Chương 15 Cô bé xinh nhất trường
Một cách tuyệt vời để bảo vệ mi khỏi bọn chúng, đó là đừng có giống với bọn chúng.
MARC AURÈLE
1.Đã hai giờ sáng khi tôi rời khỏi phòng cấp cứu của Bệnh viện đại học Fontonne. Cái chết có mùi như thế nào? Đối với tôi, đó chính là mùi của các loại thuốc, các loại chất khử trùng và các sản phẩm tẩy rửa nồng nặc trong các hành lang bệnh viện.
Maxime bị ngã từ độ cao hơn tám mét, trước khi rơi xuống mặt đường rải nhựa. Những cành cây bên dưới vách núi đã giảm nhẹ cú ngã, nhưng không đủ để giúp cậu ta tránh khỏi vô số chỗ gãy ở cột sống, xương chậu, cẳng chân và hai bên sườn.
Chở theo Olivier trong xe, tôi đi theo chiếc xe cấp cứu đến tận bệnh viện, và đã thoáng nhìn thấy cậu bạn tôi khi đến nơi. Cả thân thể đầy những vết bầm tím, Maxime được giữ cho nằm bất động trong một cái khung cứng và một cái mũ bằng thạch cao. Khuôn mặt cậu ta tái xanh, không chút sinh khí, biến mất bên dưới những ống truyền, nhắc tôi nhớ lại, một cách đầy đau đớn, là tôi đã bất lực không bảo vệ được bạn.
Các bác sĩ mà Olivier có thể nói chuyện cùng đã đưa ra với chúng tôi những chẩn đoán rất nghiêm trọng. Maxime đang bị hôn mê. Mạch của cậu ta rất yếu, và mặc dù đã được truyền noradrenaline, mạch vẫn chỉ lên được rất ít. Maxime bị chấn thương sọ não kèm bầm giập, thậm chí là tụ máu não. Chúng tôi ở lại trong một phòng chờ, nhưng nhân viên bệnh viện cho biết sự hiện diện của chúng tôi không có ý nghĩa gì. Tiên lượng là rất dè dặt, kể cả khi kết quả chụp chiếu toàn thân sẽ cho phép đánh giá các thương tổn một cách tổng thể hơn. Bảy mươi hai giờ sắp tới sẽ vô cùng quan trọng trong việc quyết định diễn biến tiếp theo của các sự việc. Trong ngầm ý của họ, tôi hiểu rằng mạng sống của Maxime đang trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Olivier không chịu rời bệnh viện, nhưng nài nỉ tôi quay về nhà nghỉ ngơi.
“Trông mặt cậu thật sự rất tệ, với lại tôi thích được chờ đợi một mình hơn, cậu biết đấy.”
Tôi đồng ý, thật lòng mà nói tôi cũng không mấy mong muốn mình có mặt ở bệnh viện khi cảnh sát đến lấy lời khai, rồi tôi băng qua bãi đỗ xe của bệnh viện dưới cơn mưa tầm tã. Chỉ trong vài giờ, thời tiết đã thay đổi hoàn toàn. Gió đã dịu, nhường chỗ cho một bầu trời nặng nề màu trắng xám, đầy những tia chớp và tiếng sấm ầm ì.
Tôi chui vào trong chiếc Mercedes của mẹ rồi kiểm tra điện thoại di động. Không có tin tức gì của cả Fanny lẫn cha tôi. Tôi cố gắng gọi cho hai người họ, nhưng không ai nghe máy. Chuyện này rất giống với tính cách của Richard. Chắc là ông đã tìm thấy mẹ tôi, và bây giờ khi ông đã yên tâm, thì mặc kệ quỷ tha ma bắt những người khác đi!
Tôi khởi động xe, nhưng vẫn ở trong bãi đỗ, để cho động cơ chạy. Tôi lạnh. Hai mắt tôi nhắm lại, cổ họng khô khốc, tâm trí vẫn còn mờ mịt vì rượu. Tôi hiếm khi mệt rã rời đến thế này. Tôi đã không ngủ trên máy bay đêm qua, và đêm hôm kia cũng không ngủ được bao nhiêu. Tôi đang phải trả giá cho việc lệch múi giờ, việc lạm dụng rượu vodka và sự căng thẳng. Tôi không còn làm chủ được suy nghĩ của bản thân, chúng nhảy múa trong đầu tôi. Bị bủa vây trong tiếng mưa nện xuống, tôi gục đầu vào tay lái.
