Mười
Khi tôi mười bốn tuổi, ba mẹ muốn tôi đến gặp một chuyên viên tư vấn tâm lý vào sau giờ học những ngày thứ Hai. Họ đã không phải thuyết phục tôi quá nhiều. Ngay khi ba mẹ nói rằng tôi có thể hỏi tất cả những gì tôi muốn và người này có đủ khả năng trả lời mọi câu hỏi, tôi ngay lập tức trở nên hào hứng hơn với việc gặp người đó tại trường.
Tôi biết ba mẹ đã cảm thấy thất bại với tôi. Tôi có thấy điều đó qua những biểu hiện của họ khi bảo tôi ngồi vào bàn ăn trong nhà bếp, với cốc sữa và vài cái bánh quy ở giữa bàn và chiếc máy giặt vẫn chạy rầm rì ở phía sau như mọi khi. Mẹ tôi nắm chặt chiếc khăn giấy cuộn tròn trong tay như thể trước đó bà đã dùng nó để lau đi những giọt nước mắt. Ba mẹ tôi là như vậy: họ không bao giờ để tôi thấy sự yếu đuối của họ nhưng họ luôn quên không xóa đi những dấu vết nói lên điều đó.
Tôi không thấy những giọt nước mắt của mẹ nhưng tôi thấy chiếc khăn giấy trong tay bà. Tôi không nghe thấy cơn giận dữ của ba vì ba đã không thể làm gì giúp tôi nhưng tôi thấy điều đó trong mắt ông.
“Mọi việc đều ổn chứ ba?” Tôi nhìn vào khuôn mặt cứng rắn của họ. Chỉ khi một điều tồi tệ xảy ra, con người ta mới có thể trông đầy tự tin như thể họ có thể đối mặt với bất cứ điều gì vậy. “Có điều gì đó phải không?”
Ba tôi cười. “Không, con gái yêu ơi, không có gì phải lo lắng đâu, không có chuyện gì xấu cả.”
Mẹ nhướng mày khi nghe ba nói thế và tôi biết bà không đồng ý. Tôi biết ba cũng khôn đồng ý với câu trả lời của mình nhưng ông vẫn phải nói vậy. Chằng có gì sai trái khi gửi tôi đến gặp một chuyên viên tư vấn, nhưng tôi biết ba mẹ muốn được đích thân giúp đỡ tôi. Họ mong rằng các câu trả lời của họ đủ để giải đáp những thắc mắc của tôi. Tôi đã nghe lỏm được những cuộc tranh luận bất tận của họ trong việc làm thế nào để điều chỉnh các hành vi của tôi một cách đúng đắn nhất. Họ đã có gắng giúp tôi bằng mọi cách có thể. Giờ đầu tôi có thể cảm nhận được sự thất vọng của họ và tôi ghét chính mình vì đã làm cho ba mẹ cảm thấy như vậy.
“Con có biết mình đã đặt ra quá nhiều câu hỏi không, con gái?” Ba giải thích với tôi.
Tôi gật đầu.
“Vậy là tốt rồi, mẹ và ba –“ ba nhìn sang mẹ để tìm một sự ủng hộ và ngay lập tức đôi mắt mẹ dịu lại khi nhìn ba – “mẹ và ba đã tìm được một người để con có thể nói chuyện về tất cả những thắc mắc của con.”
“Người này có thể trả lời mọi câu hỏi của con ư?” Tôi cảm thấy mắt mình mờ to và tim đập nhanh hơn như thể tất cả những bí ẩn trong cuộc sống sắp được giải đáp.
“Mẹ hi vọng như vậy, con yêu ạ!” Mẹ trả lời. “Mẹ hi vọng qua cuộc nói chuyện với người đó, sẽ không còn nhiều câu hỏi khiến con bận tâm nữa. Ông ấy hiểu biết hơn ba mẹ rất nhiều về những điều mà con đang lo lắng.”
Sau đó là màn hỏi nhanh đáp gọn của tôi. Các ngón tay sẵn sàng trên phím trả lời.
“Người đó là ai vậy?”
