← Quay lại trang sách

GÃ TRAI KHÁC BIỆT Chương 7 Trên đường phố Antibes

Cuốn sách này có thể là một tiểu thuyết trinh thám, nhưng tôi thì không phải cảnh sát

Jesse KELLERMAN

1.

Khi đến Antibes, tôi đậu xe ở bãi đỗ xe của bến cảng Vauban, như vẫn quen làm trước đây. Đó là nơi neo đậu của một số chiếc du thuyền đẹp nhất thế giới. Chính ở đây, hồi tháng Bảy năm 1990 – khi sắp tròn mười sáu tuổi – tôi đã có công việc làm thêm hè đầu tiên. Một công việc ngớ ngẩn là nhấc thanh barie của bãi đỗ xe sau khi nẫng của các du khách ba mươi franc để cho phép họ đỗ xe dưới cái nắng như thiêu như đốt. Đó là mùa hè khi tôi đọc Bên phía nhà Swann – khổ sách bỏ túi, có bìa in hình giáo đường Rouen do Claude Monet vẽ – và khi tôi mơ hồ đem lòng yêu một cô nàng người Paris có mái tóc vàng gợn sóng kiểu đầu vuông, có cái tên xinh đẹp là Bérénice. Khi ra bãi biển, cô luôn dừng lại trước chòi canh của bãi đỗ xe để trao đổi vài lời với tôi, mặc dù tôi nhanh chóng hiểu ra rằng cô quan tâm đến ca sĩ Glenn Medeiros và ban nhạc New Kids on the Block hơn là những day dứt của Charles Swann và Odette de Crécy.

Ngày nay, một trạm barie tự động đã thay thế cho những việc làm thêm vào mùa hè. Tôi lấy vé, tìm được một chỗ đỗ gần văn phòng trưởng bến cảng và đi dọc theo bờ kè. Nhiều thứ đã thay đổi trong vòng hai mươi năm nay. Người ta đã vẽ lại toàn bộ lối vào cảng, mở rộng lòng đường, biến một phần lớn trong khu vực thành đường đi bộ. Nhưng quang cảnh vẫn như cũ. Đối với tôi, đây là một trong những cảnh đẹp ngoạn mục nhất Côte d’Azur: ở cận cảnh là màu xanh của biển, vóc dáng đồ sộ khiến ta vững lòng của pháo đài Carré hiện ra đằng sau rừng cột buồm, bầu trời xanh biếc bao trùm tất cả và những đỉnh núi kín đáo ẩn hiện đằng xa.

Hôm nay là ngày có gió mistral, và tôi rất thích. Mọi thứ đều góp phần giúp tôi kết nối lại với quá khứ và một lần nữa ăn sâu bắt rễ với nơi này, nơi tôi từng yêu mến và đã rời bỏ vì những lý do tồi tệ. Tôi không tự vẽ ra những ảo tưởng để huyễn hoặc mình: thành phố không còn là thành phố thời niên thiếu của tôi, nhưng cũng giống như New York, tôi tiếp tục yêu mến ý niệm mà tôi tự tạo cho mình về Antibes. Một thành phố riêng biệt, được giữ gìn tách khỏi vẻ hào nhoáng của một số góc khác ở Côte d’Azur. Thành phố của nhạc jazz, thành phố của những người Mỹ thuộc Thế hệ lạc lối (Lost Generation), thành phố mà tôi đã đưa Vinca đi khám phá, thành phố đã đón nhận, một cách phi thường, phần lớn các nghệ sĩ có vai trò quan trọng trong cuộc đời tôi. Maupassant từng ghi dấu ấn nơi đây với Ông bạn đẹp, Scott Fitzgerald và Zelda từng ngủ ở khách sạn Belles Rives thời kỳ sau chiến tranh, Picasso đã lập xưởng vẽ trong lâu đài Grimaldi, cách căn hộ nơi Nicolas de Staël vẽ những bức tranh đẹp nhất của ông chỉ vài bước chân. Cuối cùng là Keith Jarrett – tác giả nhạc nền cho tất cả các cuốn sách của tôi – vẫn thường xuyên đến biểu diễn trên sân khấu Pinède.