Chúng ta phải nói chuyện, Thomas ạ. Tớ đã phát hiện ra một chuyện. Một chuyện rất nghiêm trọng đã… Những lời nói cuối cùng của Maxime ong ong trong tai tôi. Cậu ta có chuyện gì khẩn cấp đến thế cần nói với tôi? Cậu ta đã phát hiện ra chuyện gì rất nghiêm trọng? Tương lai thật ảm đạm. Tôi chưa chấm dứt việc điều tra, nhưng đã bắt đầu chấp nhận rằng mình sẽ không còn tìm thấy Vinca nữa.
Alexis, Vinca, Francis, Maxime… Danh sách các nạn nhân trong vụ này không ngừng dài chêm. Chính tôi là người phải chấm dứt nó, nhưng bằng cách nào đây? Mùi thơm bao trùm trong khoang lái khiến tôi chìm vào thời thơ ấu. Đó là mùi nước hoa trước đây mẹ tôi thường dùng. Jicky của Guerlain. Một mùi thơm bí ẩn và nồng nàn, pha trộn sự mát mẻ của các mùi hương xứ Provence – oải hương, cam quýt, hương thảo – và mùi thơm sâu đậm bền bỉ hơn của da thuộc và chồn hương. Trong một lát, tôi bấu víu vào từng tầng hương ấy. Mọi thứ đều dẫn tôi về với mẹ, luôn luôn là thế…
Tôi bật đèn trần. Một câu hỏi tầm thường: chiếc xe như thế này có giá bao nhiêu? Chắc tầm một trăm năm mươi ngàn euro. Mẹ tôi lấy đâu ra tiền để mua cho mình một chiếc xe như thế này? Cha mẹ tôi có khoản tiền lương hưu hậu hĩnh và một ngôi nhà đẹp mà họ đã mua vào cuối những năm 1970, khi thị trường bất động sản ở Côte d’Azur vẫn còn trong tầm tay của tầng lớp trung lưu. Nhưng chiếc xe này thì không giống con người bà chút nào. Đột nhiên, một tia sáng lóe lên trong óc tôi: không phải ngẫu nhiên mà Annabelle để chiếc xe mui trần này lại cho tôi. Hành động của bà đã được tính toán trước. Tôi nhớ lại cảnh tượng chiều nay. Annabelle đặt tôi trước một sự đã rồi. Bà không để cho tôi có lựa chọn nào khác ngoài việc mượn xe của chính bà. Nhưng tại sao?
Tôi xem xét chùm chìa khóa. Ngoài chìa khóa xe, tôi nhận ra chiếc chìa khóa nhà, rồi một chìa khóa dài hơn – chìa khóa hộp thư, cùng với một chiếc chìa khóa khác, khá to, được bọc bằng cao su đen. Ba chiếc chìa khóa treo vào một chiếc móc chìa khóa sang trọng: một hình ô van bằng da sần có in chìm hai chữ cái mạ crôm: một chữ A quấn quít với một chữ P. Nếu A là Annabelle, thì P là ai?
Tôi bật hệ thống GPS và đưa mắt liếc nhìn các địa chỉ đã được ghi lại trên đó từ trước, nhưng không thấy có bất kỳ điều gì đáng ngờ. Tôi ấn vào mục đầu tiên – Nhà – và trong khi bệnh viện nằm cách khu Constance chưa đầy hai ki-lô-mét, hệ thống GPS lại tính ra khoảng cách là hai mươi ki-lô-mét, với một lộ trình phức tạp bắt tôi phải đi qua bờ biển rồi tiến về hướng Nice.
Bối rối, tôi nhả phanh tay và ra khỏi bãi đỗ xe, vừa làm vừa tự hỏi đâu là cái nơi xa lạ mà mẹ tôi coi như nhà của bà.
2.Giữa đêm tối và mặc dù trời mưa, giao thông vẫn tuyệt đối thông thoáng. Trong chưa đầy hai mươi phút, được chỉ dẫn nhờ hệ thống GPS, tôi đã đến đích: một khu nhà nghỉ mát kiên cố nằm giữa đoạn đường từ Cagnes-sur-Mer đến Saint-Paul-de-Valence. Aurelia Park, chính là nơi Francis có một biệt thự riêng. Cũng chính là nơi ông đã bị sát hại. Tôi đỗ xe vào một khoảng lõm cách hàng rào đồ sộ hàn bằng sắt chừng ba chục mét, hàng rào này che chắn lối vào khu dinh thự. Sau làn sóng đột nhập năm ngoái, an ninh hẳn là được củng cố đáng kể. Một người gác cổng có dáng dấp như nhân viên chạy giấy đang trực đằng trước một trạm gác.
