Chương 8 Mùa hè của Đại dương xanh (Le Grand Bleu)
Mọi thứ đều chỉ là kỷ niệm, ngoại trừ thời điểm chúng ta đang sống.
Tennessee WILLIAMS
1.Đằng trước bức tường rào, quảng trường Pré-des-Pêcheurs đông đặc người. Trong bầu không khí của một lễ hội hóa trang, những cỗ xe màu sắc sặc sỡ bắt đầu di chuyển phục vụ cho trận chiến muôn hoa truyền thống. Đám đông chật cứng và tươi vui dồn lại đằng sau những thanh chắn bằng thép: những đứa trẻ đi cùng bố mẹ, những thanh thiếu niên mặc đồ hóa trang, những ông bà già người Antibes đã bỏ mặc sân chơi bi sắt của họ.
Khi tôi còn nhỏ, trận chiến muôn hoa diễu khắp thành phố. Ngày nay, vì lý do đảm bảo an toàn, cứ mười mét lại có một cảnh sát, và những cỗ xe quay vòng trên đại lộ Verdun. Bầu không khí chất chứa một thứ hỗn hợp của niềm vui và sự căng thẳng. Người ta những muốn vui chơi và buông thả, nhưng ký ức về vụ tấn công ngày 14 tháng Bảy tại Nice vẫn còn trong tâm trí tất cả mọi người. Tôi cảm thấy vừa buồn bã vừa giận dữ khi nhìn lũ trẻ khua khoắng những bó cẩm chướng đằng sau những thanh chắn. Mối đe dọa về một cuộc tấn công đã giết chết sự tự nhiên và vô lo vô nghĩ trong mỗi chúng ta. Mặc dù chúng ta vẫn ra sức khẳng định điều ngược lại, nhưng nỗi sợ hãi không bao giờ thực sự rời bỏ chúng ta, và bao phủ lên mọi niềm vui của chúng ta một cái bóng không thể xóa nhòa.
Tôi len lách trong đám đông để đến bãi đỗ xe của bến cảng Vauban. Chiếc Mini Cooper vẫn ở nguyên vị trí tôi đã để nó lại, nhưng ai đó đã nhét một phong bì dày bằng giấy kraft vào sau một trong hai cần gạt nước. Không có tên, không có địa chỉ. Tôi chờ đến khi đã ở trong khoang lái mới mở phong bì ra xem bên trong. Dạ dày tôi lại tiếp tục quặn thắt khi tôi xé phong bì. Những tin tức tốt lành hiếm khi xuất hiện qua một bức thư nặc danh. Tôi rất lo lắng, nhưng còn lâu mới ngờ được rằng một cơn chấn động đang chờ đợi mình.
Trong phong bì có chứa chừng chục bức ảnh đã ngả vàng và phai màu theo thời gian. Tôi xem bức ảnh đầu tiên và một vực thẳm mở ra dưới chân tôi. Trong ảnh là cha tôi đang hôn say đắm lên môi Vinca. Hai thái dương tôi bắt đầu ù đi, và một cơn co thắt khiến tim tôi nhói lên. Tôi hé mở cánh cửa xe để khạc ra một chút mật đắng nghét.
Chết tiệt…
Trong cơn choáng váng, tôi xem xét các bức ảnh kỹ lưỡng hơn. Tất cả đều thuộc cùng một loại. Không một giây nào tôi cho rằng đây là những bức ảnh ghép. Trong thâm tâm, tôi biết rằng tất cả các tình huống được ghi lại trong những bức ảnh này đều đã tồn tại trên thực tế. Thậm chí có lẽ một phần nào đó trong con người tôi cũng không cảm thấy ngạc nhiên cho lắm. Giống như một bí mật mà tôi chưa bao giờ là người nắm giữ, nhưng đã ẩn náu trong tôi, trong những nếp gấp thuộc phần vô thức của não tôi.
Cha tôi có mặt trong tất cả các bức ảnh. Richard Degalais, còn gọi là Richard có trái tim sư tử hoặc Rick đối với những người thân thiết. Vào đầu những năm 1990, ông cũng trạc tuổi tôi bây giờ. Chỉ có điều tôi không giống ông. Ông đẹp trai, tinh tế, thanh nhã. Dáng vóc thanh thoát, mái tóc dài ngang vai, chiếc áo sơ mi không cài kín cúc mà mở phanh để lộ phần ngực. Khuôn mặt đẹp, giỏi ăn nói, ăn to nói lớn và đam mê khoái lạc, nói cho cùng Rick cũng không khác nhiều so với Alexis Clément. Chỉ hơn gã mười lăm tuổi. Ông thích phụ nữ đẹp, ô tô thể thao, bật lửa sơn mài và áo vest Smalto. Thật đáng buồn khi phải nói điều này, nhưng trên các bức ảnh, Vinca và ông rất ăn nhập với nhau. Cả hai cùng thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt. Những người luôn nắm giữ vai trò đi đầu trong cuộc sống, và khi ta ở cùng họ, họ sẽ xếp ta thẳng vào vị thế người đóng vai phụ.