“Thầy Burton.” Ba nói.
“Tên thầy là gì ạ?”
“Gregory.” Mẹ trả lời.
“Thầy làm việc ở đâu?”
“Ở trường.” Mẹ tiếp tục.
“Khi nào con sẽ gặp thầy?”
“Sau giờ học các ngày thứ Hai. Trong khoảng một tiếng.” Mẹ lại trả lời. Trong những cuộc thi như thế này mẹ thường chơi tốt hơn ba. Mẹ đã quen với các cuộc đối thoại kiểu này trong khi ba bận rộn đi làm ở ngoài.
"Thầy ấy là một bác sĩ tâm lý đúng không ạ?" Tôi biết ba mẹ không bao giờ nói dối tôi.
“Đúng vậy, con ạ.” Ba nói.
Tôi nghĩ đó là thời điểm tôi bắt đầu chán ghét hình ảnh của mình trong đôi mắt ba mẹ, và thật không may đó là sự khởi đầu của việc tôi không thích ở bên họ nữa.
Văn phòng của thầy Burton là một căn phòng với kích cỡ của một cái tủ, chỉ vừa đủ lớn cho hai chiếc ghế bành. Tôi chọn chiếc ghế bọc nhung màu xanh ô liu đầy bụi bẩn với tay vịn bằng gỗ màu đen, đối diện với chiếc ghế bọc nhung nâu đã ngả màu. Cả hai chiếc ghế đều trông như thể được làm từ những năm bốn mươi và chưa từng được lau chùi hay bỏ đi khỏi căn phòng nhỏ kể từ khi ấy. Có một ô cửa sổ nhỏ đặt tít ở trên cao của bức tường khiến thứ duy nhất mà tôi có thể nhìn thấy là bầu trời ở trên. Ngày đầu tiên tôi gặp thầy Burton, trời xanh trong vắt, thi thoảng một đám mây bay qua và lấp đầy ô cửa nhỏ ấy bằng một màu trắng muốt rồi lại bị thổi dạt đi, trả lại màu xanh trong cho vuông cửa.
Trên tường dán đầy những áp phích của học sinh, với một vẻ rất hào hứng và đang rao giảng với căn phòng trống về những việc như: làm sao để nói không với ma túy, vạch mặt những ké bắt nạt, đương đầu với sự căng thẳng của kì thi, chống lại chứng biếng ăn, giải tỏa những nỗi buồn hay việc tránh có bầu ở tuổi vị thành niên bằng việc không quan hệ tình dục, hoặc nếu chẳng may có thì chúng cũng biết sử dụng bao cao su như thế nào. Chúa ơi, đầy thứ đại loại như vậy. Căn phòng mang một không khí tích cực đến nỗi tôi nghĩ mình sẽ phóng khỏi ghế như một chiếc tên lửa vậy. Thầy Burton vĩ đại đã tạo nên tất cả những điều đó.
“Tôi đã tưởng tượng rằng thầy Burton là một người đàn ông già dặn thông thái với mái tóc xám hoang dã, đeo kính một bên mắt, mặc áo gi-lê gân với chiếc đồng hồ quả quít bằng một dây xích, một bộ não chứa đầy những kiến thức sau nhiều năm nghiên cứu về trí tuệ con người. Tôi trông chờ một Yoda của thế giới phương Tây, khoác lên mình chiếc áo thông thái, nói bằng những mật mã khó hiểu và gắng thuyết phục tôi về sức mạnh tiềm tàng của mình.
Khi thầy Burton thực sự bước vào phòng, tôi đã có những cảm xúc lẫn lộn. Tính tọc mạch của tôi đã bị thất vọng, nhưng cô bé mười bốn tuổi trong tôi lại thấy rất vui vẻ lạc quan. Thầy giống một anh chàng Gregory hơn là một Ngài Burton. Thầy trẻ và đẹp trai, hấp dẫn cường tráng. Nhìn thầy giống như vừa mới tốt nghiệp Đại học ngay ngày hôm đó, trong bộ quần jeans áo thun và kiểu tóc rất hợp thời trang. Tôi làm một phép tính quen thuộc: gấp đôi tuổi tôi vẫn không sao. Vài năm nữa thôi là chuyện tôi với thầy sẽ được hợp pháp, lúc đó tôi cũng đã tốt nghiệp ra trường rồi. Cả cuộc đời của tôi đã được vạch ra ngay trước khi thầy kịp đóng cánh cửa sau lưng mình.