Một chiếc Maserati vượt qua tôi và tiến đến trước cánh cổng lớn. Có hai lối vào khu dinh thự. Ở bên trái, khách khứa phải báo với người gác cổng, trong khi chủ các dinh thự ở đây có thể đi vào bằng lối bên phải. Một đầu cảm biến sẽ quét biển đăng ký xe của họ và cánh cổng tự động mở ra. Không tắt máy, tôi dành thời gian suy nghĩ. Những chữ cái A và P dùng để chỉ Aurelia Park, khu dinh thự mà Francis là một trong những người góp vốn. Đột nhiên, một chi tiết hiện ra trong trí nhớ của tôi. Aurelia là tên riêng thứ hai của mẹ tôi. Một cái tên mà hình như mẹ tôi còn yêu thích hơn cả cái tên Annabelle. Một niềm tin chắc chắn khác lướt qua đầu tôi: chính Francis là người đã tặng chiếc xe mui trần này cho mẹ tôi.
Mẹ tôi và Francis là tình nhân của nhau chăng? Tôi chưa từng nghĩ đến giả thuyết ấy, nhưng lúc này, tôi thấy nó không hề điên rồ chút nào nữa. Tôi bật đèn hiệu và tiến vào lối dành cho các cư dân. Trời mưa to đến nỗi ít có khả năng người gác cổng nhìn rõ được mặt tôi. Đầu cảm biến quét biển đăng ký của chiếc Mercedes và cánh cổng mở ra. Nếu biển xe đã được đăng ký, thì dù thế nào, điều đó cũng có nghĩa là mẹ tôi rất quen thuộc với nơi này.
Vừa lái xe chầm chậm, tôi vừa đi theo con đường nhỏ rải nhựa chạy sâu vào trong một khu rừng trồng thông xen với ô liu. Được xây dựng vào cuối những năm 1980, Aurelia Park trở nên nổi tiếng bởi vì những người góp vốn đã tái lập một công viên Địa Trung Hải khổng lồ, trồng toàn những loại cây ngoại lai hiếm có. Kỳ công của họ, thứ đã làm tốn bao nhiêu giấy mực vào thời kỳ đó, còn là việc họ đã tạo ra một dòng sông nhân tạo chảy qua cả khu dinh thự.
Công viên chỉ gồm chừng ba chục ngôi nhà, nằm rất xa nhau. Tôi nhớ đã từng đọc trong bài báo của tờ Người quan sát rằng nhà của Francis mang số 27. Nó nằm ở phần cao nhất của khu dinh thự, giữa một khoảng cây cối rậm rạp. Trong Màn đêm, tôi nhìn thấy bóng của những cây cọ và những cây mộc lan cao lớn. Tôi đỗ xe trước cổng nhà bằng sắt hàn, ngự trị bên ngoài hai hàng rào dày rậm trồng toàn cây trắc bá.
Khi đến gần hai cánh cổng, tôi nghe thấy tiếng lách cách, và cánh cổng mở ra trước mặt tôi. Tôi hiểu rằng chiếc chìa khóa tôi đang cầm trên tay thực tế chính là một chiếc chìa khóa vạn năng thông minh, cho phép tiếp cận ngôi nhà theo phương thức điện tử. Trong lúc đi theo con đường lát đá, tôi ngạc nhiên nghe thấy tiếng nước chảy. Không phải là tiếng róc rách từ xa, mà như thể dòng sông chảy ngay dưới chân tôi. Tôi bật công tắc điện bên ngoài nhà: khu vườn và các hàng hiên khác đồng loạt sáng lên. Khi đi một vòng quanh nhà, tôi đã hiểu ra. Chẳng khác nào Biệt thự trên thác nước, kiệt tác của kiến trúc sư Frank Lloyd Wright, ngôi nhà của Francis được xây dựng ngay trên một dòng nước.
Đây là một công trình hiện đại, không mang nét gì của Provence hay Địa Trung Hải, mà đúng hơn nó nhắc ta nghĩ đến một số công trình kiến trúc của Mỹ. Với ba tầng nhà được trang trí bằng những mút chìa đỡ bao lơn, ngôi nhà là sự pha trộn các loại vật liệu – kính, đá sáng màu, bê tông cốt thép – và ăn nhập đến hoàn hảo với quần thể thực vật xung quanh cùng như vùng bình nguyên đá nơi nó được xây nên.