Toàn bộ các bức ảnh đều là ảnh chụp trộm, tại ít nhất hai địa điểm khác nhau. Tôi dễ dàng nhận ra địa điểm đầu tiên. Saint-Paul-de-Vence mùa vắng khách: Café de la Place, một chiếc cối xay gió cũ chạy bằng dầu, những bức tường thành ngự trị vùng nông thôn, nghĩa trang cổ nơi Marc Chagall được chôn cất. Vinca và cha tôi đang dạo chơi ở đó, tay trong tay, với sự gần gũi rõ rành rành là của một cặp tình nhân. Tôi gặp nhiều khó khăn hơn trong việc xác định vị trí chụp loạt ảnh thứ hai. Trước hết, tôi nhìn thấy chiếc Audi 80 có mui tháo rời được của cha tôi đậu trên một bãi đỗ xe tạm giữa một rừng vách đá trắng. Rồi đến những bậc cầu thang được đào trên vách đá. Đằng xa, một hòn đảo dốc đứng cheo leo, nơi đá granit phản chiếu ánh mặt trời. Chính ở đó bức ảnh đã được bấm máy. Vũng đá Marseille. Bãi cát nhỏ ẩn sau một con đê kia chính là bãi tắm Khỉ. Một bãi biển ở nơi tận cùng thế giới, cha tôi đã dẫn cả gia đình tôi đến đó một hoặc hai lần, nhưng rõ ràng là đã được ông dùng để chào đón mối tình vụng trộm của mình.
Cổ họng tôi khô khốc. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng tôi vẫn cố sức quan sát các bức ảnh thật chăm chú. Ở chúng có nét gì đó rất nghệ thuật, rất chăm chút tỉ mỉ. Ai đã gửi cho tôi những bức ảnh này? Ai đã chụp chúng? Vào thời kỳ ấy, các loại ống kính tiêu cự thay đổi có hiệu năng thấp hơn bây giờ rất nhiều. Để chớp được từng này chi tiết, nhiếp ảnh gia không thể ở quá xa mục tiêu, đến mức trong một lúc tôi đã tự hỏi liệu có thật sự là những bức ảnh này được chụp trộm, trong lúc hai nhân vật chính không hề hay biết không. Cha tôi thì chắc chắn là không biết, nhưng còn Vinca?
Tôi nhắm mắt và dựng nên một kịch bản. Hẳn là có người đã sử dụng những bức ảnh này để tống tiền cha tôi. Điều đó giải thích cho chi tiết mà tôi vừa phát hiện ra vài phút trước. Khi xem những bức ảnh chụp màn hình mà Pianelli gửi cho tôi, quả là tôi đã nhận ra một cái túi du lịch giả da cá sấu trước kia là của Richard – nếu sai thì cứ tay tôi mà chặt. Nếu cha tôi đưa cho Vinca một cái túi có chứa hàng trăm ngàn franc thì chắc chắn là vì cô đã đe dọa ông sẽ công khai mối quan hệ của họ.
Thậm chí có thể cả việc cô đang mang thai…
Tôi cần hít thở không khí ngoài trời. Tôi nổ máy, hạ mui và lái xe hướng về phía bờ biển. Tôi không thể trì hoãn việc phải đối đầu với cha tôi nữa. Trong lúc lái xe, tôi phải khó khăn lắm mới tập trung nhìn đường được. Những bức ảnh chụp Vinca vẫn khắc sâu trong tâm trí tôi. Lần đầu tiên, tôi cảm nhận được một điều gì đó giống như nỗi buồn và sự bất an trong ánh mắt cô. Phải chăng cô sợ cha tôi? Vinca là nạn nhân hay là kẻ giật dây quỷ quyệt? Hoặc có thể là cả hai…
Đến ngang La Siesta – vũ trường nổi tiếng nhất ở Antibes – tôi dừng lại trước đèn đỏ điều chỉnh luồng giao thông về phía đường đi Nice. Cột đèn này không hề thay đổi: thời gian chờ đợi vẫn dài dằng dặc. Hồi mười lăm tuổi, cưỡi trên chiếc mobylette cũ của mình, chỉ có một lần duy nhất tôi vượt đèn đỏ tại đây. Thật không may, ngày hôm đó có cảnh sát đứng trực, và tôi bị lập biên bản. Một khoản tiền phạt bảy trăm năm mươi franc mà mọi người trong nhà đay đi đay lại suốt nhiều tháng ròng. Lời nguyền muôn thuở dành cho những người tử tế. Tôi xua đuổi ký ức đáng xấu hổ ấy và một hình ảnh khác hiện ra trong đầu tôi, dù tôi không muốn. Tách-tách. Cô gái cầm chiếc máy ảnh Leica. Tách-tách. Cô gái âm thầm chụp ảnh ta, ngay cả khi không có chiếc máy ảnh đeo trên cổ. Có ai đó bấm còi đằng sau tôi. Đèn vừa chuyển sang xanh. Tôi biết người nào đã chụp ảnh cha tôi và Vinca. Tôi tăng tốc và nhằm thẳng hướng bệnh viện Fontonne.
