexis đã ép tớ. Tớ không muốn ngủ với ông ấy!”

Cô đã nói chính xác như thế. Từng chữ một. Tớ không muốn ngủ với ông ấy. Gã Alexis Clément khốn kiếp đó đã ép cô phải làm những điều mà cô không muốn.

Tôi đứng dậy khỏi giường, quyết tâm hành động.

“Tớ sẽ thu xếp mọi chuyện,” tôi vừa đảm bảo vừa bước ra phía cửa. “Tớ sẽ quay lại gặp cậu sau.”

Rồi tôi đi ra, va phải Fanny khi cô bê khay trà bước vào.

Tôi còn chưa biết điều này, nhưng có hai điều dối trá trong câu nói vừa rồi của tôi. Trước hết, tôi sẽ chẳng thu xếp được chuyện gì, mà hoàn toàn ngược lại. Thứ hai, tôi sẽ không quay trở lại gặp Vinca. Hoặc đúng hơn, khi tôi quay trở lại, cô đã biến mất mãi mãi.

6.

Bên ngoài, tuyết đã ngừng rơi, nhưng những đám mây màu xám vẫn phủ tối không gian. Bầu trời sà xuống thấp, đè nặng, báo trước màn đêm chẳng mấy chốc sẽ sập xuống.

Tôi đã trải qua những cảm xúc đầy mâu thuẫn. Khi ra khỏi phòng Vinca, tôi điên cuồng giận dữ trước tiết lộ của Vinca, nhưng đầy quyết tâm. Đột nhiên, mọi chuyện trở nên sáng tỏ: Alexis là một kẻ bịp bợm và cưỡng hiếp phụ nữ. Tôi vẫn là người quan trọng đối với Vinca, và chính tôi là người cô đã gọi đến để xin giúp đỡ.

Tòa nhà nơi các giáo viên sống cách đó không xa. Alexis Clément có mẹ là người Đức và bố là người Pháp. Gã tốt nghiệp Đại học Hambourg và được tuyển dụng làm việc ở Saint-Ex dưới dạng hợp đồng ký với địa phương. Với tư cách là giáo viên nội trú, gã được phân một chỗ ở công vụ nằm trong một tòa nhà nhỏ bên bờ hồ.

Để đến đó, tôi đi tắt ngang công trường xây nhà thể chất. Những sàn bê tông, móng nhà, những máy trộn bê tông, những bức tường gạch gần như biến mất, bị che kín bởi một lớp tuyết dày vẫn còn trắng tinh.

Tôi dành toàn bộ thời gian để tìm kiếm vũ khí, và cuối cùng chọn ra một thanh sắt bị đám công nhân vứt lại trên chiếc xe cút kít để cạnh một đống cát. Tôi sẽ không thể khẳng định hành động của mình không có chủ ý từ trước. Có điều gì đó đã thức dậy trong tôi. Sự hung bạo nguyên sơ, bắt nguồn từ thời tổ tiên, đang kích động tôi. Một trạng thái mà tôi chỉ biết đến một lần duy nhất trong đời.

Đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ cái cảm giác ngây ngất ấy, cái cảm giác vừa lạnh giá vừa nóng bỏng, thuần chất và mặn mòi, đã khiến tôi tê liệt như bị điện giật. Lúc ấy, tôi không còn là gã sinh viên ì ạch thở dài trước đề toán phải làm. Tôi đã trở thành một chiến binh, một quân nhân đang ra trận mà không chút run sợ.

Khi rốt cuộc tôi đến được đằng trước tòa nhà của giáo viên, trời đã gần tối. Đằng xa, trên mặt nước hồ tăm tối, bầu trời run rẩy trong những ánh phản chiếu bàng bạc.