Ổ khóa kỹ thuật số tự động mở ngay khi tôi lại gần cánh cửa. Trước đó, tôi đã ngỡ rằng hệ thống báo động sẽ hoạt động. Đúng là có một hộp gắn trên tường, nhưng chẳng có thứ gì kêu lên cả. Ở đây cũng chỉ có một nút bấm duy nhất cho phép bật toàn bộ đèn trong nhà. Tôi ấn vào và nhìn thấy bên trong nhà, một cách bài trí vừa sang trọng vừa đẹp mắt.
Tầng trệt mở ra với một phòng khách, một phòng ăn và một phòng bếp theo phong cách mở. Giống như trong kiến trúc Nhật Bản, mọi ngăn cách trong không gian đều được xóa bỏ, các phòng chỉ được chia ra bởi những vách ngăn thoáng bằng gỗ sáng màu, để cho ánh sáng chiếu qua.
Tôi đi vài bước trong phòng và đưa mắt nhìn xung quanh một lượt. Tôi không hình dung nơi chốn riêng tư của Francis lại giống như thế này. Mọi thứ đều tinh tế và ấm áp. Lò sưởi lớn bằng đá trắng, những cây xà bằng gỗ sồi màu vàng, đồ đạc bằng gỗ hồ đào với những hình dạng tròn trịa. Trên quầy bar, một chai bia uống dở cho thấy có người mới ghé qua đây. Bên cạnh chai Corona, một bao thuốc lá và một chiếc bật lửa có vỏ sơn bóng được trang trí bằng một hình vẽ Nhật Bản.
Chiếc Zippo của Maxime…
Tất nhiên, chính cậu ta là người đã đến đây sau khi trò chuyện với tôi ở nhà mẹ tôi. Và điều cậu ta phát hiện ra đã khiến cậu ta choáng váng đến nỗi vội vàng rời đi, bỏ quên cả thuốc lá và bật lửa.
Khi lại gần mấy ô kính lớn kéo ngang, tôi nhận ra rằng chính tại chỗ này, Francis đã bị sát hại. Hẳn là ông đã bị tra tấn gần lò sưởi, có thể là bị bỏ mặc cho đến chết. Rồi ông lê người trên lớp ván sàn trơn láng này, đến tận bức tường kính rộng nhìn ra dòng sông. Ở đây, ông đã gọi được cho mẹ tôi. Nhưng thậm chí tôi còn không biết bà có nghe cuộc gọi ấy của ông hay không.
3.Mẹ tôi…
Tôi cảm thấy sự hiện diện của bà thấm đẫm trong ngôi nhà này. Tôi đoán thấy bàn tay bà sau mỗi đồ đạc, sau mỗi chi tiết trang trí. Ở đây cũng chính là nhà bà. Một tiếng kẹt của khiến tôi giật mình. Tôi quay lại và mặt đối mặt với bà.
Hay đúng hơn là chân dung mẹ tôi treo trên tường, ở phía bên kia phòng khách. Tôi tiến về phía khoảng không gian của ghế xô-pha kèm giá sách, nơi có treo nhiều bức ảnh khác nữa. Càng lại gần, tôi càng hiểu ra câu chuyện mà tôi đã không hề biết đến tận lúc này. Trong chừng mười lăm bức ảnh, hiện lên một thứ hồi ức về cuộc đời song song mà Francis và Annabelle đã sống trong suốt nhiều năm. Họ đã cùng nhau đi vòng quanh thế giới. Theo sự ngẫu nhiên của các bức ảnh, tôi nhận ra những địa điểm mang tính biểu tượng: sa mạc châu Phi, Vienna trong tuyết, tàu điện ở Lisbonne, thác Gullfoss ở Iceland, những cây bách trên đồng bằng Toscana, lâu đài của Eilean Donan ở Scotland, New York trước khi tòa tháp đôi sụp đổ.
Hơn cả các địa điểm, những nụ cười và vẻ thanh thản trên khuôn mặt hai người mới là thứ khiến tôi nổi da gà. Mẹ tôi và Francis yêu nhau. Trong suốt nhiều thập kỷ, họ đã duy trì một câu chuyện tình yêu trọn vẹn, nhưng bí mật. Một mối quan hệ không thể nghi ngờ và bền vững, được che giấu khỏi ánh mắt của tất cả mọi người.
Nhưng tại sao? Tại sao hai người không bao giờ chính thức tuyên bố chuyện tình của họ?