2.Nằm trên những trang trại trồng cây ăn quả trước đây rừng làm nên danh tiếng của vùng Antibes, Fontonne là khu vực lệch về phía Đông trung tâm thành phố. Nhìn trên bản đồ, ta có cảm giác nơi này trải dài bên bờ biển, nhưng thực tế thì không được thơ mộng đến thế. Mặc dù đúng là có một bãi biển, nhưng là bãi đá cuội, men theo một con đường và ngăn cách với khu dân cư bởi đường quốc lộ và đường sắt. Vào giữa những năm 1980, tôi đã theo học tại Jacques-Prévert, trường trung học của khu này, và kỷ niệm trong tôi về nó không được tốt đẹp cho lắm: trình độ đào tạo thấp, bầu không khí độc hại, những cảnh bạo lực xảy ra thường xuyên. Những học sinh tốt đều cảm thấy khổ sở ở đây. Một nhúm giáo viên anh hùng cố gìn giữ ngôi trường được chừng nào hay chừng ấy. Nếu không có họ cùng tình bạn của Maxime và Fanny, tôi tin rằng mình có thể đã xoay theo hướng tồi tệ. Khi cả ba chúng tôi được nhận vào trường Saint-Ex, cuộc đời chúng tôi đã thay đổi căn bản. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng người ta có thể đến trường mà không phải mang theo nỗi lo sợ thường trực trong lòng.
Từ hồi đó đến nay, ngôi trường này đã có tiếng tăm tốt hơn, và khu vực này đã thay đổi hoàn toàn. Từ phía Bréguières – một trong những lối vào bệnh viện – tất cả những khu nhà kính cũ kỹ đã biến mất, nhường chỗ cho những ngôi nhà phân lô và những chung cư nhỏ tiện nghi. Nơi đây hoàn toàn không có khách du lịch, mà là một khu dân cư, được phục vụ bởi những cửa hàng kề cận, nơi sinh sống của một lượng lao động đông đảo.
Tôi dừng xe trên bãi đỗ ngoài trời của bệnh viện. Đây không phải lần đầu tiên, kể từ sáng nay, một địa điểm lập tức gợi lên trong tôi những kỷ niệm. Ở bệnh viện này, tôi có hai kỷ niệm. Một tồi tệ và một tốt đẹp.
Mùa đông năm 1982. Khi ấy tôi tám tuổi. Giữa lúc chạy đuổi theo chị gái trong vườn – chị ấy vừa giành mất búp bê Big Jim của tôi để biến nó thành nô lệ cho búp bê Barbie của mình – tôi vô tình làm đổ một trong những chiếc ghế dài bằng kim loại trong phòng khách mùa hè. Khi đổ xuống, cạnh ghế cắt lìa một mẩu ngón chân tôi. Ở bệnh viện, sau khi khâu vết thương cho tôi, tay bác sĩ nội trú bất tài đã bỏ quên một mẩu gạc trước khi dán thẳng băng dính lên phần da bên trên. Vết thương nhiễm trùng, và trong suốt nhiều tháng, tôi không thể chơi thể thao được.
Đến tận bây giờ vết sẹo vẫn còn.
Kỷ niệm thứ hai vui vẻ hơn, mặc dù nó khởi đầu đầy tồi tệ. Mùa hè năm 1988. Một gã sống trong khu ngoại ô nguy hiểm ở Vallauris đã tấn công tôi trên sân bóng sau khi tôi đá thành công một quả phạt đền đẹp ngang ngửa Klaus Allofs. Gã đánh gãy tay trái tôi và người ta phải giữ tôi lại hai ngày để theo dõi, bởi vì tôi bị ngất sau cú sốc. Tôi còn nhớ Maxime và Fanny đã đến thăm tôi. Họ là hai người đầu tiên viết lên lớp bột thạch cao. Maxime chỉ viết ‘OM(2) tiến lên!’ và ‘Nhắm trúng đích!’ bởi vì vào thời điểm đó, chẳng có điều gì quan trọng hơn trong đời. Fanny thì dành nhiều thời gian hơn để viết. Tôi vẫn còn nhớ như in cảnh tượng đó. Khi ấy là cuối năm học, hoặc có thể đã là đầu kỳ nghỉ hè. Tháng Bảy năm 1988. Mùa hè của Đại dương Xanh. Tôi vẫn như nhìn thấy vóc dáng của cô trong ánh ngược sáng, cúi người bên giường tôi, những tia nắng rọi vào mái tóc vàng khiến nó ánh lên rực rỡ. Cô viết cho tôi một mẩu đối thoại trong bộ phim Đại dương Xanh mà hai chúng tôi đã cùng xem hai tuần trước đó. Câu trả lời của Johanna dành cho Jacques Mayol, vào cuối phim, ngay sau khi anh chàng thợ lặn nói với cô: ‘Anh phải đi xem thế nào.’ Đó chính là lúc ta hiểu rằng anh ta sẽ lặn để rồi không bao giờ trở lên nữa.
