← Quay lại trang sách

Chương 18 Cô gái và Màn đêm

Cuối cùng chúng ta đã có được các mảnh ghép, nhưng theo cách chúng ta sắp đặt chúng, những lỗ hổng sẽ vẫn tồn tại […], giống như những xứ sở mà chúng ta không thể gọi tên.

Jeffrey EUGENIDES

1.

Chiếc mobylette đã trút hơi thở cuối cùng. Nắm chặt tay lái, tôi guồng chân đạp như điên. Như một nữ công, tôi nhỏm lên khỏi yên xe, giống như đang dồn sức leo lên đỉnh Ventoux đồng thời kéo theo một vật nặng năm mươi cân.

Nằm trên đại lộ Bacon, ở rìa Mũi Antibes, nhìn từ ngoài phố, biệt thự Fitzgerald hiện ra chẳng khác nào một cái lô cốt. Mặc dù nó được gọi tên như thế, nhưng nhà văn người Mỹ chưa bao giờ sống ở đây, tuy nhiên các huyền thoại thường sống dai, cả ở Côte d’Azur hay ở bất cứ nơi nào khác. Năm mươi mét trước khi đến đích, tôi bỏ lại chiếc mobylette trên vỉa hè và bước qua thành lan can chạy dọc bờ biển. Ở nơi này của Mũi Antibes, những bãi biển cát vàng đã nhường chỗ cho một dải bờ biển nham nhở và rất khó tiếp cận. Những khối đá dốc đứng hiểm trở, được đẽo gọt bởi gió mistral, và những vách đá dựng đứng cắm sâu xuống biển. Tôi khó nhọc lê người trên những vách đá, và mặc kệ nguy cơ ngã gãy cổ, tôi trèo lên sườn vách dốc đứng cho phép tiếp cận ngôi biệt thự từ phía sau.

Tôi bước vài bước trên phần bờ láng bê tông của bể bơi – một hình chữ nhật màu xanh lơ nhô ra trước biển và được kéo dài bởi một cầu thang đẽo vào vách đá dẫn xuống tận một ụ nổi nhỏ. Treo mình vào vách đá, biệt thự Fitzgerald dầm chân trong nước biển theo đúng nghĩa của từ này. Đây là một trong những tòa nhà theo phong cách hiện đại, được xây dựng vào những năm tháng Điên rồ(1), với lối kiến trúc pha trộn giữa ảnh hưởng của trào lưu Art déco và những nét chấm phá Địa Trung Hải. Được sơn màu trắng, mặt tiền mang phong cách hình học được che bởi phần mái bằng và tô điểm bởi một hàng hiên có giàn cây phủ kín. Vào giờ này trong ngày, trời và biển hòa làm một trong sắc xanh rực rỡ: sắc màu của sự vô tận.

Bị xuyên thủng bởi các cửa tò vò, một hành lang có mái che được dùng làm nơi tiếp khách mùa hè. Tôi đi dọc theo hàng hiên cho đến khi tìm thấy một ô cửa kính hé mở, cho phép tôi xâm nhập ngôi nhà.

Nếu loại trừ tầm nhìn ra khoảng mênh mông xanh ngắt thay vì nhìn ra sông Hudson, thì phòng chính của tòa nhà hơi giống căn phòng áp mái của tôi ở TriBeCa: một không gian thanh khiết nơi từng chi tiết đều được chăm chút. Kiểu không gian ta thường nhìn thấy trong những bức ảnh đăng trên các tạp chí hoặc các blog về nghệ thuật trang trí. Trong thư viện, tôi bắt gặp những cuốn sách gần giống như ở nhà mình, thể hiện cùng một văn hóa đọc: kinh điển, văn học, quốc tế.

Ở đây cũng ngự trị một sự sạch sẽ đáng ngờ của những căn nhà không có trẻ con sinh sống. Sự lạnh lẽo hơi buồn tẻ của những căn nhà không được tưới tắm bởi điều cốt tủy của cuộc sống: những tiếng cười của lũ trẻ, những con thú bông và những mảnh ghép Logo trong khắp các ngóc ngách, những vụn bánh bích quy dính trên mặt bàn và dưới gầm bàn…

“Rõ ràng việc tự dẫn xác tới hang hùm đã trở thành thói quen trong gia đình cậu rồi.”