Tự đáy lòng mình, tôi đã biết câu trả lời. Hay đúng hơn là tôi đoán ra. Câu trả lời đó rất phức tạp và liên quan đến tính cách riêng của mỗi người. Annabelle và Francis là hai tính cách mạnh mẽ và dứt khoát, hẳn là người này đã tìm thấy sự trợ lực ở người kia trong lúc kiến tạo nên một bong bóng mà họ là hai kiến trúc sư duy nhất. Hai nhân cách mạnh mẽ luôn tự xây dựng bản thân chống lại cả thế giới. Chống lại sự tầm thường của nó, chống lại cái địa ngục của những người khác, thứ mà họ không ngừng phải thoát ra. Người đẹp và quái thú. Hai tính cách phi thường coi khinh những lề thói, những quy tắc, hôn nhân.
Tôi nhận ra mình đang khóc. Chắc hẳn là vì trên những bức ảnh chụp mẹ tôi tươi cười, tôi gặp lại một con người khác, con người tôi từng biết đến thuở ấu thơ, con người mà đôi khi sự dịu dàng vẫn trỗi dậy bên dưới chiếc mặt nạ lạnh lùng của người Áo. Hồi ấy tôi không điên. Tôi không hề mơ thấy tất cả những điều ấy. Người phụ nữ khác ấy quả thực có tồn tại, và hôm nay tôi đang nắm được bằng chứng về sự tồn tại ấy.
Tôi lau nước mắt, nhưng nó vẫn tiếp tục trào ra. Tôi xúc động trước cuộc sống kép đó, trước câu chuyện tình yêu đặc biệt chỉ thuộc về riêng hai người họ. Chẳng phải nói cho cùng, tình yêu thực sự chính là sự giải thoát khỏi mọi lề thói đó sao? Tình yêu thuần túy về mặt hóa học đó, Francis và mẹ tôi đã nếm trải nó, trong khi tôi chỉ bằng lòng với việc mơ mộng về nó hoặc khiến nó thăng hoa qua những cuốn sách.
Bức ảnh cuối cùng treo trên tường khiến tôi chú ý. Đó là một khung ảnh khổ nhỏ màu nâu đen, lồng một bức ảnh lớp học rất cũ chụp trên sân một ngôi làng. Một dòng chữ viết tay ghi chú: Montaldicio, ngày 12 tháng Mười năm 1954. Ngồi trên ba hàng ghế dài, đám trẻ trong đó chừng mười tuổi. Tất cả đều có mái tóc đen như gỗ mun. Ngoại trừ một cô bé tóc vàng, đôi mắt sáng, ngồi hơi tách ra một chút. Tất cả lũ trẻ đều nhìn vào ống kính, trừ một chú bé có khuôn mặt tròn trĩnh nhưng rắn rỏi. Khi người chụp ảnh bấm máy, Francis quay đầu đi và chỉ nhìn vào cô bé người Áo. Cô bé xinh nhất trường. Toàn bộ câu chuyện của hai người họ đã được ghi lại trong bức ảnh này. Mọi chuyện bắt đầu từ đó, vào thời niên thiếu, ở một ngôi làng nước Ý từng chứng kiến họ lớn lên.
4.Một cầu thang treo dây bằng gỗ mộc dẫn lên các phòng ngủ. Chỉ liếc mắt nhìn, tôi đã bao quát được cách phân bố không gian trên tầng hai: một phòng ngủ đôi rộng mênh mông và những công trình phụ trợ, phòng làm việc, phòng quần áo, phòng tắm hơi.
Còn hơn cả dưới tầng trệt, sự hiện diện khắp nơi của các diện tích lắp kính xóa tan ranh giới giữa bên trong và bên ngoài. Khung cảnh thật ngoạn mục. Ta cảm thấy rừng ở sát bên, và tiếng róc rách của dòng sông nhỏ hòa với tiếng mưa rơi. Một hàng hiên vách kính cho phép ta di chuyển đến tận một bể bơi có mái che mở ra dưới bầu trời và một khu vườn treo được tô điểm bằng những cây tử đằng, mimosa và anh đào Nhật Bản.
Trong một lát, tôi suýt quay ngược trở ra vì cảm thấy sợ hãi trước những gì mình có thể phát hiện ra ở đây. Nhưng bây giờ không còn là lúc để trì hoãn nữa. Tôi đẩy cánh cửa xoay của phòng ngủ và phát giác ra một vùng lãnh thổ còn thầm kín hơn nữa. Lại là những bức ảnh, nhưng lần này là ảnh tôi. Ở tất cả các độ tuổi của thời niên thiếu. Cái cảm giác vẫn không rời bỏ tôi suốt ngày hôm nay càng lúc càng trở nên rõ rệt theo tiến trình khám phá của tôi: khi điều tra về Vinca, tôi đang điều tra trước hết là về chính mình.
