Kỳ VII (Chuyện kể xảy ra từ thập niên 1950 trở về trước)
Con đường Thái Lập Thành nơi tôi ở vào những năm 1957-1966 chỉ dài khoảng 400-500 mét, một đầu đâm ra đường Chi Lăng, đầu kia thẳng góc với một con đường nhỏ tên Nguyễn Đình Chiểu (đã kể ở một bài trước).
Bên phải con đường có những ngôi nhà gạch kiên cố, được xây dựng từ lâu và người ở đó là người cố cựu. Bên trái lại là một dãy nhà vách ván, lợp tole, chừng khoảng mươi căn, có lẽ là của đồng bào miền Bắc di cư những năm 1954-1955. Cuối dãy nhà này có một “Phòng đọc sách xã hội”, với lèo tèo một ít sách và 5-7 tờ báo. Người trông coi phòng đọc sách này là một phụ nữ khoảng 40 tuổi, tóc bới, người miền Bắc. Bà có một cậu con trai lúc ấy độ 10 tuổi; công việc thường xuyên của bà là ngồi trông phòng đọc sách và liên tục thêu, đan. Tôi đoán bà là một quả phụ tử sĩ, được chính quyền tạo cho một việc làm nhẹ nhàng để nuôi con, ngoài phần tử tuất được hưởng theo quy định.
Vào những năm 1957-1958 này, tôi thường xuyên ghé lại Phòng đọc sách xã hội, đọc hết sách báo ở đây. Báo hàng ngày chỉ vài tờ, mỗi tờ được kẹp giữa hai thanh gỗ cứng, còn tạp chí thì nhờ chỗ này, lần đầu tiên tôi biết được tờ Lành Mạnh do bác sĩ Lê Khắc Quyến làm chủ bút, xuất bản tại Huế. Ngoài ra còn có tờ Chỉ Đạo, một tập san dày của cơ quan tâm lý chiến VNCH.
Cạnh phòng đọc sách là một con đường đất rộng dẫn đến một dãy nhà nằm phía sau, cũng với cách xây cất như dãy trước. Có lẽ chúng hình thành một lượt với nhau.
Con đường đất này ngăn cách một bên là Phòng đọc sách xã hội và một bên là ngôi nhà bề thế nằm sâu trên một khoảnh đất rộng, của một đôi vợ chồng có xe bán bánh mì, người con tên Trần Văn Chánh, là bạn học với tôi tại trường Tiểu học tư thục Chấn Hưng. Phía sau nhà của Chánh chỉ được ngăn cách với hông trường Chấn Hưng bằng hai đường rào kẽm gai nên mỗi khi đi học, Chánh thường chỉ vạch rào chui qua, cho gọn!
Tiếp tục đi trên đường Thái Lập Thành, dãy phía trái, qua khỏi nhà Trần Văn Chánh là một vườn nhãn rộng bát ngát, được che khuất một phần bởi một hàng rào cây xanh cao không quá đầu người. Ngôi nhà của người chủ vườn nhãn ở sâu bên trong, người đi đường khó nhìn thấy.
Đối diện với vườn nhãn rộng này, nằm phía bên phải đường, là ngôi nhà hai tầng của hai ông bà giáo sư tên Phương, tầng trên, ông bà Phương ở, tầng dưới là nơi ở của hai chị em cô ca sĩ Phương Dung, có lẽ mới từ quê nhà lên Sài Gòn.
Vào thời điểm những năm 1960-1961, ngay góc đường Thái Lập Thành-Chi Lăng bỗng mọc lên “Phòng trà ca nhạc Lệ Liễu” sáng đèn hàng đêm, và có lẽ đây chính là một trong những tụ điểm ca nhạc mà Phương Dung đã đặt bước chân đầu tiên trong đời ca hát của mình.
Những năm đó, tôi học lớp Đệ nhất C trường Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định, mỗi chiều đi học về, xuống xe buýt (vàng xanh) ở đầu đường Thái Lập Thành, đi bộ về nhà, tôi luôn đi ngang nhà Phương Dung ở và thường gặp cảnh hai chị em luyện hát vui vẻ ở căn phòng trước nhà.
Cũng trong những buổi chiều như thế, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy Ph., người bạn học cùng lớp với tôi ở trường Hồ Ngọc Cẩn, chạy xe mobylette đến chỗ ở của Phương Dung, không biết để thăm ông bà giáo sư Phương ở tầng trên, hay thăm chị em Phương Dung ở tầng dưới. Tôi thì tôi đoán là anh chàng đang trồng cây si!
Từ chỗ ở của chị em Phương Dung đi thêm chừng 100 mét nữa sẽ gặp một con hẽm chừng 30 mét dẫn vào một dãy phố 10 căn, liền kề nhau, xây dựng kiên cố, mái lợp ngói, cao 8-9 mét. Ông bà chủ phố chiếm hữu hai căn đầu, 8 căn còn lại cho mướn. Gia đình các người cô, nơi tôi đến cư ngụ, ở căn số 9 nên số nhà là 15/9 Thái Lập Thành. Đây là nơi mà thỉnh thoảng người chị của ca sĩ Phương Dung (hình như tên Chi) đến chơi với cô em chú bác ruột của tôi. Không biết bây giờ chị Chi ở đâu, chứ cô em họ của tôi thì đã nằm trong bụng cá trong một chuyến vượt biên vào cuối thập niên 1970 rồi.