Tôi quay ngoắt lại và nhìn thấy Alexis DeVille, bà ta đứng cách tôi chừng mười mét. Hôm qua, tôi đã nhìn thấy bà ta, trong lễ kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập trường Saint-Ex. Bà ta ăn vận giản dị – quần jean, áo sơ mi kẻ sọc, áo thun cổ chữ V, giày Converse – nhưng vẫn thuộc nhóm những người có phong thái và có sự khác biệt trong mọi khung cảnh. Một dáng dấp oai vệ được củng cố bởi ba con chó lớn đang kích động sau lưng bà ta: một con doberman có đôi tai đã được cắt, một con chó sục Mỹ có bộ lông màu vàng hung và một con rottweiler đầu bẹt.

Khi nhìn thấy ba con chó, toàn bộ thân người tôi căng lên. Tôi hối tiếc vì đã đến đây mà không mang theo thứ gì để tự vệ. Tôi rời khỏi nhà cha mẹ trong cơn bốc đồng, bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ điên cuồng. Vả lại, tôi vẫn luôn nghĩ rằng vũ khí của tôi chính là bộ óc. Một bài học mà tôi nhận được từ thầy giáo tôi, Jean-Christophe Graff, nhưng khi nghĩ đến những gì Alexis DeVille đã làm với mẹ tôi, với Francis và Maxime, tôi tự nhủ mình đã sai lầm khi hành động xốc nổi như thế này.

Bây giờ, khi đã lần ngược đến tận ngọn nguồn sự thật, tôi cảm thấy rất đỗi hoang mang. Trong thâm tâm, tôi không chờ đợi điều gì được nói ra từ miệng Alexis DeVille. Chẳng phải tôi đã hiểu hết mọi chuyện rồi đó sao? Nếu như ta có thể hiểu được bất cứ điều gì trong tình cảm yêu đương… Tuy nhiên, tôi hình dung khá rõ ràng sự thán phục lẫn nhau mà hai người phụ nữ, Vinca và Alexis, hai con người thông minh, tự do và xinh đẹp, đã cảm nhận được vào thời kỳ ấy. Nỗi hưng phấn trước sự đồng cảm về tâm hồn, nỗi ngất ngày về thể xác, sự cám dỗ của việc vi phạm. Mặc dù điều này khiến tôi khó chịu, nhưng Alexis DeVille và chính bản thân tôi cũng không khác nhau nhiều lắm. Hai mươi lăm năm trước, chúng tôi cùng yêu một cô gái và chưa bao giờ hồi phục lại được sau chuyện ấy.

Cao lớn, mảnh mai, làn da hoàn hảo và trơn láng khiến ta không biết gán cho bà ta độ tuổi nào, Alexis DeVille cuộn mái tóc lại thành một búi. Dường như bà ta tin chắc rằng mình làm chủ được tình thế. Ba con chó không rời mắt khỏi tôi, nhưng bà ta tự tặng cho mình thú vui xa xỉ là quay lưng lại với tôi và ngắm nghía những bức ảnh treo gần như khắp các bức tường. Những bức ảnh đầy gợi cảm của Vinca mà Dalanegra đã kể với tôi. Với một người mẫu như thế, nhiếp ảnh gia đã thăng hoa. Ông đã nắm bắt hoàn hảo vẻ đẹp mơ hồ và khiến ta ngây ngất của cô thiếu nữ. Sự phù du của tuổi trẻ. Cuộc sống của những bông hồng.

2.

Tôi quyết định chuyển sang tấn công.

“Bà tự thuyết phục mình rằng bà luôn yêu Vinca, nhưng điều đó là hoàn toàn sai. Người ta không giết những người mà mình yêu.”

DeVille dứt mình khỏi việc ngắm nghía những bức ảnh để soi mói nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh băng đầy khinh miệt.