Hình ảnh cũ nhất là một bức ảnh đen trắng. Bệnh viện phụ sản Jeanne-d’Arc, ngày 8 tháng Mười năm 1974, T. chào đời. Một bức ảnh tự chụp đi trước thời đại. Chính Francis là người cầm máy. Ông ôm choàng lấy mẹ tôi, bà đang bế đứa bé mình vừa sinh ra. Và đứa bé ấy chính là tôi.
Sững sờ và hiển nhiên. Sự thật dữ dội đập vào mắt tôi. Một làn sóng cảm xúc nhấn chìm tôi. Khi rút đi, lớp bọt đầy sức mạnh thanh tẩy của nó khiến tôi chếnh choáng. Mọi chuyện đều đã rõ ràng, mọi thứ đã về đúng chỗ của nó, nhưng trong một cơn đau đớn tàn nhẫn. Mắt tôi nhìn hút vào bức ảnh. Tôi ngắm nhìn Francis và có cảm giác như đang nhìn chính mình qua một tấm gương. Làm sao tôi có thể mù quáng lâu đến thế? Bây giờ tôi đã hiểu hết. Tại sao tôi chưa bao giờ cảm thấy mình là con trai của Richard, tại sao tôi luôn coi Maxime như anh em ruột thịt, tại sao một bản năng nguyên thủy lại khiến tôi muốn tham chiến mỗi khi Francis bị tấn công.
Tràn ngập những cảm xúc trái ngược nhau, tôi ngồi xuống mép giường để lau nước mắt. Biết rằng mình chính là con trai của Francis đã giải thoát tôi khỏi một gánh nặng, nhưng biết rằng tôi không bao giờ còn có thể nói chuyện với người cha ruột lại khiến tôi vô cùng tiếc nuối. Một câu hỏi bắt đầu ám ảnh tôi: Richard có biết bí mật gia đình này cũng như cuộc sống kép của vợ ông không? Hẳn là có, nhưng cũng không chắc chắn. Có thể ông đã chơi trò đà điểu rúc đầu vào cát suốt những năm qua, mà không thực sự hiểu tại sao Annabelle lại bao dung cho vô vàn những chuyện điên rồ ông đã làm.
Tôi đứng dậy để rời khỏi phòng, nhưng rồi quay trở lại với ý định lấy bức ảnh ở bệnh viện phụ sản. Tôi cần phải mang nó theo, như một bằng chứng về gốc gác của bản thân. Khi nhấc khung ảnh lên, tôi phát hiện ra một cái két sắt nhỏ gắn chìm vào tường. Một bàn phím mời gọi tôi nhập vào đó sáu chữ số. Ngày sinh của, tôi chăng? Tôi không tin là thế, dù chỉ một giây, nhưng không ngăn cản được mình bấm thử. Đôi khi, điều hiển nhiên…
Cửa két mở ra sau một tiếng tách. Chiếc tủ bằng thép này không sâu lắm. Tôi chọc tay vào đó và lấy ra một khẩu súng. Khẩu súng chết tiệt mà Francis đã không kịp dùng đến khi bị tấn công. Trong một túi nhỏ bằng vải, tôi còn thấy chừng chục viên đạn cỡ 38. Vũ khí chưa bao giờ là niềm say mê của tôi. Thông thường, chúng chỉ gây ra cho tôi cảm giác thù ghét ghê tởm. Nhưng để có tư liệu viết tiểu thuyết, tôi từng buộc phải quan tâm đến chúng. Tôi nhấc khấu súng để ước chừng khối lượng của nó. Chắc nịch và nặng cay, nó giống với một khẩu Smith & Wesson cũ, mẫu 36. Khẩu Chiefs Special nổi tiếng với báng súng bằng gỗ và phần thân bằng thép.
Sự hiện diện của khẩu súng này đằng sau bức ảnh có ý nghĩa gì? Rằng hạnh phúc và tình yêu đích thực phải được bảo vệ bằng mọi giá chăng? Hay việc mưu cầu hạnh phúc và tình yêu luôn phải trả giá, có thể là bằng cả máu và nước mắt?
Tôi bỏ năm viên vào để lấp đầy ổ đạn rồi giắt khẩu súng vào thắt lưng. Tôi không chắc là mình biết sử dụng nó, nhưng tôi tin chắc là từ giờ trở đi hiểm nguy đang hiện diện khắp nơi. Bởi vì có kẻ nào đó đang nung nấu trong đầu ý định loại bỏ tất cả những người mà hắn cho là phải chịu trách nhiệm về cái chết của Vinca. Và bởi vì chắc chắn tôi là người tiếp theo trong danh sách của hắn.