Trong ngày – kể cả vào dịp cuối tuần – ta có thể tiếp cận sảnh vào tòa nhà mà không cần bấm chuông, cũng không cần có chìa khóa. Chẳng khác gì hình ảnh khu nội trú của học sinh, tòa nhà này lạnh lẽo, im ắng và không sức sống. Tôi leo lên cầu thang bằng bước chân quả quyết. Tôi biết gã giáo viên triết học đang ở trong phòng, bởi vì mới sáng nay tôi còn nghe thấy mẹ tôi trả lời gã qua điện thoại, khi gã gọi bà để báo tin chuyến bay đi Munich đã bị hủy vì lý do thời tiết xấu.

Tôi gõ vào cánh cửa mà ở phía sau vang lên tiếng đài phát thanh. Alexis Clément mở cửa cho tôi, không chút đề phòng.

“A, chào Thomas!”

Gã trông giống vận động viên quần vợt Cédric Pỉoline: một gã cao lớn có mái tóc nâu loăn xoăn để dài xuống đến tận gáy. Gã cao hơn tôi đến hơn mười xăng-ti-mét, và vạm vỡ hơn rất nhiều, nhưng ngay lúc này, gã không khiến tôi sợ hãi chút nào.

“Em thấy thời tiết rồi đấy!” gã than vãn. “Thế mà tôi đã dự kiến sẽ đi trượt tuyết ở Berchtesgaden. Tôi dám chắc là ở đó còn ít tuyết hơn ở đây!”

Căn phòng ấm sực. Một cái túi du lịch lớn để gần cửa ra vào. Từ dàn hi-fi liền khối vang lên giọng nói ngọt lịm như mật: ‘Chương trình Tưởng tượng hôm nay đến đây là kết thúc, nhưng hãy ở lại cùng Âm nhạc Pháp với Alain Gerber và dàn nhạc Jazz…’

Vừa mời tôi vào phòng xong, Clément bỗng nhìn thấy thanh sắt trên tay tôi.

“Em đang làm…,” gã vừa cất tiếng vừa trợn tròn hai mắt.

Không phải là lúc để suy nghĩ, cũng không phải lúc để tranh luận.

Cú đánh đầu tiên cứ thế vung lên, như thể có ai đó đã vung gậy thay tôi. Thanh sắt đập vào giữa ngực gã giáo viên, khiến gã loạng choạng và nghẹt thở. Cú đánh thứ hai làm đầu gối gã vỡ tung, khiến gã kêu rống lên.

“Tại sao mày lại cưỡng ép cô ấy, đồ khốn kiếp!”

Alexis Clément cố bấu víu vào quầy bar ngăn cách không gian sinh hoạt chính với khu bếp nhỏ, nhưng gã ngã nhào và kéo quầy bar đổ sập. Một chồng đĩa và một chai San Pellegrino vỡ tan trên sàn nhưng không ngăn được đà ra đòn của tôi.

Tôi đã mất hết khả năng tự chủ. Gã giáo viên đã ngã xuống đất, nhưng tôi vẫn tiếp tục quật thanh sắt xuống, không cho gã nghỉ ngơi chút nào. Tôi quật một cách bài bản, dưới sự thao túng của một sức mạnh vượt qua cả bản thân tôi. Những cú đá tiếp nối những cú quật. Trong đầu tôi, những hình ảnh gã khốn kiếp này đang tấn công Vinca càng tiếp thêm lửa cho cơn điên giận. Tôi không còn nhìn thấy Clément nữa. Tôi không còn thuộc về chính mình nữa. Tôi ý thức được rằng mình đang phạm một sai lầm không thể sửa chữa, nhưng không cách nào ngăn bản thân lại được. Bị cầm tù trong một thứ bánh răng định mệnh, tôi trở thành con rối trong tay một đấng tạo hóa ưa hủy diệt.

Mình không phải kẻ sát nhân.

Giọng nói đó vang lên trong đầu tôi. Yếu ớt. Hé mở một lối thoát. Tiếng gọi cuối cùng trước khi tôi đi đến điểm không thể quay lại. Tôi đột ngột buông rơi thanh sắt và cứng đờ người.