‘Xem cái gì? Chẳng có gì để xem hết, Jacques ạ, chỉ là bóng tối và lạnh giá, chẳng có gì khác! Chẳng có người nào hết. Còn em, em ở đây, em đang sống, và em tồn tại!’
Mặc dù bây giờ tôi đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng đoạn phim đó vẫn khiến trái tim tôi tan nát mỗi khi nhớ lại. Hôm nay lại càng thấm thía hơn trước.
3.Được lắp ghép từ những tòa nhà hỗn tạp, bệnh viện này là một mê cung thực sự. Tôi cố định hướng được đến đâu hay đến đó giữa vô số những tấm biển chỉ dẫn. Quây quần bên cạnh tòa nhà chính, được xây bằng đá nguyên khối vào những năm 1930, là các đơn nguyên được xây dựng trong suốt nhiều thập kỷ. Mỗi đơn nguyên lại là một hình mẫu kiến trúc, đại diện cho những gì tốt đẹp nhất và tồi tệ nhất mà năm mươi năm qua đã sản sinh ra: những khối hộp bằng gạch sẫm màu, những khối bê tông cốt thép đặt trên những cây cột chống, khối hộp tạo bởi những bộ khung kim loại, không gian phủ đầy cây xanh…
Khoa tim mạch được đặt ở tòa nhà mới nhất, tòa nhà có hình quả trứng, mặt tiền là sự pha trộn khéo léo giữa kính và tre.
Tôi đi qua tiền sảnh sáng sủa, đến quầy tiếp đón.
“Ông cần gì, thưa ông?”
Với mái tóc nhuộm vàng, chân váy jean tơi tả, áo thun cỡ XXS và đôi tất quần họa tiết da báo, cô gái trực quầy lễ tân khiến ta có cảm giác người ta đã nhân bản Debbie Harry.
“Tôi muốn gặp bác sĩ Fanny Brahimi, trưởng khoa tim mạch.”
Người đẹp tóc vàng nhấc điện thoại lên.
“Tên ông là gì?”
“Thomas Degalais. Cô hãy bảo cô ấy là việc khẩn cấp.”
Cô gái đề nghị tôi chờ trong khoảnh sân nhỏ. Tôi uống ba cốc nước lạnh lấy từ vòi rồi thả mình xuống một trong mấy chiếc ghế xô-pha nằm vật vờ trên mặt sân. Tôi nhắm mắt lại. Những hình ảnh về cha tôi và Vinca đã khắc sâu bên trong mí mắt tôi. Cơn ác mộng đã đột ngột ập đến khi tôi không hề phòng bị, khiến cho ký ức về Vinca trong tôi trở nên phức tạp và mờ xỉn thêm đôi chút. Tôi nhớ đến điệp khúc mà tất cả mọi người ném vào mặt tôi từ sáng nay: ‘Cậu không thực sự hiểu Vinca.’ Họ đã nhầm. Tôi chưa bao giờ khẳng định mình thực sự hiểu một ai đó. Tôi là tín đồ trung thành với chân lý của Garcia Marquez: “Mỗi người đều có ba cuộc sống: một cuộc sống công khai, một cuộc sống riêng tư và một cuộc sống bí mật.” Nhưng ở Vinca, tôi chỉ có thể nhận xét rằng cuộc sống thứ ba đó trải ra trên một lãnh thổ mà ta không ngờ tới.
Tôi không ngây thơ. Tôi ý thức rõ rằng mình đang giữ trong tim hình ảnh được xây dựng trong nhiệt thành yêu đương của tuổi thiếu niên. Tôi biết rất rõ rằng hình ảnh đó ứng với khát khao của bản thân tôi hồi ấy: khát khao được sống trong một tình yêu thuần chất với một nữ nhân vật lãng mạn xuất thân từ Anh Meaulnes(3) hoặc Đồi gió hú(4). Tôi đã sáng tác ra một Vinca như tôi mong muốn, chứ không phải như con người thực sự của cô. Tôi đã chiếu rọi vào cô những điều chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi không thể nào triệt để chấp nhận rằng mình đã hoàn toàn sai lầm.
“Chết tiệt, tôi quên thuốc lá rồi. Cô có thể lấy hộ cái túi trong tủ đựng đồ của tôi không?”
Giọng Fanny kéo tôi khỏi dòng suy nghĩ trầm tư. Cô ném một chùm chìa khóa về phía Debbie, cô nàng vừa bắt kịp.