Tôi vừa xuống đến chân cầu thang thì điện thoại di động đổ chuông. Tôi chần chừ không muốn nghe máy. Không bao giờ là tín hiệu tốt khi một ai đó gọi cho ta vào lúc 3 giờ sáng bằng số điện thoại được ẩn đi. Rốt cuộc, tôi quyết định nghe máy. Là cảnh sát. Cảnh sát trưởng Vincent Debruyne gọi cho tôi từ sở cảnh sát Antibes để báo cho tôi biết rằng người ta tìm thấy mẹ tôi đã chết, và cha tôi tự thú rằng chính ông đã giết bà.
AnnabelleAntibes
Thứ Bảy, ngày 13/05/2017
Tôi tên là Annabelle Dégalais. Tôi chào đời ở Ý vào cuối những năm 1940, trong một ngôi làng nhỏ vùng Piemonte. Và những phút tiếp theo đây có thể sẽ là những phút cuối cùng trong cuộc đời tôi.
Ngày 25 tháng Mười hai năm ngoái, khi Francis gọi cho tôi lúc nửa đêm trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông chỉ kịp thốt ra một câu ngắn ngủi: Hãy bảo vệ Thomas và Maxime…
Đêm đó, tôi hiểu rằng quá khứ đã quay trở lại. Cùng với bộ sậu kèm theo của nó là những đe dọa, hiểm nguy và cái chết. Sau đó, khi đọc những bài viết trên các báo kể lại những đau đớn mà Francis đã phải chịu đựng trước khi chết, tôi còn hiểu thêm rằng câu chuyện xưa cũ đó chỉ có thể kết thúc theo cách mà nó đã bắt đầu: trong máu và trong sợ hãi.
Tuy nhiên, trong suốt hai mươi lăm năm, chúng tôi đã giữ được khoảng cách với cái quá khứ ấy. Để bảo vệ các con mình, chúng tôi đã đóng chặt mọi cánh cửa, cẩn thận không để lại bất cứ dấu vết nào sau lưng mình. Sự cảnh giác đã trở thành bản chất thứ hai của chúng tôi, mặc dù, theo thời gian, tính đa nghi của chúng tôi đã mất đi tính chất bệnh hoạn của nó. Thậm chí có những ngày, nỗi lo lắng vẫn dai dẳng bám theo tôi suốt chừng ấy năm dường như bay biến. Tôi đã lơi lỏng cảnh giác, đương nhiên là thế. Và tôi đã sai lầm.
Cái chết của Francis suýt giết chết luôn cả tôi. Trái tim tôi tan nát. Tôi tưởng mình cũng sẽ ra đi. Khi mọi người đưa tôi vào bệnh viện, trong xe cứu thương, một phần trong con người tôi muốn được buông xuôi và đi theo Francis, nhưng một sức mạnh phản kháng đã níu tôi lại với cuộc sống.
Tôi phải tiếp tục đấu tranh để bảo vệ con trai mình. Sự trở lại của mối đe dọa kia đã cướp mất Francis của tôi, nhưng nó sẽ không tước đoạt được Thomas.
Cuộc chiến cuối cùng của tôi sẽ là kết thúc công việc, nghĩa là loại bỏ kẻ đang phá hoại tương lai của con trai tôi. Và bắt kẻ đó phải trả giá cho cái chết của người đàn ông duy nhất tôi từng yêu.
Sau khi ra viện, tôi chìm vào những kỷ niệm trước kia, và bắt đầu tiến hành cuộc điều tra của riêng mình để tìm hiểu xem kẻ nào, sau chừng ấy năm, vẫn còn muốn trả thù. Với sự tàn nhẫn, cơn giận dữ và lòng quyết tâm đáng sợ đến thế! Tôi không còn trẻ nữa, nhưng vẫn suy nghĩ minh mẫn. Dù đã dành toàn bộ thời gian để tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi của bản thân, tôi vẫn không tìm ra bất cứ manh mối nào. Tất cả những nhân vật có thể nuôi ý định trả thù đều đã chết hoặc đã rất già. Có điều gì đó mà chúng tôi không biết vừa xuất hiện xâm chiếm diễn tiến bình lặng trong cuộc sống của chúng tôi, và đe dọa sẽ làm cho cuộc sống ấy bị chệch hướng. Vinca đã ra đi mang theo một bí mật. Chúng tôi không hề biết đến sự tồn tại của điều bí mật ấy, và ngày nay nó trỗi dậy, gieo rắc cái chết trên đường đi của mình.