Clément lợi dụng thời khắc lưỡng lự đó của tôi. Thu hết sức lực, gã túm lấy cẳng chân tôi, và do đế giày của tôi trơn trượt, gã khiến tôi mất thăng bằng. Đến lượt tôi nằm sõng soài trên sàn nhà. Gã giáo viên đã bị đánh bầm dập, nhưng chỉ trong chớp mắt gã đã đè lên người tôi, chuyển từ vị thế con mồi sang vị thế của kẻ tấn công. Gã đè lên tôi bằng toàn bộ sức nặng và hai đầu gối hắn siết chặt lấy tôi chẳng khác nào một gọng kìm, làm tê liệt mọi cử động của tôi.

Tôi mở miệng để hét lên, nhưng Clément vừa tóm được một miếng mảnh chai. Bất lực, tôi nhìn gã giơ tay lên để đâm mảnh thủy tinh dài nhọn đó xuống người tôi. Rồi thời gian như tan rã, và tôi cảm thấy sự sống đang chạy trốn khỏi tôi. Đó là một trong những giây đồng hồ khiến ta có cảm giác kéo dài nhiều phút liền. Một trong những giây đồng hồ xô đổ nhiều cuộc đời.

Thế rồi đột nhiên, mọi chuyện bỗng tăng tốc. Một luồng máu đỏ nâu ấm sực vọt ra và phun khắp mặt tôi. Thân người Clément đổ sập xuống và tôi nhân dịp đó để rút cánh tay ra rồi lau mắt. Khi mở được mắt ra, ánh mắt tôi mờ mịt, nhưng bên trên khối thân hình sẫm màu của gã thầy giáo, tôi nhận ra vóc dáng lờ mờ và nhòe nhoẹt của Maxime. Mái tóc sáng màu, bộ quần áo thể dục hiệu Challenger, chiếc áo bu-dông Teddy bằng len xám pha da đỏ của cậu ta.

7.

Maxime chỉ cần một cú đâm. Một hành động nhanh chóng, một lưỡi dao sáng loáng, không dài hơn một con dao rọc giấy, nhìn bề ngoài tưởng như chỉ sượt qua tĩnh mạch cảnh của Alexis Clément.

“Phải gọi đội cứu hộ!” tôi vừa đứng dậy vừa hét lên.

Nhưng tôi biết rõ là đã quá muộn. Clément đã chết. Còn tôi, khắp người đầy những máu. Trên mặt, trên tóc, trên chiếc áo chui đầu, trên đôi giày. Thậm chí cả ở môi và đầu lưỡi.

Trong một lát, Maxime cũng giống như tôi: bần thần, kiệt quệ, chân tay rã rời. Không thể thốt ra bất cứ lời nào.

Người chúng tôi sẽ phải gọi không phải là đội cứu hộ cũng không phải xe cứu thương. Mà là cảnh sát.

“Chờ đã! Có thể bố tớ vẫn còn ở đó!” Maxime hét lên sau khi choàng tỉnh khỏi cơn đờ đẫn.

“Ở đâu?”

“Gần phòng bảo vệ!”

Maxime rời khỏi phòng của Clément và tôi nghe thấy cậu ta chạy lao xuống cầu thang, bỏ tôi lại với cái xác của gã đàn ông mà chúng tôi vừa giết chết.

Tôi đã ở lại đó một mình bao lâu? Năm phút? Mười lăm phút? Bị bao bọc trong lớp vỏ của sự im lặng, một lần nữa tôi lại có cảm giác thời gian ngừng lại. Để khỏi phải nhìn vào cái xác, tôi nhớ mình đã đứng dí mũi vào cửa sổ. Bề mặt run rẩy của hồ nước lúc này đã chìm sâu trong bóng tối, như thể ai đó đã bấm một công tắc để tắt nó đi. Tôi cố bấu víu tâm trí mình vào điều gì đó, nhưng lại chìm trong ánh phản chiếu của lớp tuyết.