Tôi đi qua bên dưới Cửa biển, đường ranh giới giữa bến cảng và thành cổ đã được gia cố. Hôm nay là một ngày cuối tuần mùa xuân, khá náo động, nhưng làn sóng du khách làm biến đổi bản chất cốt lõi của thành phố còn chưa tràn đến. Trong phố Aubernon, ta có thể thong thả bước đi mà không bị xô đẩy. Ở khu chợ Masséna, những người trồng rau, những người trồng hoa, những thợ làm phô mai và các thợ thủ công địa phương bắt đầu bày biện đồ đạc, những khu chợ có che bạt vẫn nhấp nháy muôn màu. Người ta nói với nhau bằng thổ ngữ, người ta xây dựng lại thế giới trong một bản giao hưởng mùi thơm: ô liu đen, cam quýt dầm, bạc hà, cà chua khô. Trên quảng trường tòa thị chính, người ta đang tổ chức lễ cưới cuối cùng trong buổi sáng. Một cặp đôi rạng rỡ bước xuống cầu thang trong tiếng hoan hô, dưới một cơn mưa cành hoa hồng. Tôi cách xa toàn bộ những sự sang trọng cầu kỳ ấy cả ngàn dặm – ngày nay kết hôn chẳng còn bất cứ ý nghĩa gì đối với tôi – nhưng vẫn để cho tâm hồn mình bị cuốn theo những tiếng hò reo vui sướng và những nụ cười đang tỏa sáng trên các khuôn mặt.

Tôi đi theo con phố Sade chật hẹp – nơi cha tôi từng sống khi ông còn trẻ – ngược xuống phía quảng trường Nationale và lang thang đến tận Michelangelo, một trong những nhà hàng mang tính biểu tượng nhất của thành phố, nơi được mọi người ở đây gọi là Mamo, theo tên ông chủ nhà hàng. Vẫn còn chỗ ngoài hàng hiên. Tôi ngồi vào một bàn và gọi món đặc sản của quán: nước chanh pha với rượu pastis và húng quế.

2.

Tôi chưa bao giờ có bàn làm việc. Kể từ khi phải làm bài tập tiểu học, tôi vẫn luôn thích làm việc trong những không gian mở. Phòng bếp của cha mẹ tôi, phòng học trong các thư viện, các quán cà phê trong khu La tinh. Ở New York, tôi thường viết trong các quán cà phê Starbuck, các quầy bar khách sạn, công viên, nhà hàng. Có vẻ như tôi suy nghĩ tốt hơn trong một môi trường vận động, khi bị cuốn theo dòng trò chuyện và tiếng ầm ì của thành phố. Tôi đặt cuốn sách của Stéphane Pianelli lên bàn, và trong lúc chờ ly rượu khai vị, tôi kiểm tra các tin nhắn trên điện thoại di động. Có một tin nhắn đầy giận dỗi của mẹ tôi, bà không hề bận lòng đến việc dùng các câu rào đón lịch sự, ‘Zélie kể với mẹ là con đã đến dự lễ kỷ niệm năm mươi năm thành lập trường Saint-Exupéry. Con bị làm sao thế, hả Thomas? Thậm chí con còn không báo cho mẹ biết là con đang ở Pháp. Thế nên hãy về nhà ăn tối. Ba mẹ đã mời hai bác Pellegrino. Họ sẽ rất vui được gặp con.’ Tôi trả lời bà bằng một tin nhắn ngắn gọn. ‘Con sẽ gọi cho mẹ sau nhé.’ Tôi tranh thủ dùng điện thoại iPhone để tải ứng dụng đọc Nice Buổi sáng, rồi mua các số báo online từ ngày 9 đến ngày 15 tháng Tư.

Trong lúc đọc lướt qua các số báo, tôi nhanh chóng tìm thấy bài báo mình đang tìm – bài báo do Stéphane Pianelli ký tên, miêu tả việc các học sinh trong trường phát hiện ra một cái túi chứa đầy tiền trong một ngăn tủ không dùng đến. Đọc xong, tôi vẫn không biết thêm được thông tin gì đặc biệt mới mẻ. Và nhất là tôi thất vọng vì không thấy hình ảnh chiếc túi thể thao đó. Bài báo được minh họa bằng một bức ảnh chụp khuôn viên trường từ trên cao, và một bức ảnh khác chụp chiếc tủ đựng đồ han gỉ, nhưng lại nói thêm rằng một số học sinh đã lan truyền các bức ảnh chụp món chiến lợi phẩm đó trên các trang mạng xã hội trước khi cảnh sát yêu cầu họ gỡ bỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra.