Tôi đã tìm kiếm khắp nơi, nhưng không tìm ra bất cứ điều gì. Cho đến vừa rồi, khi Thomas lôi mớ đồ cũ từ dưới hầm ngầm lên và bày chúng ra mặt bàn bếp. Đột nhiên, điều hiển nhiên đó đập vào mắt tôi. Tôi muốn khóc vì giận dữ. Sự thật nằm đó, ngay trước mắt chúng tôi, từ bấy lâu nay, bị che giấu bởi một chi tiết mà không người nào trong chúng tôi nhìn ra được.
Một chi tiết làm thay đổi tất cả.
*Trời vẫn còn sáng khi tôi đến Mũi Antibes. Tôi dừng xe trước một mặt tiền màu trắng nhìn ra đại lộ Bacon, nhưng không cho phép ta đoán biết được điều gì đáng kể về tầm vóc cũng như phạm vi của ngôi nhà. Tôi đỗ xe hàng đôi và bấm chuông cổng. Một người làm vườn đang cắt tỉa hàng rào cho tôi biết là người tôi tìm kiếm đang dắt chó đi dạo trên đường mòn Tire-Poil.
Tôi tiếp tục lái xe đi theo con đường đó chừng vài ki-lô-mét nữa, đến tận bãi đỗ xe nhỏ trên bãi biển Keller, đoạn giao cắt giữa đường Garoupe và đại lộ André-Sella. Nơi này rất vắng vẻ. Tôi mở cốp xe lấy ra khẩu súng trường mà tôi đã mượn của Richard.
Để có thêm dũng khí, tôi nhớ đến những cuộc đi săn, vào sáng Chủ nhật, cùng với cha nuôi của mình, trong những dãy núi phủ đầy cây rừng rậm rạp. Tôi rất thích đi cùng ông. Mặc dù chúng tôi không nói chuyện nhiều với nhau, nhưng đó là khoảng thời gian đầy chia sẻ có ý nghĩa hơn cả những bài diễn thuyết dông dài. Tôi trìu mến nhớ đến Butch, con chó săn lông xù Ireland của chúng tôi. Luôn cảnh giác rình chờ những chú gà gô, những con chim dẽ và những con thỏ, Butch có một cách thức riêng biệt để tiếp cận và cầm chân con mồi trước khi chúng tôi có thể bắn hạ chúng.
Tôi nhấc khẩu súng để đoán trọng lượng của nó, vuốt ve báng súng bằng gỗ hồ đào quang dầu bóng loáng, rồi trong một lát, tôi ngắm nghía những nét chạm khắc tinh tế trang trí khẩu súng. Tách một tiếng, tôi bẻ nòng súng báng thép lên và nhét hai viên đạn vào trong ổ. Rồi bước vào con đường hẹp chạy men theo mép sóng.
Đi được chừng năm mươi mét, một hàng rào khiến ta nản chí không muốn đi xa thêm. Khu vực nguy hiểm – cấm vào. Thủ phạm gây ra việc này là những đợt sóng lớn hôm thứ Tư tuần trước, hẳn là đã làm đất đá sạt lở. Tôi vòng qua chướng ngại vật bằng cách nhảy lên vách đá.
Không khí biển khiến tôi dễ chịu, và toàn bộ khung cảnh choáng ngợp trải dài đến tận dãy Alpes nhắc tôi nhớ mình từ đâu tới. Đến một chỗ ngoặt trên bờ biển dốc đứng, tôi nhìn thấy vóc dáng cao và thanh mảnh của kẻ đã sát hại Francis. Ba con chó to tướng vây quanh kẻ đó đang dàn hàng ngang tiến về phía tôi.
Tôi kê súng lên vai. Ánh mắt tôi lướt về phía mục tiêu. Nó nằm trong đường ngắm của tôi. Tôi biết là mình sẽ không có cơ hội thứ hai.
Khi cú đánh giáng xuống, rõ ràng, ngắn gọn và nhanh chóng, tất cả như quay trở lại đập vào mặt tôi.
Montaldicio, những quang cảnh nước Ý, ngôi trường nhỏ, quảng trường làng, những lời nhục mạ, bạo lực, máu, niềm tự hào vì vẫn đứng vững, nụ cười khôn cưỡng của Thomas khi thằng bé lên ba tuổi, tình yêu suốt cuộc đời của một người đàn ông khác biệt với những người khác.
Tất cả những gì có ý nghĩa trong cuộc đời tôi…