"Chào Sandy.” Giọng của thầy sang sảng và vui vẻ.
Thầy bắt tay tôi và tôi thề rằng tôi sẽ liếm nó khi về đến nhà và sẽ không bao giờ rửa tay lần nữa. Thầy ngồi vào chiếc ghế bành nhung màu nâu đối diện tôi. Tôi cược rằng tất cả những cô gái trên các áp phích kia đã bày đặt ra các rắc rối chỉ để được đến căn phòng này.
“Tôi mong rằng em thấy thoải mái với những nội thất thiết kế hàng đầu ở đây?" Thầy nhăn nhăn mũi ra vẻ ghê sợ khi ngồi xuống chiếc ghế đã rách ở bên hông và lòi cả mút ra ngoài.
Tôi cười. Ôi, thầy thật là trẻ trung. "Vâng, cảm ơn thầy. Em đã tự hỏi không hiểu việc em chọn chiếc ghế này sẽ khiến thầy nghĩ gì về em.”
“À, nó nói lên một trong hai điều?” Thầy mỉm cười.
Tôi lắng nghe một cách chăm chú.
"Thứ nhất, em không thích màu nâu, hoặc thứ hai là em thích màu xanh."
"Cả hai đều sai?” Tôi mỉm cười. "Em chỉ muốn ngồi đồi diện cửa sổ thôi.”
"Ah-ha.” Thầy cười. "Em là típ người mà chúng tôi đặt tên trong phòng thí nghiệm là một 'người đối diện cửa sổ.’”
"À, em là một trong những người đó.”
"Thầy nhìn tôi với vẻ thích thú trong giây lát, rồi đặt một cây bút chì và một mảnh giấy lên đùi, còn chiếc máy ghi âm đặt trên tàu vịn của ghế. "Em không phiền nếu tôi ghi âm cuộc trò chuyện này chứ?”
"Để làm gì vậy?"
"Để tôi có thể nhớ hết mọi điều em nói. Có những lúc tôi không thể nắm bắt được hết các ý cho đến khi nghe lại cuộc đối thoại.”
"Vậy thế bút và mảnh giấy kia để làm gì ạ?"
"Chỉ để vẽ linh tinh thôi. Trong trường hợp tôi cảm thấy chán nghe em nói. Thầy bật băng ghi âm và nói vào băng ngày giờ hôm đó.
"Em cảm thấy như mình đang ở đồn cảnh sát và sắp sửa bị thẩm vấn vậy.”
"Trước đây em có bao giờ cảm thấy như thế chưa?"
Tôi gật đầu. "Khi Jenny-May Butler mất tích, bọn em bị yêu cầu cung cấp thông tin mà chúng em biết ở trường. Thật nhanh chóng câu chuyện đã chuyển hướng sang con bé. Hẳn nó đã vui mừng lắm về sự quan tâm này.
“À,” thần gật gù. "Jenny-May là bạn của em đúng không?"
Tôi nghĩ về điều đó. Tôi nhìn những áp phích chống lại việc ức hiếp, bắt nạt trên tường và tự hỏi xem mình phải trả lời thế nào. Tôi không muốn biến mình thành một kẻ lạnh lùng và vô cảm trong mắt người đàn ông tuyệt đẹp này với câu trả lời không, nhưng con bé ấy chẳng phải là bạn tôi. Jenny-May rất ghét tôi, nhưng con bé đã bị mất tích và tôi chẳng nên nói xấu nó vì xét cho cùng, mọi người nghĩ rằng nó là một thiên thần. Thật xấu hố là thầy Burton nghĩ rằng tôi im lặng vì buồn, và ở câu hỏi tiếp thầy nói bằng một giọng dịu dàng đến mức tôi suýt phá lên cười.