Tôi suy nghĩ. Chắc chắn vẫn còn dấu vết của các bức ảnh ở đâu đó, nhưng tôi không đủ giỏi để tìm ngay ra chúng. Trụ sở của tờ Nice Buổi sáng ở Antibes cách đây vài bước chân, trên quảng trường Nationale, bên cạnh bến xe buýt. Sau một hồi lưỡng lự, tôi quyết định gọi thẳng cho anh chàng phóng viên.

“Chào Stéphane, Thomas đây.”

“Cậu không thể bỏ qua tôi được sao, nghệ sĩ?”

“Tôi đang ngồi ở quán Mamo. Nếu cậu ở gần đây, tôi mời cậu qua dùng chung một phần vai cừu.”

“Gọi món đi! Tôi viết xong bài báo rồi đến gặp cậu.”

“Cậu đang viết về cái gì thế?”

“Triển lãm về hưu trí và thời gian rảnh rỗi vừa kết thúc ở Trung tâm hội nghị. Đây không phải là thứ sẽ giúp tôi giành giải Albert-Londres, phải thừa nhận với cậu như vậy.”

Trong lúc chờ Pianelli, tôi vớ lấy cuốn sách của cậu ta, và giống như mỗi lần nhìn thấy nó, tôi dán mắt vào bức ảnh trứ danh được dùng làm bìa. Ảnh Vinca và Alexis Clément trên một sàn nhảy. Bức ảnh được chụp trong dạ hội cuối năm, hồi giữa tháng Mười hai, một tuần trước khi gã giáo viên bị giết còn Vinca thì mất tích. Bức ảnh này vẫn luôn khiến tôi khó chịu. Tươi trẻ và xinh đẹp rạng ngời, Vinca nhìn bạn nhảy của mình như muốn ngấu nghiến gã. Ánh mắt cô chất chứa tình yêu, lòng ngưỡng mộ và mong muốn được làm gã hài lòng. Vũ điệu của họ là một điệu nhẩy twist, đã được nhiếp ảnh gia ghi lại mãi mãi trong một tư thế duyên dáng và đầy gợi cảm. Một cảnh phim Grease(2) được Robert Doisneau dàn dựng lại.

Mà ai là người đã chụp bức ảnh này? Tôi chưa bao giờ tự hỏi mình câu ấy. Một học sinh? Một giáo viên? Tôi tìm chú thích ở đằng sau cuốn sách, nhưng không thấy gì ngoài Nice Buổi sáng giữ toàn bộ bản quyền. Tôi chụp lại bức ảnh bìa bằng điện thoại di động và gửi qua tin nhắn cho Rafael Bartoletti. Rafael là một nhiếp ảnh gia thời trang rất có tiếng sống cùng phố với tôi ở TriBeCa. Nhưng trước hết, đó là một nghệ sĩ thực thụ. Anh có hiểu biết sâu rộng về hình ảnh, nhìn ra toàn bộ các chi tiết và phân tích mọi thứ theo một cách đặc biệt và thường là rất chuẩn xác. Từ nhiều năm nay, chính anh là người thực hiện toàn bộ ảnh quảng cáo của tôi cũng như những bức ảnh mà mọi người nhìn thấy trên bìa bốn các cuốn sách. Tôi yêu thích công việc của anh, bởi vì lần nào anh cũng tìm được trong tôi một phần ánh sáng hẳn tôi đã có từ lâu, nhưng nó đã rời bỏ tôi. Các bức chân dung anh chụp thể hiện tôi tốt hơn, sáng chói hơn, ít khắc khoải hơn. Người đàn ông có thể đã là tôi nếu cuộc đời tôi êm ái hơn.

Rafael gọi lại cho tôi ngay lập tức. Anh nói tiếng Pháp với chút âm sắc Ý được nhiều người cho là quyến rũ khó cưỡng.