“Ta có thể dễ dàng trả lời cậu rằng giết ai đó đôi khi lại là hành động của tình yêu tuyệt đối. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đó. Ta không phải người giết Vinca, mà chính là cậu.”

“Tôi ư?”

“Cậu, mẹ cậu, Fanny, Francis Biancardini và con trai lão ta… Ở một mức độ nào đó, tất cả các người đều có phần trách nhiệm. Tất cả đều là thủ phạm.”

“Chính Ahmed đã kể cho bà nghe chuyện đó, đúng không?”

Bà ta tiến về phía tôi, được hộ tống bởi mấy con chó. Tôi nghĩ đến Hecate, nữ thần bóng tối trong thần thoại Hy Lạp, người luôn được hộ tống bởi một bầy chó tru dưới ánh trăng. Hecate là nữ thần ngự trị những cơn ác mộng, những ham muốn bị dồn nén, những vùng tâm trí nơi đàn ông và đàn bà trở nên ô trọc và mong manh nhất.

“Mặc dù có những lời chứng không thể phản bác, ta vẫn không bao giờ tin được rằng Vinca lại bỏ trốn cùng với gã đó,” Alexis sôi nổi nói. “Trong suốt nhiều năm, ta đã truy tìm sự thật. Và bởi một hành động tàn nhẫn của số phận, đúng lúc ta không còn chờ đợi nó nữa thì sự thật lại được dâng đến trước mặt ta.”

Lũ chó kích động và gầm gừ về phía tôi. Cơn hoảng loạn bắt đầu xâm chiếm tôi. Tôi tê liệt khi nhìn lũ chó. Tôi cố không nhìn vào mắt chúng, nhưng chắc chắn là chúng cảm nhận được cảm giác khó ở của tôi.

“Chuyện xảy ra khoảng hơn bảy tháng trước,” Alexis nói tiếp, “ở quầy rau củ quả trong một siêu thị. Ahmed đã nhận ra ta trong lúc ta đang mua sắm. Và ông ta đã đề nghị được nói chuyện với ta. Cái đêm Vinca chết, Francis đã yêu cầu ông ta đi lấy một số đồ dùng của cô ấy và lau chùi căn phòng để xóa bỏ toàn bộ các dấu vết có thể gây hại cho các người. Khi lục túi một chiếc áo khoác, ông ta bắt gặp một bức thư khác cùng một bức ảnh. Chỉ có mình ông ta là hiểu ra ngay từ đầu rằng Alexis chính là ta. Một bí mật mà lão già ngớ ngẩn đó đã giữ kín trong suốt hai mươi lăm năm.”

Đằng sau vẻ ngoài bình thản, tôi đoán ra rằng bà ta đang giận dữ điên cuồng.

“Ahmed cần tiền để về quê, còn ta thì muốn những thông tin đó. Ta đã cho ông ta năm ngàn euro và ông ta kể hết mọi chuyện với ta: hai cái xác bị nhét trong tường tòa nhà thể chất, nỗi kinh hoàng trong cái đêm tháng Mười hai năm 1992 đã khiến Saint-Exupéry vấy máu, việc băng đảng các người thoát tội.”

“Chỉ nhắc đi nhắc lại một câu chuyện thì không đủ để biến nó thành sự thật. Chỉ có một người duy nhất phải chịu trách nhiệm về cái chết của Vinca và người đó chính là bà. Thủ phạm của một tội ác không phải lúc nào cũng là người cầm vũ khí, và bà biết rất rõ điều đó.”

Lần đầu tiên, khuôn mặt Alexis DeVille nhăn lại vì phật ý. Như để trả lời cho một mệnh lệnh ngầm từ nữ thần của chúng, ba con chó xông lại vây lấy tôi. Mồ hôi đột ngột toát ra làm tôi lạnh sống lưng. Nỗi sợ hãi trong tôi đã trở nên không thể kiểm soát. Thông thường, tôi sẽ đủ khả năng ngăn chặn nỗi sợ xâm nhập mình, trấn an bản thân và tự nhủ rằng những nỗi sợ của tôi là không có cơ sở và bị phóng đại. Chỉ có điều, trong trường hợp cụ thể này, ba con chó rất hung dữ và đã được huấn luyện để tấn công. Bất chấp nỗi sợ, tôi nói tiếp:

