Chương 16 Màn đêm vẫn đợi em
Hãy bắt đầu tin rằng Màn đêm vẫn đợi em.
René CHAR
1.Trong Màn đêm đông gió, đường phố Antibes dường như bị vấy bẩn bởi một lớp sơn dày và dính dớp, giống như một họa sĩ vụng về đánh đổ màu lên tấm vải vẽ tranh.
Đã 4 giờ sáng. Tôi đi đi lại lại trong mưa, đằng trước sở cảnh sát trên đại lộ Frères-Olivier. Tôi đã mặc áo khoác đi mưa, nhưng tóc tôi ướt đẫm và nước luồn vào qua cổ áo sơ mi. Chiếc điện thoại di động dán chặt vào tai, tôi cố gắng thuyết phục một nhân vật có danh tiếng ở đoàn luật sư Nice để ông ta hỗ trợ cha tôi nếu thời gian tạm giữ bị kéo dài.
Tôi có cảm giác mình đang chết ngạt dưới dòng thác các tai họa tiếp nối nhau. Một giờ trước, sau khi rời Aurelia Park, tôi đã bị cảnh binh giữ lại vì chạy quá tốc độ. Trong cơn xúc động, tôi đã cho chiếc xe mui trần phóng với tốc độ trên 180km/giờ trên đường cao tốc. Người ra đã bắt tôi thổi vào cồn kế và tôi đã phải trả giá cho những ly cocktail và vodka bằng việc bị treo bằng lái ngay lập tức. Để có thể đi tiếp, tôi không còn cách nào khác ngoài gọi Stéphane Pianelli đến giải cứu. Anh chàng phóng viên đã biết tin về cái chết của mẹ tôi, và đảm bảo với tôi rằng cậu ta sẽ đến ngay. Cậu ta đến đón tôi bằng chiếc SUV Dacia với cậu nhóc Ernesto ngủ say tít ở ghế sau. Chiếc xe đầy mùi bánh mì nướng gia vị và chắc hẳn là chưa từng được rửa lần nào. Trong lúc lái xe về hướng sở cảnh sát, chính cậu ta đã tóm tắt cho tôi mọi việc, đồng thời bổ sung những thông tin mà cảnh sát trưởng Debruyne đã báo cho tôi. Xác mẹ tôi được tìm thấy tại Mũi Antibes, trên những vách đá dọc con đường ven biển. Chính nữ cảnh sát khu vực, được điều tới hiện trường sau khi các cư dân sống ở đó lo lắng vì nghe thấy tiếng súng đã gọi báo cho sở cảnh sát, là người đầu tiên nhận thấy mẹ tôi đã chết.
“Tôi rất tiếc phải thông báo với cậu chuyện này, Thomas ạ, nhưng cảnh tượng mẹ cậu bị giết thực sự rất kinh hoàng. Người ta chưa từng chứng kiến điều gì như vậy ở Antibes.”
Đèn trần của chiếc xe Dacia vẫn bật. Pianelli run rẩy. Mặt trắng bệch, cậu ta rất khiếp đảm trước vụ việc kinh hoàng xảy ra đối với những người cậu ta quen biết. Nói cho cùng, cậu ta cũng rất thân thiết với cha mẹ tôi. Còn tôi thì đã tê liệt. Tôi đã vượt quá ngưỡng của mệt mỏi, lo buồn và đau đớn.
“Có một khẩu súng săn ở gần hiện trường vụ án, nhưng Annabelle không chết vì bị đạn bắn,” cậu ta thông báo.
Phải khó khăn lắm Pianelli mới kể được cho tôi nghe những thông tin tiếp theo, và tôi đã phải nài nỉ để cậu ta tiết lộ cho tôi biết sự thật.
Và đó chính là sự thật mà lúc này tôi đang tìm cách giải thích cho vị luật sư kia hiểu, khi vừa rời khỏi sở cảnh sát: khuôn mặt mẹ tôi đã bị đập nát bởi một loạt những cú nện báng súng. Rõ ràng là cha tôi không làm việc đó. Richard đến hiện trường bởi vì tôi đã nói cho ông biết, và Annabelle đã chết khi ông đến nơi. Ông đã sụp xuống vách đá mà khóc, và sai lầm duy nhất của ông là vừa nhìn xác vợ vừa nức nở: “Chính tôi đã gây ra chuyện này!” Lời khẳng định ấy, tôi giải thích với luật sư, tất nhiên sẽ không được xem xét ở mức độ quan trọng cao nhất. Rõ ràng là nó chủ yếu chỉ có nghĩa rằng ông hối tiếc vì đã không đủ khả năng ngăn cản vụ giết người, chứ không phải một lời thú tội. Vị luật sư dễ dàng nhất trí với cách giải thích đó, và đảm bảo với tôi là ông sẽ giúp chúng tôi.