“Thế nào, Thomas, chúng ta không nói chuyện với nhau suốt nhiều năm nay, thế rồi đột nhiên cậu không thể xa tôi nữa sao?” cô vừa nói với tôi vừa đi về phía chiếc máy bán đồ uống tự động.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Fanny trong vai trò bác sĩ. Cô mặc một chiếc quần bằng vải bông màu xanh nhạt, một chiếc áo choàng dài tay cùng màu và một chiếc mũ giấy giữ gọn mái tóc. Khuôn mặt cô rõ ràng là cứng rắn hơn sáng nay. Đằng sau những lọn tóc vàng, đôi mắt sáng của cô ánh lên một ngọn lửa thâm trầm và dữ dội. Một nữ chiến binh ánh sáng thực thụ trong trận chiến chống lại bệnh tật.
Fanny là ai? Đồng minh hay cánh tay phải của quỷ dữ? Và rốt cuộc, nếu Vinca không phải người duy nhất trong quá khứ bị tôi nhận định sai lầm thì sao?
“Tôi phải cho cậu xem một thứ, Fanny ạ.”
“Tôi không có nhiều thời gian đâu.”
Cô bỏ tiền xu vào máy. Vốn là người dễ kích động, cô đối xử thô bạo với chiếc máy bởi vì lon Perrier mà cô vừa chọn không rơi xuống đủ nhanh. Bằng một cái vẫy tay, cô bảo tôi đi theo cô ra ngoài, đến bãi đậu xe của nhân viên bệnh viện. Khi đến nơi, cô xõa tung mái tóc, cởi chiếc áo blu rồi ngồi lên nắp chiếc xe hẳn là xe của cô: một chiếc Dodge Charger màu huyết dụ mà ta tưởng như vừa được lấy ra khỏi một album cũ của Clapton hoặc Springsteen.
“Có ai đó đã để lại thứ này trên kính chặn gió xe tôi,” tôi vừa nói vừa đưa cho cô chiếc phong bì băng giấy kraft. “Là cậu phải không?”
Fanny lắc đầu, cầm lấy chiếc phong bì, nhấc thử xem nó nặng nhẹ thế nào, nhưng không có vẻ gì là sốt ruột muốn mở ra, như thể cô đã biết trước bên trong có gì. Một phút trước, ánh mắt cô có sắc xanh, còn lúc này nó ngả sang màu xám buồn bã.
“Fanny, cho tôi biết có phải cậu đã chụp những bức ảnh này không.”
Bị thúc ép bởi câu hỏi của tôi, cô đành miễn cưỡng lấy những bức ảnh bên trong phong bì ra. Cô cụp mắt xuống, liếc nhìn hai bức ảnh đầu tiên rồi trả chiếc phong bì cho tôi.
“Cậu biết cậu nên làm gì mà, Thomas: lên một chuyến bay và quay trở về New York.”
“Đừng quá coi trọng chuyện đó. Chính cậu là người đã chụp những bức ảnh này, đúng không?”
“Đúng, là tôi. Cách đây hai mươi lăm năm.”
“Tại sao?”
“Bởi vì Vinca đã nhờ tôi.”
Cô kéo quai chiếc áo hai dây lên và đưa cánh tay dụi mắt.
“Tôi biết rằng tất cả những chuyện này đã xa xưa rồi,” cô thở dài, “nhưng ký ức của cậu về thời kỳ này không trùng khớp với ký ức của tôi.”
“Ý cậu muốn nói gì?”
“Hãy chấp nhận sự thật đi, Thomas. Cuối năm 1992, Vinca đã đổ đốn. Cô ấy trở nên không thể kiểm soát nổi, hành xử hoàn toàn phóng túng. Cậu nhớ lại đi: đó là thời kỳ bắt đầu của các bữa quậy nhạc điện tử (rave party), ma túy lan tràn khắp trường học. Và Vinca không phải người cuối cùng phê thuốc.”
Quả thật, tôi vẫn còn nhớ những loại thuốc an thần, thuốc ngủ, ecstasy và benzadrin tôi từng nhìn thấy trong tủ thuốc của cô.
“Một buổi tối, vào tháng Mười hay tháng Mười một gì đó, Vinca đã vào phòng tôi. Cô ấy bảo tôi là đã ngủ với cha cậu và nhờ tôi đi theo họ để chụp ảnh. Cô ấy…”
Tiếng bước chân của cô nàng trực tổng đài cắt ngang lời tiết lộ của Fanny.
“Túi của chị đây, bác sĩ!” Debbie nói.
Fanny cảm ơn cô nàng. Cô lấy từ trong túi gói thuốc lá và cái bật lửa, rồi đặt nó xuống nắp xe, bên cạnh cô. Một mẫu túi bằng sợi da tết lại, màu trắng pha be, với dây kéo khóa có hình đầu rắn, đôi mắt rắn bằng mã não có vân dường như chứa đựng một sự đe dọa ngấm ngầm.