“Tôi vẫn nhớ hồi đó bà là người thế nào. Tôi vẫn nhớ sức hấp dẫn và ánh hào quang tỏa ra từ bà. Tất cả học sinh đều ngưỡng mộ bà. Tôi là người đầu tiên. Một cô giáo trẻ trung ở tuổi ba mươi, giỏi giang, xinh đẹp, tôn trọng học sinh và biết cách nâng chúng lên. Ở lớp dự bị văn chương, mọi nữ sinh đều muốn giống bà. Bà là biểu tượng của một kiểu tự do và độc lập nhất định. Đối với tôi, bà đại diện cho chiến thắng của trí thông minh trước sự tầm thường của thế giới. Phiên bản nữ giới của thầy Jean-Christophe Graff và…”

Nghe nhắc đến tên thầy giáo cũ của tôi, bà ta phá lên cười độc địa.

“A! Gã Graff khốn khổ đó! Cả gã cũng là một kẻ ngu xuẩn, nhưng thuộc thể loại khác: một gã ngu xuẩn có học thức. Cả gã cũng chẳng đoán ra điều gì. Trong suốt nhiều năm liền, gã đã kiên trì theo đuổi ta. Gã viết tặng ta những vần thơ và những bức thư bốc lửa. Gã lý tưởng hóa ta cũng giống như cậu lý tưởng hóa Vinca. Đó chính là đặc trưng của những người đàn ông như cậu. Các người khẳng định là yêu phụ nữ, nhưng các người không hiểu gì về bọn ta và không tìm cách để hiểu bọn ta. Các người không lắng nghe bọn ta và các người không muốn lắng nghe bọn ta. Đối với các người, bọn ta chỉ là công cụ để các người thực hiện những mơ mộng lãng mạn của mình mà thôi.”

Để nhấn mạnh thêm những phát biểu của mình, Alexis trích dẫn Stendhal và tiến trình kết tinh tình yêu của ông: “Khi bạn bắt đầu quan tâm đến một người phụ nữ, bạn không còn nhìn nhận cô ta đúng như con người thực của cô ta, mà như con người mà bạn muốn cô ta trở thành.”

Nhưng tôi sẽ không để cho bà ta thoát khỏi chuyện này bằng những lập luận kiểu mọt sách đó nữa. Bà ta đã phá hủy Vinca khi yêu cô, và tôi muốn bà ta phải thừa nhận điều ấy.

“Trái ngược với những gì bà vừa nói, tôi rất hiểu Vinca. Ít ra là trước khi cô ấy gặp bà. Và tôi không có kỷ niệm nào về một cô gái uống rượu hoặc ngốn các loại thuốc kích thích. Bà đã làm tất cả để có thể chế ngự được tinh thần cô ấy, và bà đã thành công. Đó là một con mồi dễ dàng đối với bà: một cô gái trẻ bồng bột muốn khám phá lạc thú và dục vọng.”

“Ta đã khiến cô ấy hư hỏng, phải thế không?”

“Không, tôi nghĩ bà đã đẩy cô ấy đến chỗ dùng chất kích thích và rượu bởi vì những thứ đó làm thay đổi khả năng nhận định của cô ấy, và khiến cô ấy trở nên dễ điều khiển.”

Răng nanh chìa ra, ba con chó lượn vòng quanh và hít ngửi hai bàn tay tôi. Con doberman gí mõm vào phần trên đùi tôi, buộc tôi phải lùi sát vào lưng một chiếc ghế xô-pha.

“Ta đã đẩy cô ấy vào vòng tay cha cậu bởi vì đó là giải pháp duy nhất để bọn ta có thể có một đứa con.”

“Sự thật là đứa con ấy chính là thứ bà muốn! Và chỉ có mình bà muốn thôi!”

“Không! Vinca cũng muốn có nó!”

“Trong hoàn cảnh lúc ấy ư? Tôi nghi ngờ điều đó đấy.”