Khi tôi gác máy, trời vẫn mưa nặng hạt như trước. Tôi núp vào dưới một nhà chờ xe buýt vắng về trên quảng trường Tướng De Gaule, rồi từ đó khó nhọc gọi đi hai cuộc điện thoại đến Port-au-Prince rồi đến Paris để báo tin cho anh trai và chị gái tôi biết về cái chết của mẹ tôi. Jérôme, trung thành với chính con người anh, vẫn cư xử đúng mực, mặc dù anh bị chấn động sâu sắc. Cuộc điện thoại với chị gái tôi siêu thực hơn thế. Trong lúc tôi tưởng rằng chị đang ngủ ở nhà mình, tại quận mười bảy, thì hóa ra chị đang nghỉ cuối tuần với bạn trai ở Stockholm. Thậm chí tôi còn không biết chị đã ly hôn từ năm ngoái. Chị cho tôi biết tin mình đã chia tay chồng, rồi tôi thông báo với chị về thảm kịch vừa giáng xuống gia đình chúng tôi, nhưng chỉ nói sơ qua về bối cảnh. Chị lập tức òa khóc nức nở, và cả tôi lẫn anh chàng đang ngủ bên cạnh chị cũng không thể nào giúp chị bình tâm lại được.
Rồi tôi lang thang một lúc lâu chẳng khác nào một cái bóng giữa quảng trường, dưới trời mưa gió. Cả khoảng sàn rộng mênh mông đã ngập nước. Hẳn là một đường ống thoát nước nào đó đã bị vỡ, cuốn theo một phần nhựa đường. Đài phun nước vẫn được chiếu sáng, rọi vào Màn đêm những tia nước dài lấp lánh hòa lẫn với nước mưa để tạo nên một thứ sương mù lơ lửng.
Ướt sũng, bị bao bọc trong làn nước mưa, tim tôi như đã bị thiêu rụi thành than, các nơ ron thần kinh như bị hơ lửa, cả người tôi như bị cán mỏng. Làn nước mù mịt nhấn chìm những bước chân tôi, xóa nhòa các ranh giới của quảng trường, những đường viền của vỉa hè, những chỉ dẫn dấu mốc trên mặt đất. Và tôi có cảm giác nó cũng khỏa lấp mọi giá trị và điểm mốc của chính bản thân mình. Tôi không còn biết mình có vai trò gì trong câu chuyện đã phá hủy tôi suốt từng ấy năm. Một cú trượt dài dường như không có kết thúc. Một kịch bản phim bạo lực trong đó tôi phải gánh chịu nhiều hơn rất nhiều so với những gì mình đã gây ra.
2.Đột nhiên, hai ngọn đèn pha xuyên thủng màn sương mù và tiến về phía tôi: chiếc Dacia mập mạp của Stéphane Pianelli đã quay trở lại.
“Lên xe đi, Thomas!” cậu ta hạ kính xe xuống rồi bảo tôi. “Tôi đã nghĩ có lẽ cậu không biết phải về nhà bằng cách nào. Tôi sẽ đưa cậu về nhà.”
Cạn kiệt sức lực, tôi chấp nhận lời đề nghị của Pianelli. Ghế cạnh ghế lái vẫn chất đống một mớ đồ đạc lộn xộn. Cũng giống như lúc đi, tôi ngồi vào băng ghế sau, bên cạnh Ernesto đang ngủ say.
Pianelli giải thích với tôi rằng cậu ta vừa từ tòa soạn báo Nice Buổi sáng về. Nội dung đã được chốt xong từ tối, sẽ không có thông báo về cái chết của mẹ tôi trong ấn bản đầu tiên ngày mai. Tuy nhiên, anh chàng phóng viên đã ghé qua phòng làm việc để viết một bài dành đăng trên trang web của báo.
“Thậm chí những nghi vấn nhỏ nhặt đang đè nặng lên cha cậu cũng sẽ không được nhắc tới,” cậu ta trấn an tôi.
Trong lúc xe chạy men theo bờ biển về hướng Fontonne, Pianelli cuối cùng cũng kể với tôi là cậu ta đã gặp Fanny lúc rời bệnh viện, sau khi ghé qua hỏi han tin tức của Maxime, vào đầu buổi tối.
“Cô ấy đang rất căng thẳng. Tôi chưa thấy cô ấy như thế bao giờ.”
Một tín hiệu cảnh báo vang lên trong tâm trí mệt mỏi của tôi.
“Cô ấy đã kể với cậu chuyện gì?”
Chúng tôi đang dừng ở lối giao cắt với đường Siesta. Chặng dừng đèn đỏ dài nhất thế giới…
“Cô ấy đã kể cho tôi nghe mọi chuyện, Thomas ạ. Cô ấy nói rằng cô ấy đã giết Vinca, và rằng mẹ cậu cùng Francis giúp cô ấy che giấu những việc đã làm.”