“Vinca muốn làm gì với những bức ảnh này?”
Cô vừa châm thuốc vừa nhún vai.
“Tôi hình dung là cô ấy muốn tống tiền cha cậu. Cậu không nói chuyện này với ông ấy sao?”
“Bây giờ thì chưa.”
Tôi cảm thấy con giận dữ và nỗi thất vọng đang dâng lên trong lòng.
“Làm sao cậu có thể chắc chắn như thế, hả Fanny?”
Cô lắc đầu và nhả ra một hơi khói thuốc. Ánh mắt cô mờ đi. Cô nheo mắt như để ngăn những giọt nước mắt, nhưng tôi không buông tha:
“Tại sao cậu làm chuyện này với tôi?”
Tôi vừa hét lên, nhưng cô còn hét to hơn, và nhảy xuống khỏi nắp xe để thách thức tôi:
“Nhưng mà mẹ kiếp, là vì hồi ấy tôi yêu cậu!”
Chiếc túi của cô rơi xuống đắt. Đôi mắt đỏ lên vì giận dữ, Fanny xô vào người tôi:
“Tôi vẫn luôn yêu cậu, Thomas ạ, luôn luôn. Và cậu cũng thế, hồi ấy cậu cũng yêu tôi, trước khi Vinca xuất hiện phá hỏng tất cả.”
Giận dữ, cô ra sức đấm vào ngực tôi.
“Cậu đã từ bỏ mọi chuyện vì cô ta. Để cô ta vui lòng, cậu đã từ bỏ tất cả những gì tạo nên sự đặc biệt của cậu. Tất cả những gì khiến cậu là một gã trai khác biệt với những gã khác.”
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Fanny mất kiểm soát. Phải chăng vì biết rằng những gì cô nói đều là sự thật nên tôi chịu đựng những cú đấm của cô giống như một hình phạt?
Khi cho rằng hình phạt đó đã kéo dài đủ lâu, tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay cô.
“Bình tĩnh lại đi, Fanny.”
Cô giằng ra và đưa hai bàn tay lên ôm đầu. Tôi nhìn thấy cô bơ phờ, loạng choạng đứng không vững.
“Tôi đã đồng ý chụp ảnh vì muốn cho cậu xem chúng, để hạ giá Vinca trong mắt cậu.”
“Vậy tại sao cậu lại không làm thế nữa?”
“Bởi vì hồi đó, chuyện ấy có thể khiến cậu gục ngã. Tôi sợ rằng cậu sẽ làm chuyện gì đó dại dột. Với cậu, với cô ta hoặc với cha cậu. Tôi không muốn chấp nhận rủi ro đó.”
Cô tựa lưng vào cánh cửa xe. Tôi cúi xuống nhặt chiếc túi xách lên, cẩn thận không để bị con rắn cắn vào tay. Chiếc túi vẫn mở, và mọi thứ vương vãi trên mặt đất: một cuốn sổ ghi chép công việc, một chùm chìa khóa, một thỏi son môi. Trong lúc tôi nhặt bỏ các đồ vật vào túi, ánh mắt tôi bắt gặp một tờ giấy gập làm đôi. Vẫn là bản sao của bài báo đăng trên tờ Nice Buổi sáng mà Maxime đã gửi cho tôi. Cũng cùng những chữ ghi trên đó đòi Trả thù!
“Fanny, đây là cái gì?” tôi vừa hỏi vừa đứng dậy.
Cô giành lại tờ giấy từ tay tôi.
“Một bức thư nặc danh. Tôi tìm thấy nó trong hộp thư của mình.”
Đột nhiên, không khí bỗng đặc quánh lại như thể đang tích đầy điện tích âm. Và tôi nhận ra rằng mối nguy hiểm đe dọa tôi và Maxime còn đáng sợ hơn chúng tôi từng nghĩ.
“Cậu biết tại sao cậu nhận được thứ này không?”
Fanny mệt mỏi rũ xuống, như thể sắp ngã gục. Tôi không hiểu tại sao cô cũng là đối tượng mà bức thư này nhắm đến. Cô chẳng liên quan gì đến cái chết của Alexis Clément. Tại sao kẻ đang truy đuổi Maxime và tôi lại dây chuyện với cả Fanny?
Không chút hối thúc, tôi đặt tay lên vai cô.
“Fanny, làm ơn hãy trả lời tôi: cậu có biết tại sao cậu nhận được bức thư đe dọa này không?”
Cô ngẩng đầu lên và tôi nhìn thấy khuôn mặt mệt mỏi, nhàu nát, nhợt nhạt của cô. Một ngọn lửa sáng rực cháy lên trong đáy đôi đồng tử.
“Mẹ kiếp, tất nhiên là tôi biết!” cô vặc lại tôi.