Alexis DeVille sôi sục. “Cậu không thể phán xét bọn ta được. Ngày nay, mong muốn có con của các cặp đồng tính nữ đã được thừa nhận, chấp nhận, và thường được tôn trọng. Suy nghĩ của mọi người đã thay đổi, luật pháp đã tiến bộ, khoa học đã phát triển. Nhưng vào đầu những năm 1990, tất cả những chuyện đó đều bị phủ định, bị bác bỏ.”

“Hồi ấy bà có tiền, lẽ ra bà có thể làm cách khác.”

Bà ta phản đối. “Hồi ấy ta chẳng có gì hết, chính là thế đấy! Những người cấp tiến thực sự không giống như người ta vẫn tưởng. Sự bao dung của gia đình nhà DeVille ở California, chỉ là vẻ bề ngoài. Tất cả các thành viên trong gia đình ta đều là những kẻ đạo đức giả, hèn nhát và tàn nhẫn. Họ phản đối cách sống cũng như xu hướng tình dục của ta. Hồi ấy, họ đã cắt đứt nguồn sống của ta suốt nhiều năm. Bằng cách nhắm đến con mồi là cha cậu, bọn ta đã bắn một mũi tên trúng hai đích: có con và có tiền.”

Những tranh luận giữa tôi và bà ta chẳng đi đến đâu cả. Mỗi người vẫn giữ quan điểm của riêng mình. Có thể bởi vì không thể nào tìm ra người phải chịu trách nhiệm. Có thể bởi vì cả hai chúng tôi đều vừa là thủ phạm lại vừa vô tội, vừa là nạn nhân vừa là đao phủ. Có thể bởi vì chỉ có một sự thật duy nhất, đó là thừa nhận rằng, vào năm 1992, ở trường trung học Saint-Exupéry thuộc Cụm Công nghệ cao Sophia Antipolis, tùng có một cô gái quyến rũ, người đã khiến tất cả những ai được bước vào cuộc đời cô đều trở nên điên rồ. Bởi vì, khi ở bên cô, ta có ảo tưởng điên rồ rằng chính sự tồn tại của cô là một câu trả lời cho câu hỏi mà tất cả chúng ta đều tự đặt ra cho bản thân: làm thế nào để vượt qua Màn đêm?

3.

Bầu không khí chìm trong một sự căng thẳng đầy độc hại. Lúc này, ba con chó đã dồn tôi sát vào tường và không còn nghi ngờ gì về việc chúng đã chiếm thế thượng phong. Tôi cảm thấy điều nguy hiểm sắp xảy ra, tiếng tim tôi đập thình thình, chiếc áo sơ mi đẫm mồ hôi dính bết vào da, hành trình không thể đảo ngược về phía cái chết. Chỉ bằng một cử chỉ, chỉ bằng một lời nói, DeVille có khả năng chấm dứt cuộc sống của tôi. Lúc này, khi đã đi đến chặng cuối cùng của cuộc điều tra, tôi nhận ra rằng mình chỉ có một lựa chọn: giết người hoặc bị giết. Bất chấp nỗi sợ hãi, tôi nói tiếp:

“Lẽ ra bà có thể xoay xở để nhận nuôi một đứa trẻ, hoặc tự bà mang thai nó.”

Bị xâm chiếm bởi một nỗi điên cuồng đầy hủy diệt và bốc đồng, bà ta xáp lại gần tôi và giơ ngón tay trỏ một cách đầy đe dọa, chỉ cách mặt tôi vài xăng-ti-mét.

“Không! Ta muốn một đứa con của Vinca. Một đứa trẻ mang gen của cô ấy, sự hoàn hảo của cô ấy, sự duyên dáng và sắc đẹp của cô ấy. Sự kéo dài tình yêu của hai người bọn ta.”

“Tôi được biết về các đơn thuốc Rohypnol mà bà đã cho cô ấy dùng thông qua bác sĩ Rubens. Thật là một thứ tình yêu quái gở, khi mà để thăng hoa, bà lại phải giữ người kia bằng cách cho người ấy dùng ma túy, bà không thấy thế sao?”