"Em có nhớ bạn ấy không?"
Tôi cũng đã nghĩ về điều đó. Liệu tôi có nhớ một cái tát vào mặt mỗi ngày không? Tôi cảm thấy như muốn hỏi thầy điều đó. Nhưng một lần nữa tôi không muốn thầy nghĩ tôi là đứa bé lạnh lùng với câu trả lời không. Thầy sẽ không bao giờ yêu tôi và sau đó mang tôi đi khỏi Leitrim này nữa.
Thầy tựa người về phía trước ghế và tôi như chìm trong đôi mắt xanh thẫm của thầy.
"Ba mẹ em nói với tôi rằng em muốn tìm Jenny-May, có đúng không?"
Trời đất, thầy đang hiểu sai câu chuyện sang một hướng khác. Tôi đảo mắt và nghĩ thế là quá đủ cho những chuyện linh tinh này rồi. "Thầy Burton, em không muốn tỏ ra thô lỗ hay lạnh lùng bởi em biết Jenny-May đã mất tích và mọi người đều rất buồn nhưng...” tôi thở dài.
"Em nói tiếp đi," thầy khuyến khích tôi, còn tôi chỉ muốn nhảy đến và hôn thầy.
"Thực ra, em và ]enny-May chưa bao giờ là bạn bè. Bạn ấy ghét em. Em nhớ bạn ấy bởi bạn ấy đã không phải vì em muốn bạn ấy còn ở đây nữa chứ không phải vì em muốn bạn ấy quay trở lại. Em thực sự không muốn bạn ấy trở về hay đi tìm nơi bạn ấy. Chỉ cần biết nơi bạn ấy đang ở thế là đủ.
Thầy nhướng mày.
"Bây giờ em biết thầy có thể nghĩ rằng vì Jenny-May là bạn của em và bạn ấy bị mất tích, thế nên mỗi lần em bị thất lạc một thứ gì đó, một chiếc vớ chẳng hạn, và cố gắng tìm kiếm nó, đó giống như là cách em tìm Jenny-May và đưa bạn ấy trở về?'
Miệng thẩy hơi hé mở.
"Vâng, thầy Burton, đó có thể là một giả định hợp lý, nhưng nó không đúng với em. Em thực sự không phức tạp đến vậy. Chỉ là rất bực mình khi vài thứ gì đó mất đi mà không biết chúng ở đâu. Chẳng hạn, như cuộn băng dính. Tối hôm qua, mẹ em gói món quà tặng sinh nhật cô Deirdre nhưng mẹ không thể tìm thấy cuộn băng dính. Lúc nào nhà em cũng để nó trong ngăn kéo thứ hai dưới ngăn kéo chứa dao kéo. Nó luôn ở đấy, nhà em không bao giờ đặt nó ở bất cứ chỗ nào khác và ba mẹ biết rằng em sẽ như thế nào nếu không tìm được những vật dụng đó và vì vậy họ luôn đặt mọi thứ vào đúng chỗ của chúng. Nhà em thực sụ rất ngăn nắp, đồ đạc ít khi bị thất lạc trong các đống hỗn độn. Hơn nữa, em vừa mới sử dụng băng dính hôm thứ bảy để làm bài tập về nhà môn nghệ thuật, mà hôm nay em chỉ được điểm C dở ẹc, trong khi đó con bé Tracy Tinsleton đạt điểm A cho một bức vẽ cái gì đó trông giống như một con ruồi bị nát bét trên tấm kính chắn gió và còn được xem là "nghệ thuật đích thực" - nhưng em thề là mình đã đặt nó lại vào ngăn kéo. Ba không dùng nó, mẹ cũng không dùng nó và em chắc rằng không kẻ nào đột nhập vào nhà chỉ để lấy một cuộn băng dính. Nên em tìm nó cả buổi tối nhưng vẫn không tìm thấy. Vậy thì nó ở đâu?" Thầy Burton im lặng và chậm rãi tựa lưng ra sau ghế.