“Chào (Ciao) Thomas. Tôi đang ở Milan. Chụp ảnh cho chiến dịch Fendi. Người đẹp mà cậu vừa gửi cho tôi là ai thế?”

“Một cô gái mà tôi từng yêu từ rất lâu rồi. Vinca Rockwell.”

“Tôi nhớ rồi, cậu từng kể chuyện đó với tôi.”

“Anh nghĩ gì về bức ảnh?”

“Cậu là người chụp sao?”

“Không.”

“Về mặt kỹ thuật, bức ảnh hơi mờ, nhưng nhiếp ảnh gia đã biết bắt đúng thời điểm. Chỉ có điều đó là quan trọng. Khoảnh khắc quyết định. Cậu biết Cartier-Bresson từng nói gì không: ‘Bức ảnh phải nắm bắt được sự cân bằng cảm xúc trong chuyển động.’ Vậy thì, anh bạn ạ, nhiếp ảnh gia đó đã làm được điều ấy. Anh ta đã chớp được một khoảnh khắc thoáng chốc, và biến nó thành vĩnh cửu.”

“Anh vẫn luôn nói với tôi rằng không có gì lừa dối bằng một bức ảnh.”

“Thì đúng thế!” Rafael thốt lên. “Nhưng có gì là mâu thuẫn đâu.”

Có tiếng nhạc vang lên ở đầu dây đằng kia. Tôi nghe thấy tiếng một phụ nữ đang hối thúc anh chàng nhiếp ảnh gia gác máy.

“Tôi phải đi rồi,” anh cáo lỗi. “Tôi sẽ gọi lại cho cậu.”

Tôi mở sách và bắt đầu đọc lướt qua. Cuốn sách tràn ngập thông tin. Pianelli đã tiếp cận được các báo cáo của cảnh sát. Cậu ta đã đích thân đối chiếu đa số lời chứng mà các điều tra viên lấy được. Tôi từng đọc cuốn sách khi nó được xuất bản, và chính tôi cũng tiến hành điều tra trong những năm sống ở Paris, hỏi han tất cả các nhân chứng khả dĩ mà tôi có thể tưởng tượng ra. Trong vòng hai mươi phút, tôi đã đọc lướt toàn bộ cuốn sách. Kết nối với nhau, toàn bộ ký ức của các nhân chứng khác nhau đều kể cùng một câu chuyện, và theo thời gian, câu chuyện ấy đã trở thành phiên bản chính thức: cặp đôi đã rời khỏi trường Saint-Ex trên chiếc Alpine, cô gái trẻ có mái tóc màu lửa trong chuyến tàu đi về phía Paris, gã giáo viên đi cùng cô, đội chiếc mũ lưỡi trai của một câu lạc bộ bóng đá Đức có cái tên không thể đọc nổi, họ đến khách sạn trên phố Saint-Simon, quý cô nhỏ bé yêu cầu Coca vị Cherry, họ đi qua hành lang rồi biến mất vào sáng ngày hôm sau: ‘Khi đổi ca cho người trực đêm, nhân viên lễ tân đã nhìn thấy chìa khóa phòng trên quầy đón tiếp.’ Cuốn sách đặt ra nhiều câu hỏi và nêu lên một số vùng tối, nhưng không hề cung cấp các yếu tố có sức thuyết phục giúp vạch ra một hướng điều tra thay thế thực sự hợp lý. Tôi có lợi thế hơn so với anh chàng phóng viên: Pianelli chỉ có linh cảm rằng, câu chuyện đó là sai, trong khi bản thân tôi thì biết chắc chắn là như thế. Clément đã chết, gã không phải người đi cùng Vinca trong hai ngày ấy. Cô bạn tôi đã bỏ trốn cùng với một người đàn ông khác. Một bóng ma mà tôi hoài công tìm kiếm suốt hai mươi lăm năm nay.

3.

“Theo như tôi thấy thì cậu đang chìm đắm vào việc đọc những thứ lành mạnh đấy!” Pianelli vừa tuyên bố vừa ngồi xuống trước mặt tôi.

Tôi ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách, vẫn hơi choáng váng sau khi chìm đắm trong những uẩn khúc của quá khứ.