Lúc này, chính tôi là người cảm thấy sững sờ.
“Thế thì… tại sao?”
“Bởi vì có một cái xác trong bức tường của nhà thể chất.”
4.Trong một lúc lâu, tôi không thể thốt ra bất cứ lời nào.
Tình huống vừa tuột khỏi tầm kiểm soát của tôi. Tôi như bị tê liệt.
“Cậu biết chuyện từ khi nào?”
Cô như bị hạ gục trong tư thế đứng, như thể cô đã từ bỏ việc đấu tranh và để mặc cho bản thân chết chìm. Cô mệt mỏi nhưng vẫn thì thầm được một câu:
“Ngay từ ngày đầu tiên.”
Rồi cô gục ngã. Theo đúng nghĩa đen của từ này. Cô để người trượt dọc theo chiếc xe, rồi sụp xuống mặt đường trải nhựa mà nức nở. Tôi vội lao đến đỡ cô đứng dậy.
“Cậu chẳng liên quan gì đến cái chết của Clément cả, Fanny ạ. Chính tôi và Maxime mới phải chịu trách nhiệm về vụ đó.”
Trong một lát, có ngước mắt nhìn tôi, đờ đẫn. Rồi, tiếp tục bị giày vò bởi những con nức nở, cô ngồi bệt xuống đất và giấu khuôn mặt giữa hai bàn tay. Đến lượt tôi ngồi xuống bên cạnh cô và vừa chờ cho cô nín khóc vừa quan sát hai cái bóng to tướng của chúng tôi đổ trên mặt đường nhựa dưới ánh mặt trời. Cuối cùng, có đưa mu bàn tay lên lau mắt.
“Chuyện đã xảy ra thế nào?” cô hỏi. “Anh ta chết như thế nào?”
Đã đến nước này rồi, tôi đành kể chi tiết mọi chuyện với cô, giải tỏa bí mật khủng khiếp của chúng tôi. Một lần nữa tôi lại trải qua cơn chấn động của thời kỳ đó, cơn chấn động đã biến tôi thành kẻ giết người, mãi mãi.
Khi tôi kể xong, có vẻ như Fanny đã bình tĩnh lại đôi chút. Lởi tâm sự vừa rồi đã xoa dịu tâm trí cả hai chúng tôi.
“Còn cậu, Fanny, làm sao cậu lại biết chuyện?”
Cô đứng dậy, hít một hơi thật sâu rồi châm một điếu thuốc mới, rít mấy hơi liền, như thể thuốc lá sẽ giúp gợi lại những kỷ niệm xa xôi.
“Cái ngày bão tuyết, cái ngày thứ Bảy đáng nguyền rủa ấy, ngày 19 tháng Mười hai ấy, tôi đã học rất muộn. Hồi ấy tôi đang chuẩn bị thi vào trường Y, tôi có thói quen chỉ ngủ bốn tiếng đồng hồ mỗi đêm. Tôi tin rằng việc đó đã khiến tôi phát điên, nhất là khi tôi không có xu nào để mua thứ gì đó mà ăn. Đêm đó, tôi đói đến mức không thể nào ngủ được. Ba tuần trước đó, bà Fabianski, vợ ông bảo vệ, đã thương hại tôi và cho tôi mượn chùm chìa khóa phụ phòng bếp của nhà ăn tập thể.”
Tiếng bíp từ điện thoại của Fanny vang lên trong túi áo, nhưng cô làm như không nghe thấy.
“Tôi đi ra ngoài trời đêm. Lúc đó là 3 giờ sáng. Tôi đi qua khuôn viên trường, đến tận nhà ăn. Vào giờ đó, tất cả các chỗ đều khóa, nhưng tôi biết mã số của cánh cửa chống cháy cho phép tôi vào bên trong nhà ăn. Trời lạnh đến mức tôi không muốn lần lữa chút nào. Tôi ngốn tại chỗ một hộp bánh quy, rồi cầm theo một nửa gói bánh mật ong và một thanh sô cô la.”
Cô nói bằng giọng đều đều đơn điệu, gần như đang trong trạng thái bị thôi miên, và một người nào đó lên tiếng thông qua cô.
“Chỉ đến lúc quay trở lại phòng tôi mới thực sự nhận ra vẻ huy hoàng của khung cảnh. Tuyết đã ngừng rơi. Gió đã xua hết mây đi, để lộ những chòm sao và mặt trăng tròn vành vạnh. Mọi thứ đều đẹp như trong cổ tích, đến nỗi tôi không rời mắt khỏi mặt hồ trên đường quay về phòng. Tôi vẫn nhớ tiếng bước chân mình lạo xạo trên tuyết và ánh phản chiếu màu xanh của mặt trăng trên mặt nước hồ.”