"Vậy để thầy làm rõ xem,” thầy nói một cách chậm rãi. "Em không nhớ Jenny-May Butler."
Chúng tôi đều bắt đầu cười và đó là lần đầu tiên, tôi không cảm thấy tệ về điều đó.
"Em nghĩ vì sao em lại ở đây?" Thầy Burton trở nên nghiêm nghị trở lại sau trận cười của chúng tôi.
"Bởi vì em cần những câu trả lời.”
"Những câu trả lời như..." Tôi suy nghĩ về điều đó. "Cuộn băng dính ở đâu mà em đã không thể tìm ra nó sáng nay? ]enny-May Butler ở đâu? Tại sao một trong những chiếc tất của em luôn bị mất trong máy giặt?"
"Em nghĩ rằng thầy có thể cho em biết tất cả những thứ này ở đâu hả?"
"Không nhất thiết phải thật cụ thể, thưa thầy, nhưng một chỉ dẫn chung cũng là tốt rồi?”
Thầy mỉm cười với tôi. "Vậy để thầy hỏi em vài câu hỏi và có lẽ qua những câu trả lời của em, chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời em muốn có.”
"Được thôi, nếu thầy nghĩ việc đó sẽ đem lại kết quả.” Thật là một người kỳ cục.
"Tại sao em cảm thấy cần biết những thứ đó ở đâu?”
"Em phải biết?”
"Thế sao em cảm thấy em phải biết?"
"Thế sao thầy cảm thấy thầy phải hỏi em những câu hỏi này?”
Thầy Burton chớp mắt và im lặng có vẻ lâu hơn cần thiết, tôi có thể thấy điều đó. "Đó là công việc của thầy và thầy được trả công để làm việc đó?”
"Được trả công để làm điều đó.” Tôi tròn mắt ngạc nhiên. "Thầy Burton, thầy có thể làm công việc ngày thứ bảy của em, đó là sắp xếp những cuộn giấy vệ sinh và được trả công nhưng thầy đã chọn việc học trong mười triệu năm chăng? - để có được tất cả những bằng cấp mà thầy treo trên tường. Tôi nhìn quanh vào các tấm bằng được đóng khung của thầy. "Em nghĩ rằng thầy trải qua tất cả những việc học đó, qua tất cả những kỳ thi và hỏi tất cả những câu hỏi này vì nhiều lý do hơn là chỉ vì được trả tiền?”
Thầy cười nhẹ nhàng và quan sát tôi. Tôi không nghĩ thầy biết phải nói gì thêm nữa. Và có một khoảng lặng hai phút giữa chúng tôi trong lúc thầy suy nghĩ. Cuối cùng thầy đặt cây bút và tờ giấy xuống, tỳ khuỷu tay lên hai đầu gối và ngả người về phía tôi.
"Thầy thích nói chuyện với mọi người và lúc nào cũng vậy. Qua các cuộc trò chuyện, mọi người sẽ biết về những điều mà họ chưa biết trước đó. Đó cũng là một cách tự hàn gắn tinh thần. Thầy hỏi vì thầy thích giúp đỡ mọi người.”
"Em cũng vậy.”
“Em cho rằng bằng việc đặt ra những câu hỏi về Jenny-May, có thể em đang giúp bạn ấy hay giúp ba mẹ 1 bạn ấy ư?” Thầy cố che đi vẻ bối rối trong mắt.
"Không, em đang tự giúp mình."
"Giúy bằng cách nào? Chẳng phải việc không nhận được câu trả lời khiến em thất vọng hơn à?”"
"Thỉnh thoảng em cũng tìm thấy một vài thứ thưa thầy. Những thứ đã bị đặt nhầm chỗ.”
"Chẳng phải thứ đã bị mất đều là do bị đặt nhầm chỗ sao?"
"Đặt nhầm chỗ một thứ gì đó là mất nó tạm thời vì mình đã quên là đặt nó ở đâu. Em thì luôn nhớ nơi mình đã để chúng. Em chỉ đi tìm những thứ mà em đã đặt nhầm chỗ, những thứ mà tự mọc chân và chạy lung tung đâu đó khiến em bực mình.”