Tôi đã hiểu hơn tại sao vừa rồi Pianelli lại bối rối đến thế: cậu ta không chỉ bị tác động bởi bối cảnh cái chết của mẹ tôi, cậu ta choáng váng vì vừa phát hiện ra một vụ giết người.
“Cô ấy có kể với cậu chuyện gì đã xảy ra với Clément không?”
“Không,” cậu ta thú nhận. “Đó là mảnh ghép duy nhất mà tôi còn thiếu trong bức ghép hình này.”
Đèn chuyển sang xanh. Chiếc Dacia hòa vào đường quốc lộ và ngược về hướng Constance. Tôi đã mệt nhoài. Đầu óc tôi không còn minh mẫn nữa. Tôi có cảm giác ngày hôm nay sẽ không bao giờ kết thúc. Rằng một làn sóng sẽ cuốn phăng đi tất cả. Quá nhiều phát hiện, quá nhiều thảm kịch, quá nhiều cái chết, quá nhiều mối đe dọa vẫn còn lởn vởn trên đầu những người thân yêu của tôi. Thế là, tôi đã làm điều không bao giờ nên làm. Tôi đã lơ là cảnh giác. Tôi đã phá hỏng hai mươi lăm năm im lặng bởi muốn tin tưởng vào loài người. Tôi muốn tin rằng Pianelli là một anh chàng tốt, sẽ coi trọng tình bạn của chúng tôi hơn tấm thẻ phóng viên của cậu ta.
Tôi đã phơi bày mọi chuyện: vụ giết hại Clément và tất cả những gì tôi biết được trong ngày hôm nay. Khi đến trước của nhà cha mẹ tôi, Pianelli đỗ xe trước cổng và vẫn cho xe nổ máy. Chúng tôi thảo luận thêm nửa giờ đồng hồ nữa bên trong chiếc SUV cũ kỹ, cố gắng nhìn nhận tình hình theo cách sáng sủa hơn. Rất kiên nhẫn, cậu ta giúp tôi tái lập những chuyện đã xảy ra hồi chiều. Chắc là mẹ tôi đã nghe lỏm được nội dung câu chuyện giữa tôi và Maxime.
Cũng giống như tôi, chắc là bà đã nhận thấy sự khác biệt về nét chữ giữa lời đề tặng trên cuốn sách và những lời phê của Alexis Clément trên phiếu bài tập của tôi. Trái ngược với tôi, chi tiết này đã cho phép bà xác định được kẻ đã sát hại Francis. Bà đã hẹn gặp kẻ đó, hoặc đã lần theo dấu vết kẻ đó đến tận Mũi Antibes, với mục đích loại bỏ hắn. Tóm lại, bà đã thành công ngay ở nơi chúng tôi thất bại: lột mặt nạ của con quái vật đang điên cuồng sát hại đến mức dường như không có giới hạn nào.
Sự sáng suốt của bà đã khiến bà phải trả giá bằng mạng sống.
“Hãy cố gắng nghỉ ngơi đi,” Stéphane vừa nói vừa vỗ vai tôi. “Ngày mai tôi sẽ gọi cho cậu. Chúng ta sẽ cùng đến bệnh viện để nắm tin tức của Maxime.”
Mặc dù trong lời nói của cậu ta có sự nhiệt tình hiếm thấy, tôi không còn đủ hơi sức để đáp lại, mà chỉ đóng sập cửa xe. Bởi vì không thể gọi ai ra mở cửa, tôi buộc phải trèo cổng. Tôi nhớ là có thể đi vào nhà qua ga ra dưới tầng hầm, nơi cha mẹ tôi không bao giờ khóa. Khi vào đến phòng khách, thậm chí tôi còn chẳng buồn bật đèn. Tôi để chiếc túi lên bàn cùng với khẩu súng của Francis. Tôi cởi bỏ bộ quần áo ướt và đi ngang phòng khách chẳng khác nào một kẻ mộng du, rồi ngã vật xuống ghế xô-pha. Ở đó, tôi cuộn người trong một chiếc chăn len và để mặc cho giấc ngủ cuốn mình đi.
Tôi đã chơi và đã thua trong tất cả các ván bài. Nghịch cảnh đã nghiền nát tôi. Và dù không hề được chuẩn bị tinh thần, tôi vừa trải qua cái ngày tồi tệ nhất trong đời mình. Sáng nay, khi đến Côte d’Azur, tôi biết rõ là một cơn chấn động đang đe dọa mình, nhưng không hề lường trước được sức tàn phá cũng như tính chất tàn bạo và hủy hoại của nó.