“Đồ nhãi ranh khốn kiếp…”

DeVille không còn biết nói gì nữa. Chính bà ta cũng càng lúc càng khó kiềm chế mong muốn tấn công của ba con chó. Lồng ngực tôi thắt lại, tôi cảm thấy như có một mũi dao đâm vào tim và đầu óc tôi bỗng choáng váng. Tôi cố gắng lờ cảm giác ấy đi, và tiếp tục xoáy thêm vào nỗi đau của bà ta:

“Bà có biết câu cuối cùng Vinca thốt lên trước khi chết là gì không? Cô ấy đã bảo tôi: Alexis ép tớ, tớ không muốn ngủ với ông ấy. Trong suốt hai mươi lăm năm, tôi đã hiểu sai ý nghĩa của câu nói đó, và điều ấy đã phải trả giá bằng mạng sống của một người đàn ông. Nhưng giờ thì tôi biết câu ấy có nghĩa là: ‘Alexis DeVille đã ép tớ ngủ với cha cậu, nhưng tớ không muốn làm thế.’”

Tôi cảm thấy khó thở. Cả người tôi run lên. Để chạy trốn khỏi cơn ác mộng này, tôi có cảm giác rằng lối thoát duy nhất có lẽ là tôi phải biết phân thân.

“Bà thấy đấy, Vinca chết khi biết rõ ràng bà là loại rác rưởi đến thế nào. Và dù có cho xây hàng ngàn Vườn Thiên thần, bà cũng không bao giờ viết lại được lịch sử.”

Điên cuồng vì giận dữ, Alexis DeVille ra hiệu tấn công.

Chính con chó sục Mỹ tấn công đầu tiên. Sức mạnh bùng nổ của nó khiến rồi bật ngửa. Trong lúc ngã nhào xuống sàn, đầu tôi va vào tường, rồi đập vào cái góc sắc nhọn của một chiếc ghế tựa bằng kim loại. Tôi cảm thấy những chiếc răng nanh xuyên vào cổ mình, tìm kiếm động mạch cảnh. Tôi cố đẩy con chó ra, nhưng không được.

Ba tiếng súng vang lên. Viên đạn đầu tiên bắn vào con chó đang cắn nát gáy tôi và làm hai đồng loại của nó bỏ chạy. Hai viên tiếp theo bắn ra trong lúc tôi vẫn nằm trên sàn. Đến khi tỉnh táo trở lại, tôi nhìn thấy thân hình Alexis DeVille bị văng ra gần lò sưởi trong một cơn lốc máu. Tôi quay đầu nhìn về phía ô cửa kính. Vóc dáng Richard hiện ra trong ánh ngược sáng.

“Sẽ ổn cả thôi, Thomas ạ,” ông trấn an tôi bằng giọng đầy an ủi.

Vẫn là câu ông thường nói khi tôi lên sáu tuổi và mơ thấy ác mộng ban đêm. Bàn tay ông không run rẩy. Nó nắm chắc cái báng bằng gỗ của khẩu Smith & Wesson của Francis Biancardini.

Cha tôi đỡ tôi đứng dậy trong lúc vẫn cảnh giác phòng khi một trong hai con chó quay trở lại tấn công chúng tôi. Khi ông đặt tay lên vai tôi, trong một lát, tôi trở lại là thằng bé sáu tuổi hồi ấy. Và tôi nhớ đến cái giống loài đang trên đà tuyệt chủng bao gồm những người đàn ông thuộc thế hệ trước đây, chẳng hạn như Francis và Richard. Những người đàn ông sắt đá, góc cạnh, với hệ giá trị thuộc về một thời đại khác. Những người đàn ông ngày nay bị người ta phỉ nhổ, bởi vì người ta thấy nam tính của họ là thứ đáng xấu hổ và lạc hậu. Nhưng là những người đàn ông mà tôi đã may mắn được gặp hai lần trên đường đời. Bởi vì họ không ngần ngại khiến tay mình vấy bẩn để cứu vớt cuộc đời tôi.

Bằng việc thọc tay xuống tận đáy một vũng máu lớn.

Chú Thích:

Cách người Pháp gọi thập niên 1920.