Khoảng năm 1962-1963, một gia đình dọn về ở căn phố số 3 dãy phố 10 căn này. Người chủ gia đình tên Hồ Việt Điểu, giáo sư Việt văn tại nhiều trường trung học tư thục. Nghe đồn ông Điểu là em ruột nhà văn Hồ Hữu Tường, song đến nay, vẫn chưa thấy tư liệu nào nói đến chuyện này.
Căn số 5 của dãy phố thuộc về một trong những gia đình ở lâu nhất tại đây. Ở đây có một cô gái nhỏ hơn tôi 1-2 tuổi, song sắc đẹp thì không ai sánh bằng. Cô tên Mộc Hương, chơi thạo đàn mandoline từ năm 7 – 8 tuổi, cha có tên Tây (Jean), nghề nghiệp vững chắc, ông bà nội cô không rõ có bằng gì, nhưng mỗi khi có chuyện bất đồng, hai ông bà “trâm” tiếng Tây nổ như bắp rang, chẳng ai hiểu hết. Ai cũng nghĩ là tôi với cô xứng đôi vừa lứa, một cậu trai học giỏi nhất xóm và một cô gái đẹp nhất vùng. Song chúng tôi không nghĩ đến nhau, mà mỗi người có những mối quan hệ khác.
Về sau, tôi cho rằng đó là sự khiến xui của số mệnh. Vào những năm tôi còn ở trong trại cải tạo, cô cùng cô em chú bác ruột của tôi tên Kim Hương (đã nhắc ở trên) tham gia một chuyến vượt biên và cả hai vĩnh viễn không trở về. Nếu tôi và cô se kết đời nhau, những năm đó, cô ở nhà lo đi thăm nuôi tôi thì số phận nghiệt ngã đã không ập đến với cô!
Gần ngả ba, nơi gặp nhau giữa hai con đường Thái Lập Thành - Nguyễn Đình Chiểu (đã kể trên), suýt có một “tình sử” bùng nổ tại đây. Một gia đình ở đây gồm toàn phụ nữ “Bắc kỳ di cư”, bà mẹ và 4 người con gái. Hai người chị đầu là y tá tại Tổng Y viện Cộng Hòa (bệnh viện thuần túy quân sự), người em thứ ba tên Nguyễn Nữ Như Nghĩa, nhỏ hơn tôi chừng một tuổi. Cô em út còn nhỏ hơn nữa, không cần phải nhắc ở đây. Hai cô chị ban ngày đi làm, ban đêm đi tiêm thuốc cho ai cần tiêm. Đó là lý do khiến chúng tôi quen nhau, vì hai người chị thường xuyên đến tiêm thuốc cho người cô Út của tôi.
Dạo đó, Nguyễn Nữ Như Nghĩa học trường Huỳnh Thị Ngà ở Tân Định, mỗi ngày đi bộ trên một quãng đường thật dài. Có hôm, tôi lẽo đẽo theo cô, kẻ trước người sau, cả tiếng đồng hồ, mà chả ai dám thốt lên một lời! Thế là cô vào lớp, chàng tình si lủi thủi đi về một mình!
Một hôm, chàng chép tặng cô một bài thơ, có những câu:
Em từ đất Bắc đến miền Nam,
Vượt mấy dòng sông, cách mấy làng,
Một thuở hoa niên tràn mộng đẹp,
Xa vời nào ngại gió sương chan
---------
Muốn kể cùng ai chuyện dãi dầu,
Nhưng mà ấp úng chẳng nên câu,
Em ơi, đừng trách rằng tôi bạc,
Tôi khổ nhiều rồi, em biết đâu (1961) (quá ư là sến!)
Tình cảm của tôi chắc là cô phải biết, cô không cự tuyệt, mà cũng không có dấu hiệu đáp ứng, vẫn cứ để lửng lơ như thế cho thời gian cuốn trôi đi.
Mãi 3-4 năm sau, khi đang học năm thứ 3 đại học, tôi mới biết lý do của sự lửng lơ này. Bữa nọ tôi đi ngang nhà cô, cô chạy ra gọi mời vào nói chuyện. Khi tôi từ tạ ra về, cô kín đáo trao cho tôi một phong thư, mang về nhà hồi hộp mở ra thì hóa ra cũng là một bài thơ, sau hơn 60 năm chỉ còn nhớ mỗi đoạn giữa:
Tôi biết rằng ai quá khổ đau,
Song ai lại là kẻ đến sau,
Thì cho dù có yêu ai đó,
Duyên vẫn phụ tình, vẫn khổ đau
Hóa ra trong những ngày tôi lẽo đẽo theo Như Nghĩa, cô đang có một tình yêu đầu đời!
Bài thơ đánh mất đã lâu, nhưng 4 câu trên lại nhớ mãi, như đã biến thành máu thịt của mình rồi!
Ôi, một tình sử không thành!
Lê Nguyễn
28.2.2024