Màu trắng như vực thẳm của tuyết khiến tôi nghĩ đến việc cuộc đời chúng tôi từ đây trở đi rồi sẽ ra sao. Bởi vì tôi biết rằng sự cân bằng của cuộc đời chúng tôi vừa bị cắt đứt vĩnh viễn. Đây không phải một trang đời mà ta có thể lật qua, cũng không phải đoạn kết của một thời kỳ. Mà chính là ngọn lửa địa ngục đột ngột mở ra dưới lớp tuyết.

Đột nhiên, có tiếng động trong cầu thang và cánh cửa đóng sập lại. Được hộ tống bởi cậu con trai và người phụ trách công trường, Francis Biancardini bước vào phòng. Viên cai thầu xây dựng vẫn trung thành với phong cách của mình: mái tóc muối tiêu rối tung, áo choàng da lót lông lấm tấm những giọt sơn, thân trên hơi khòng, bị giam hãm trong đống kí lô thừa thãi.

“Cháu có ổn không, hả nhóc?” ông vừa hỏi vừa tìm kiếm ánh mắt tôi.

Tôi không đủ sức trả lời ông.

Vóc dáng đồ sộ nặng nề của ông khiến ta có cảm giác chỉ mình ông cũng đủ lấp đầy cả căn phòng, nhưng bước đi uyển chuyển và quyết đoán của ông lại đối lập hoàn toàn với vẻ bề ngoài nặng nề ấy.

Francis đứng sững ngay giữa phòng và bình tĩnh đánh giá tình hình. Khuôn mặt kín bưng của ông không để lộ bất cứ cảm xúc nào. Như thể ông vẫn luôn biết rằng ngày này rồi sẽ đến. Như thể đây không phải lần đầu tiên ông phải đối mặt với loại thảm kịch này.

“Kể từ bây giờ, ta sẽ kiểm soát mọi việc,” ông vừa tuyên bố vừa lần lượt nhìn Maxime và tôi.

Tôi tin rằng chính khi nghe thấy giọng nói của ông, bình tĩnh và chắc nịch, tôi đã hiểu rõ ràng rằng chiếc mặt nạ của một lão già gia trưởng thô lỗ mà Francis Biancardini trưng ra với công chúng không hề tương ứng với con người thật sự của ông. Trong những thời khắc tối tăm ấy, người đàn ông đứng trước mặt tôi khiến tôi nghĩ đến một trùm băng đảng không biết chùn bước. Tôi có cảm giác Francis giống như một kiểu Bố già, nhưng nếu có bất cứ cơ may nào dù là nhỏ nhất để ông đưa chúng tôi thoát khỏi tình cảnh này thì tôi sẵn sàng trung thành với ông.

“Chúng ta sẽ dọn dẹp chỗ này,” ông vừa nói vừa quay sang phía Ahmed, người phụ trách công trường. “Nhưng trước hết, anh hãy đi lấy mấy tấm bạt trong chiếc xe tải nhỏ.”

Người đàn ông Tunisie tái mét mặt, ánh mắt hốt hoảng. Trước khi thực hiện, ông ta không thể ngăn mình đặt một câu hỏi:

“Kế hoạch là gì, thưa ông chủ?”

“Chúng ta sẽ nhét hắn vào bức tường,” Francis vừa trả lời vừa chỉ vào cái xác bằng một cái hất cằm.

“Bức tường nào?” Ahmed hỏi.

“Bức tường nhà thể chất.”

Chú Thích:

Con đường sắt – tiếng Ý trong nguyên bản, dùng để chỉ những chặng leo núi mạo hiểm, dùng dây và đinh.

Loại giấy thấm có tẩm cánh kiến trắng, đốt lên sẽ tỏa mùi thơm.