Kỳ VIII
Vào thập niên 1950, từ khu vực “chùa Bà Đầm” đi về hướng chợ Bà Chiểu, người ta nhìn thấy phía bên phải là khu dân cư với những ngôi nhà núp sau các dãy hàng rào lá xanh không cao quá đầu người. Phía bên trái rôm rả hơn một chút. Từ quán ca nhạc Lệ Liễu đi xuống, không thể không nhắc đến quán “Bò 7 món Duyên Mai”, một quán bò 7 món lâu đời của đất Sài Gòn, nơi mà nhiều gia đình không có thu nhập cao vẫn có thể đến đó tổ chức những tiệc cưới ấm cúng. (Trên đường Nguyễn Minh Chiếu, nay là Nguyễn Trọng Tuyển, cũng thuộc xã Phú Nhuận lúc bấy giờ, cũng có quán bò 7 món Ánh Hồng).
Qua “Bò 7 món Duyên Mai”, ta sẽ gặp một ngả ba khác, có tên là “Ngả ba Cầu cống”, tiếng quen thuộc của người dân Phú Nhuận khi xưa dùng để gọi nơi gặp nhau giữa đường Chi Lăng và đường Nguyễn Huệ, nay là ngả ba Phan Đăng Lưu – Thích Quảng Đức.
Không thấy ai giải thích về cụm từ “Ngả ba Cầu cống” này, cũng như khu “chùa Bà đầm” ở ngả ba Chi Lăng-Thái Lập Thành. Từ này khiến tôi liên tưởng đến cụm từ “Kỹ sư cầu cống” vẫn dành để chỉ những trí thức Việt Nam sang Pháp học và tốt nghiệp trường “École nationale des ponts et chaussées” (Trường quốc gia cầu đường). Trong tiếng Pháp, nghĩa chính của pont là cầu, của chaussées là mặt đường, đê bao giữ nước. Trong giới trí thức thời đó, ngoài cụm từ “kỹ sư cầu cống”, họ còn dùng cụm từ “cựu sinh viên trường pông-sốt” để chỉ những ai từng học ở trường đại học Pháp kể trên. Tôi đoán rằng tại ngả ba này khi xưa, có những công trình về công chánh khiến người dân nhớ mãi.
Từ Ngả ba Cầu cống tiếp tục đi xuống khoảng hơn 100 mét, lại gặp một ngà ba khác có tên là “Ngả ba Đốc công”, tức ngả ba Ngô Tùng Châu – Chi Lăng (nay là Nguyễn Văn Đậu – Phan Đăng Lưu). Trong tiếng Pháp, đốc công là contre-maitre, là một giới chức có nhiệm vụ đốc thúc công việc của công nhân ở một công trường. Về từ “đốc công” này, sẽ xin kể một giai thoại nhỏ vào một dịp khác.
Giữa Ngả ba Cầu cống và Ngả ba Đốc công, có ngôi đình Cầu cống, nơi nhiều gánh hát bội hay cải lương hồ quảng nhỏ vẫn thường đến đó ca diễn.
Vào thập niên 1950, con đường Ngô Tùng Châu chạy ngang một ngôi chợ có cái tên dân dã và quen thuộc với mọi người, đó là chợ Cây Quéo. Gần Ngả ba Đốc công, cũng trên đường Ngô Tùng Châu, có ngôi nhà của một vị tướng nổi tiếng thời VNCH, đó là Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ, một hậu duệ của nhà cách mạng Phan Đình Phùng.
Trở lại với Ngả ba Cầu cống, nơi gặp nhau giữa hai con đường Nguyễn Huệ và Chi Lăng, ngay khi đi vào đường Nguyễn Huệ, khách bộ hành sẽ bắt gặp ở bên trái mấy dãy nhà xây tường dày, mái lợp ngói, chạy theo hình chữ U, ôm một khoảng sân rộng lớn trồng cây cỏ. Người đương thời gọi dãy nhà này là “Phố nhà băng”. Phải đợi đến khi trưởng thành, vào thập niên 1960, cậu bé sinh trưởng ở vùng này mới biết đó là cư xá của công nhân viên ngân hàng Việt Nam Thương Tín.
Trong khoảng sân rộng của khu “phố nhà băng”, có một cây phượng vỹ rất to, người ta treo lên một sợi dây thừng dài gần chấm đất. Đó là nơi mà đêm đêm, lũ trẻ chúng tôi thường đến để tập leo dây. Thời ấy, trong các môn thi thể dục mở ra trước các kỳ thi chính thức (Trung học đệ I cấp, Tú tài I, Tú tài II) để thí sinh kiếm thêm điểm thể dục bổ sung vào điểm thi, có môn leo dây này.