“Cậu có biết rằng tác phẩm của cậu đã bị thư viện trường Saint-Ex đưa vào danh sách đen không?”

Anh chàng phóng viên nhón một quả ô liu đen trong cái cốc nhỏ.

“À ừ, chính vì con cú vọ già Zélie ấy đấy! Nhưng việc đó không ngăn cản những người muốn đọc cuốn sách tìm thấy một bản PDF trên mạng Internet và tha hồ truyền bá nó!”

“Cậu giải thích thế nào về việc các nữ sinh bây giờ hâm mộ Vinca đến thế?”

“Hãy nhìn cô ta xem,” cậu ta vừa nói vừa mở ngẫu nhiên một bức ảnh trong cuốn sách của mình.

Tôi thậm chí còn không nhìn xuống. Không cần ngắm nghía những bức ảnh này, tôi cũng có thể thấy hình ảnh Vinca rõ mồn một. Đôi mắt hình quả hạnh, ánh mắt màu rượu áp xanh, mái tóc chải rối, khuôn miệng như hờn dỗi, điệu bộ nghịch ngợm lúc ngoan ngoãn, lúc khiêu khích.

“Vinca đã xây dựng cho bản thân một hình ảnh rất đặc biệt,” Pianelli tóm lại. “Cô ta là hiện thân của một kiểu người Pháp sang trọng, đâu đó giữa Brigitte Bardot và Laetitia Casta. Và đặc biệt, cô ta là hiện thân của một sự tự do nhất định.”

Anh chàng phóng viên cự rót cho mình một cốc nước rồi buông ra một nhận định:

“Nếu giờ Vinca mới hai mươi tuổi thì cô ta sẽ là một it-girl(4) có đến sáu triệu follower theo dõi trên Instagram.”

Đích thân ông chủ nhà hàng mang món thịt ra và cắt trước mặt chúng tôi. Ăn được vài miếng, Pianelli tiếp tục màn chứng minh.

“Tất cả những chuyện này đều vượt quá con người cô ta, tất nhiên. Tôi không khẳng định mình hiểu rõ cô ta hơn cậu, nhưng thành thực mà nói, đằng sau hình ảnh này, là một cô gái khá tầm thường, không phải thế sao?”

Bởi vì tôi không đáp, cậu ta khiêu khích:

“Cậu lý tưởng hóa cô ta bởi vì cô ta đã bay biến vào năm mười chín tuổi. Nhưng hãy thử hình dung rằng hồi ấy hai người cưới nhau. Cậu có nhìn thấy bức tranh hôm nay không? Có lẽ hai người đã có ba đứa nhóc, cô ta nặng thêm hai chục kí lô, bộ ngực chảy xệ và…”

“Cậu im đi, Stéphane!”

Tôi vừa cao giọng. Cậu ta cải chính, xin lỗi, rồi, trong năm phút tiếp theo, chúng tôi bận rộn giải quyết món vai cừu và xa lát ăn kèm. Cuối cùng, chính tôi là người tiếp tục cuộc trò chuyện.

“Cậu có biết ai đã chụp bức ảnh này không?” tôi vừa hỏi vừa chỉ vào bìa sách.

Pianelli nhíu mày, rồi mặt cậu ta đờ ra như thể vừa bị tôi bắt lỗi.

“À thì…,” đến lượt cậu ta vừa thừa nhận vừa kiểm tra phần bản quyền. “Tôi hình dung là nó vẫn nằm trong tài liệu lưu trữ của tờ báo từ bấy lâu nay.”

“Cậu có thể kiểm tra lại không?”

Cậu ta lấy điện thoại di động tư trong túi áo gi-lê và múa ngón tay gõ một tin nhắn.

“Tôi sẽ liên hệ với Claude Angevin, phóng viên theo vụ này vào năm 1992.”

“Ông ta vẫn làm việc ở báo sao?”

“Cậu đùa chắc, ông ấy đã bảy mươi xuân xanh rồi! Ông ấy đang tận hưởng cuộc sống ở Bồ Đào Nha. Nhân tiện, tại sao cậu muốn biết ai đã chụp bức ảnh này?”