Những lời nói của Fanny làm sống dậy những kỷ niệm của chính tôi về một Côte d’Azur bất động trong tuyết. Fanny nói tiếp:
“Phép mầu bị phá vỡ khi tôi nhìn thấy có ánh sáng bất thường phía trên đầu mình. Quầng sáng phát ra từ khu vực người ta đang xây tòa nhà thể chất. Càng lại gần, tôi càng hiểu ra rằng đó không phải chỉ là một quầng sáng. Mà toàn bộ công trường đang được chiếu sáng. Thậm chí còn có cả tiếng động cơ. Tiếng gầm rít của một cỗ máy. Linh tính mách bảo tôi đừng lại gần, nhưng tôi đã không chiến thắng nổi trí tò mò và…”
“Cậu đã phát hiện ra điều gì?”
“Tôi nhìn thấy một chiếc máy trộn bê tông đang quay trong đêm tối. Tôi choáng váng. Có người đổ bê tông vào lúc 3 giờ sáng, giữa cái lạnh không thể nào chịu thấu! Có người xuất hiện làm tôi giật mình. Tôi quay lại và nhìn thấy Ahmed Ghazouani, công nhân của Francis Biancardini. Ông ta nhìn tôi, cũng hoảng hốt chẳng kém. Tôi hét lên, rồi vắt chân lên cổ chạy về phòng, nhưng tôi vẫn biết rằng tối đó, mình đã nhìn thấy điều gì đó không nên thấy.”
“Làm sao cậu đoán được là Ahmed đang vùi xác Alexis Clément vào bức tường?”
“Tôi không đoán, mà chính Ahmed đã thú nhận với tôi… gần hai mươi lăm năm sau.”
“Nhân dịp gì vậy?”
Fanny quay lại, chỉ tay vào tòa nhà sau lưng cô.
“Năm ngoái, ông ấy nằm viện ở đây, trên tầng bốn, vì bị ung thư dạ dày. Ông ấy không phải bệnh nhân trực tiếp của tôi, nhưng thỉnh thoảng, vào buổi tối, tôi ghé qua thăm ông ấy trước khi ra về. Năm 1979, cha tôi đã làm việc cùng ông ấy trên công trường xây dựng cảng thương mại Nice, và họ vẫn giữ liên lạc với nhau. Ahmed biết bệnh tình của ông ấy đã nặng lắm rồi. Trước khi chết, ông ấy muốn lương tâm được nhẹ bớt, và chính vì thế ông ấy đã kể hết cho tôi nghe. Chính xác như cậu vừa kể với tôi.”
Nỗi lo lắng trong tôi lên đến đỉnh điểm.
“Nếu ông ấy kể với cậu, thì có thể ông ấy cũng đã kể với một người khác. Cậu còn nhớ ai đã đến thăm ông ấy không?”
“Chẳng có ai cả, đúng thế đấy. Chẳng ai đến thăm ông ấy cả, và ông ấy rất đau khổ vì điều đó. Ông ấy chỉ có một mong muốn: trở về vùng Bizerte.”
Tôi nhớ lại điều Maxime đã nói với mình: Ahmed đã chết ở nhà.
“Ông ấy đã làm thế,” tôi đoán. “Ông ấy đã xuất viện để quay trở về Tunisie…”
“… nơi ông ấy qua đời sau đó vài tuần.”
Một lần nữa, tiếng bíp từ điện thoại của Fanny lại vang lên trên bãi đỗ xe vắng lặng.
“Lần này thì tôi thực sự phải quay lại làm việc rồi.”
“Tất nhiên, cậu quay vào đi.”
“Hãy cho tôi biết sau khi cậu nói chuyện với cha cậu nhé.”
Tôi gật đầu rồi đi về phía bãi đỗ xe dành cho khách. Trong lúc trở ra xe, tôi không thể ngăn mình quay nhìn lại. Tôi đã đi được chừng hai chục mét, nhưng Fanny không hề nhúc nhích, mà vẫn nhìn tôi đăm đăm. Trong ánh ngược sáng, những lọn tóc vàng của cô ánh lên giống như dây tóc của một bóng đèn kỳ diệu. Không thể nhìn rõ mặt cô, trông cô có vẻ ở bất kỳ độ tuổi nào cũng được.
Trong vài giây, trong tâm trí tôi, cô vẫn là Fanny của mùa hè Đại dương xanh. Và tôi cũng lại trở thành gã trai khác biệt với những gã khác.
Phiên bản duy nhất của Thomas Degalais mà tôi yêu mến trong đời mình.
Chú Thích:
Đội bóng Olympique Marseille.
Tiểu thuyết của nhà văn Pháp Alain Fournier, xuất bản năm 1913.
Tiểu thuyết của nữ nhà văn Anh Emily Brontë.
Bữa tiệc dành riêng cho người hâm mộ nhạc điện tử, tại đó người tham gia sẽ được thưởng thức các thể loại nhạc điện tử vô cùng độc đáo và sôi động, như nhạc Techno, Hardstyle, Trance, Drum & Bass…