"Em có nghĩ rằng có thể có một người nào đó đã di chuyển tất cả những thứ ấy không?"
"Ai chứ?"
" Thầy đang hỏi em đấy.”
"Ừm, với trường hợp của cuộn băng dính thì rõ ràng câu trả lời là không. Với những chiếc tất, trừ khi ai đó đã thò tay vào máy giặt và lấy những chiếc tất của em ra thì câu trả lời cũng là không. Thầy Burton, ba mẹ em muốn giúp em. Em khôn nghĩ rằng họ lại di chuyển những thứ đó và rồi lại quên đi. Nếu có, họ đã biết chính xác chúng ở đâu rồi.”
"Vậy giả thuyết của em là gì? Em nghĩ những thứ đó ở đâu?”
"Thầy Burton, nếu em có giả thuyết nào thì em đã không ở đây.”
"Em không có một ý tưởng gì hết sao? Kể cả trong những giấc mơ dữ dội nhất, trong những lúc chán nản nhất, khi em tìm kiếm không ngừng nghỉ vào những buổi sáng sớm nhưng vẫn không thể tìm ra chúng, em không có một chút giả thuyết nào về việc những thứ thất lạc đang ở đâu ư?"
Đúng là thầy đã tìm hiểu tôi thông qua ba mẹ tôi nhiều hơn tôi nghĩ, nhưng nếu trả lời câu hỏi này một cách trung thực, tôi e rằng thầy sẽ chẳng bao giờ yêu tôi cả. Nhưng tôi đã hít một hơi thật sâu và nói thực lòng. "Những lúc như vậy, em tin rằng chúng đều ở một nơi mà tất cả những vật thất lạc đều ở đó.”
Thầy không bỏ lỡ một giây nào hết. "Em có nghĩ rằng Jenny-May cũng ở đó không? Nghĩ rằng bạn ấy ở đó có khiến em cảm thấy vui hơn không?"
"Chúa ơi. Tôi tròn mắt. "Thầy Burton, nếu ai đó giết bạn ấy, họ đã làm điều đó. Em không cố gắng tạo ra những thế giới ảo để khiến mình cảm thấy tốt hơn.”
Thầy cố gắng hết sức đế không cử động cơ mặt.
"Nhưng bạn ấy có còn sống hay không, tại sao tới giờ Cục Cảnh sát Gardaí vẫn chưa tìm ra bạn ấy?"
"Liệu thỉnh thoảng chấp nhận sự thật là có những bí ẩn vẫn xảy ra xung quanh ta có làm cho em cảm thấy vui hơn chút nào không?"
"Thầy không chấp nhận điều đó, tại sao em phải chấp nhận?"
"Điều gì khiến em nghĩ là thầy không chấp nhận?"
"Thầy là một chuyên viên tư vấn. Thầy tin rằng mọi hành động đều có hệ quả và những điều tương tự như vậy. Em đã đọc điều đó trước khi đến đây. Mọi thứ mà em đang làm là bởi vì đã có một điều gì đó xảy ra, bởi một người nào đó đã nói hoặc đã làm. Thầy tin rằng có câu trả lời cho mọi việc và có cách để giải quyết mọi vấn đề.”
"Điều đó không hẳn đã đúng. Thầy không thể sửa chữa mọi thứ được, Sandy ạ.”
“Thầy có thể sửa em không?”
“Em có bị hỏng đâu.”
“Đó là ý kiến y học của thầy à?”
“Thầy không phải là bác sĩ."
"Chẳng phải thầy là "bác sĩ tinh thần" sao?" Tôi cong các ngón tay thành những dấu nháy và đảo mắt.
Im lặng.
"Em cảm thấy thế nào khi cứ mãi tìm kiếm và tìm kiếm nhưng vẫn không tìm ra những thứ mà em cần tìm?"
Tôi có thể nói rằng đây là cuộc đối thoại kì dị nhất mà thầy đã từng có.