Tôi đánh trống lảng:

“Nhân ta đang nói chuyện về hình ảnh, tôi đọc thấy trong bài báo của cậu là đám trẻ tìm thấy cái túi chứa cả trăm ngàn franc ấy trong ngăn tủ chứa đồ han gỉ đã đăng tải những bức ảnh trên mạng xã hội.”

“Ờ, nhưng cảnh sát đã dọn dẹp xong rồi.”

“Nhưng cậu, cậu đã vớt vát được…”

“Cậu hiểu tôi quá đấy.”

“Cậu có thể gửi chúng cho tôi không?”

Cậu ta tìm những bức ảnh trên điện thoại di động.

“Tôi tưởng cậu không quan tâm đến chuyện này chứ,” cậu ta mỉa mai.

“Tất nhiên là tôi có quan tâm, Stéphane ạ.”

“Email của cậu là gì?”

Trong lúc tôi đọc địa chỉ email của mình cho cậu ta, một điều hiển nhiên đập vào mắt tôi. Tôi không thực sự còn mạng lưới hay mối liên hệ trong vùng này, trong khi Pianelli vẫn sống ở đây từ bấy giờ đến nay. Nếu muốn có cơ may phát hiện điều gì đã xảy đến với Vinca, và ai đang đe dọa chúng tôi, thì tôi chẳng có cách nào khác ngoài kết hợp với anh chàng phóng viên này.

“Hợp tác làm ăn, cậu có quan tâm đến việc đó không, Stéphane?”

“Cậu đang nghĩ đến chuyện gì thế, hả nghệ sĩ?”

“Mỗi người chúng ta sẽ từ phía mình điều tra về vụ Vinca mất tích, và chia sẻ thông tin với nhau.”

Cậu ta lắc đầu.

“Cậu sẽ không bao giờ chơi trò ấy đâu.”

Tôi đã đoán trước câu trả lời của cậu ta. Để thuyết phục Pianelli, tôi quyết định chấp nhận mạo hiểm.

“Để chứng tỏ thiện chí của mình, tôi sẽ tiết lộ với cậu một điều mà không ai biết.”

Tôi cảm thấy toàn bộ thân hình cậu ta căng ra. Tôi biết mình đang bước đi trên một sợi dây, nhưng chẳng phải tôi vẫn luôn có cảm giác đang sống cuộc đời của một người làm xiếc trên dây đó sao?

“Vinca có thai với Alexis vào thời điểm cô ấy mất tích.”

Pianelli nhìn tôi, nửa lo lắng, nửa hoài nghi.

“Mẹ kiếp, làm sao cậu biết được chuyện ấy?”

“Chính Vinca đã nói cho tôi biết. Cô ấy cho tôi xem kết quả thử thai.”

“Tại sao hồi ấy cậu lại không tiết lộ chuyện đó?”

“Bởi vì đó là cuộc sống riêng của cô ấy. Và bởi vì chuyện đó cũng chẳng làm thay đổi chút gì trong cuộc điều tra.”

“Tất nhiên là có chứ, mẹ kiếp!” Pianelli nổi cáu. “Công việc điều tra có thể sẽ khác. Sẽ phải cứu ba mạng người chứ không phải là hai. Vụ án có thể sẽ được truyền thông nhiều hơn nếu có liên quan đến một đứa bé.”

Có lẽ cậu ta nói không sai. Nói thật lòng, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái vạch ngang trên que nhựa ấy như một đứa bé. Hồi ấy tôi mới mười tám tuổi…

Tôi nhìn Pianelli vừa suy nghĩ vừa xoay trở trên ghế. Cậu ta mở cuốn sổ ghi chép rồi hí hoáy ghi vào đó những giả thuyết của mình, và phải một lúc lâu sau mới bình tĩnh trở lại.

“Tại sao cậu quan tâm đến Vinca như thế, nếu cậu thấy cô ấy hết sức tầm thường?”

Pianelli vẫn kiên quyết.

“Tôi không quan tâm đến Vinca. Mà quan tâm đến một hoặc nhiều kẻ đã giết cô ta.”

“Cậu thực sự tin rằng cô ấy đã chết ư?”

“Người ta không thể biến mất theo cách đó. Mới mười chín tuổi, một thân một mình hoặc gần như thế, và không có của cải gì.”

“Thực sự thì giả thuyết của cậu là gì?”

“Từ khi người ta tìm thấy số tiền, tôi tin chắc là Vinca đã tống tiền một ai đó. Một người nào đó hẳn là đã không chịu đựng được việc mình bị đe dọa và đến lượt anh ta trở nên đáng sợ. Có thể là cha của đứa bé. Clément, chắc thế, hoặc một người nào khác…”

Khi cậu ta gập cuốn sổ lại, mấy tấm vé rơi ra từ một bên mép bìa. Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt anh chàng phóng viên.

“Tôi có mấy chỗ ở buổi hòa nhạc của Depeche Mode tối nay!”

“Ở đâu vậy?”

“Ở Nice, công viên thể thao Charles-Ehrmann. Ta cùng đến đó nhé?”

“Chà, tôi không thích nhạc điện tử cho lắm.”

“Nhạc điện tử ư? Rõ ràng là cậu đã không nghe những album mới nhất.”

“Tôi chưa bao giờ để ý.”

Cậu ta nheo mắt để gợi lại những kỷ niệm.

“Vào cuối những năm 1980, trong chuyến lưu diễn 101, Depeche Mode là nhóm nhạc rock vĩ đại nhất thế giới. Năm 1988, tôi đã đi xem họ biểu diễn tại Zénith ở Montpellier. Âm thanh của họ đúng là bom tấn!”

Những vảy tráng kim lấp lánh xung quanh đồng tử cậu ta. Tôi chọc ghẹo, “Vào cuối những năm 1980, Queen mới là nhóm nhạc rock vĩ đại nhất thế giới.”

“Ối chà chà. Cậu lại còn nghiêm túc nữa chứ, đó mới là điều nghiêm trọng nhất! Tệ nhất thì cậu cũng phải nói với tôi là U2, nhưng đằng này…”

Trong suốt nhiều phút, tôi và cậu ta thôi không còn dè chừng nhau nữa. Và trong thời khắc ấy, chúng tôi lại trở về hồi mười bảy tuổi. Stéphane cố thuyết phục tôi rằng Dave Gahan là ca sĩ vĩ đại nhất thế hệ của ông, còn tôi bảo vệ luận điểm cho rằng không có gì đứng trên Bohemian Rhapsody được.

Rồi cơn say sưa chấm dứt, cũng đột ngột như khi nó bắt đầu.

Pianelli nhìn đồng hồ rồi đứng bật dậy.

“Mẹ kiếp, tôi bị muộn rồi. Tôi phải lượn đến Monaco.”

“Để viết bài à?”

“Đúng thế, thử nghiệm giải đua công thức E. Giải vô địch thế giới dành cho xe hơi chạy điện.”

Cậu ta nhặt chiếc túi dết đeo chéo rồi vẫy tay với tôi.

“Chúng ta sẽ gọi cho nhau.”

Còn lại một mình, tôi gọi một cốc cà phê. Tâm trí tôi rối bời, và tôi có cảm giác mình đã thương lượng ván bài này không được tốt lắm. Nói cho cùng, tôi đã cung cấp đạn dược cho anh chàng phóng viên, và đổi lại thì chẳng nhận được gì.

Chết tiệt…

Tôi giơ tay gọi nhân viên tính tiền. Trong lúc chờ biên lai, tôi lấy điện thoại di động để xem qua những bức ảnh mà Stéphane đã gửi cho tôi. Tôi đã bảo cậu ta gửi ảnh để phòng hờ, không trông chờ gì nhiều lắm.

Tôi đã nhầm. Sau vài giây, tay tôi run bắn đến nỗi tôi phải đặt điện thoại xuống bàn.

Chiếc túi bằng da mềm ấy, tôi đã thường xuyên nhìn thấy nó lăn lóc ở nhà tôi.

Cơn ác mộng lại tiếp tục.

Chú Thích:

Một bộ phim nhạc kịch của đạo diễn Randal Kleiser, công chiếu năm 1978.

Từ tiếng Anh để chỉ một người phụ nữ trẻ đẹp, nổi bật nhờ sự xuất hiện liên tục trên các phương tiện truyền thông.