"Thầy có bạn gái chưa, thầy Burton?"
Trán thầy nhăn lại. "Sandy à, thầy không nghĩ điều này có gì liên quan."
Thấy tôi không trả lời, thầy thở dài. "Chưa, thầy chưa có.”
"Thầy có muốn có một người bạn gái không?"
Trông thầy có vẻ suy tư. "Em muốn nói rằng cảm giác tìm kiếm một chiếc vớ bị mất cũng giống như tìm kiếm tình yêu?” Thầy cố gắng đặt một câu hỏi để tôi không trở nên ngớ ngẩn nhưng thầy đã thất bại thảm hại.
Tôi đảo mắt lần nữa. Thầy đã khiến tôi phải làm điều đó rất nhiều lần. "Không, đó là cảm giác biết một thứ đó thiếu đi trong cuộc sống của mình nhưng không thể tìm ra cho dù mình đã tìm kiếm cực nhọc thế nào đi chăng nữa.”
Thầy hắng giọng một cách lúng túng, cầm cây bút và tờ giấy lên và giả vờ viết gì đó.
Thời điểm để vẽ nguệch ngoạc. "Em làm thầy thầy tẻ nhạt phải không ạ?”
Thầy cười và phá vỡ sự căng thẳng.
Tôi cố gắng giải thích thêm lần nữa. "Có lẽ sẽ dễ hiểu hơn nếu em nói rằng không thể tìm được một thứ gì đó giống như bỗng nhiên không thể nhớ được lời bài hát yêu thích mà thầy thuộc nằm lòng. Giống như bất chợt quên đi tên của một ai đó mà thầy biết rất rõ và gặp hằng ngày, hay tên của một nhóm nhạc với những bài hát rất nổi tiếng. Điều đó thật khó chịu vì nó sẽ lặp đi lặp lại trong tâm trí thầy bởi thầy biết rằng có một câu trả lời nhưng không ai có thể nói cho thầy biết. Điều ấy cứ làm phiền em và em không thể nghỉ ngơi cho đến khi em biết được câu trả lời.”
"Thầy hiểu,” thầy nói thật nhẹ nhàng.
"Vậy thì, thầy hãy nhân cảm giác ấy lên một trăm lần."
Thầy trở nên trầm ngâm. "Em thật trường thành so với tuổi của mình đấy, Sandy.”
“Thật là buồn cười, bởi lẽ em đã hi vọng thầy sẽ biết nhiều chuyện hơn khi ở tuổi của thầy đấy.”
Thầy cười cho đến khi thời gian của chúng tôi đã hết.
Bữa ăn tối hôm đó, ba tôi hỏi tôi buổi nói chuyện diễn ra thế nào.
"Thầy Burton khôn thể trả lời những câu hỏi của con, tôi đáp lại, trong khi húp xì xụp chén canh.
Trông ba tôi như thể ông sắp bị đau tim vậy. "Và chắc ba đồ rằng con cũng không muốn quay lại đó nữa hả."
"Không!" Tôi nhanh nhảu đáp lại và mẹ tôi cố gắng giấu đi nụ cười bằng cách nhấp một ngụm nước.
Ba tôi nhìn đi, nhìn lại từ mặt mẹ tôi đến mặt tôi để dò xét.
"Đôi mắt thầy rất đẹp," tôi nói thêm để giải thích, rồi lại húp xì xụp.
Ba nhướng mày và nhìn sang mẹ tôi, lúc ấy đang cười ngoác đến tận mang tai và hai má thì đỏ ửng. "Đó là sự thật, Harold. Anh ấy có đôi mắt rất đẹp.”
"Ah, tốt thôi!" Ba tôi khoát tay. "Nếu thầy con có đôi mắt đẹp, thì ba làm sao mà có thể nói thêm được gì nữa?"
Tối hôm đó tôi nằm trên giường và suy nghĩ về cuộc trò chuyện giữa tôi và thầy Burton. Có thể thầy không có câu trả lời cho tôi nhưng chắc chắn thầy có thể cứu tôi thoát khỏi việc tìm kiếm một thứ.