Bên phải của đường Nguyễn Huệ, ngay Ngả ba Cầu cống, có ngôi quán nhỏ bán tạp hóa của một người Tàu. Đến thập niên 1960, ngôi quán của người Tàu biến mất, thay vào đó là một hàng rào vuông vắn, mỗi cạnh vài mươi mét, các thanh chắn bằng xi-măng được thiết kế theo hình báng súng, xếp đứng cách nhau vài phân, người ngoài nhìn vào không thấy kiến trúc của ngôi nhà bên trong. Người ta đồn với nhau rằng đấy là khu nhà của Trung tướng VNCH Trần Văn Minh, song mình cũng không tò mò để kiểm tra xem thông tin đó có đúng không
Đi sâu hơn vào đường Nguyễn Huệ, cách Ngả ba Cầu cống hơn 100 mét, cũng ở bên phải, là một tòa nhà đúc 2 tầng rất bề thế, tường rào kiên cố bao quanh, trước cổng nhà, trên hai bục xi măng để ngồi hóng mát buổi chiều, người ta đặt lên đó một lu nước trong, trên nắp lu có một chiếc gáo dừa úp xuống, để khách lỡ đường có thể ghé lại, làm một ngụm nước mát.
Ở vùng đất Phú Nhuận những năm đầu thập niên 1950 trở về trước, nhà cửa lèo tèo, không dễ gì tìm được một quán nước như ngày nay, lu nước mát đặt trước nhiều ngôi nhà là cứu tinh của bất cứ người khách lỡ đường nào. Đó là một nét đẹp đầy tính nhân văn của người Sài Gòn xưa.
Ngôi nhà bề thế có cái lu nước phía trước vừa kể trên chính là nhà của ông bà Bút Trà, chủ nhân của những tờ báo ăn khách lúc bấy giờ: Sài Gòn Mới, Phụ Nữ Ngày Mai...Ngôi nhà này không biết được xây cất từ bao lâu, nhưng điều chắc chắn là nó có mặt trước khi người viết bài này cất tiếng khóc chào đời.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, có một sự kiện hi hữu, đó là có 3 nhà báo, nhà văn cùng tên Nguyễn Đức Nhuận; người thứ nhất là ông Bút Trà, người thứ nhì là chủ nhiệm tờ Phụ nữ Tân văn (sáng lập là vợ ông, bà Cao Thị Khanh) phát hành vào cuối thập niên 1920 và những năm 1930, người thứ ba là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám, võ hiệp, bút danh Phú Đức, nổi tiếng nhất với bộ truyện nhiều tập “Châu về hiệp phố”. Cả ba ông cũng xấp xỉ tuổi nhau, ông Bút Trà và ông chủ nhiệm Phụ nữ Tân văn cùng sinh năm 1900, ông Phú Đức sinh năm 1901.
Thập niên 1950, Sài Gòn có hai tờ tuần báo về phụ nữ được nhiều người đọc, đó là tờ Phụ nữ Diễn đàn và tờ Phụ nữ Ngày mai, chủ bút tờ sau là cô Kim Châu, con gái của ông bà Bút Trà.
Nhiều người cũng biết rằng ông Bút Trà có người em trai là nhà văn, nhà báo Hồng Tiêu (Nguyễn Đức Huy) và cụ Hồng Tiêu có vợ là nhà văn nữ Tùng Long, tác giả của mấy mươi bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội và là người phụ trách mục “Gỡ rối tơ lòng” trên một vài tờ báo phụ nữ. Hai vị trên là song thân của một nhà văn đương đại, thỉnh thoảng có bình luận trên diễn đàn này.
Gần nhà ông bà Bút Trà, cách một con hẻm nhỏ là nhà của một người miền Nam cố cựu khác, được người trong xóm gọi là “Ông lò mắm”. Trên sân nhà ông có rất nhiều lu khạp to, có lẽ là nơi ông ướp cá để làm mắm. Song với một cậu bé 7-8 tuổi lúc bấy giờ, mắm chẳng có gì hấp dẫn cả. Hấp dẫn nhất đối với cậu ta là đống rác to đùng ở bên kia đường, ngay trước nhà ông lò mắm. Rác đổ lâu ngày đã hoai gần hết, không còn mùi khó chịu nữa, ngày ngày, cứ vào mỗi trưa, người ta nhìn thấy một cậu bé, tay ôm cặp, đi tha thẩn trên đống rác này, tìm kiếm và cúi lượm từng chiếc nắp chai bia hay nước ngọt bằng nhôm mà tiếng bọn trẻ lúc đó gọi là “nút khoén”. Mang số “chiến lợi phẩm” này về nhà, cạy bỏ lớp đệm mỏng bằng cao su bên trong rồi dập giẹp xuống, những chiếc nút khoén trở thành vật ăn thua trong những màn đánh đáo hay tạt hình.
Khoảng năm 1954, trên đống rác này mọc lên mấy ngôi nhà, trong đó có quán hủ tíu mì của gia đình một người Hoa, giá một tô mì vào thời điểm ấy là 3,5 đồng. Thời đó, cậu bé con nhà nghèo mới 10 tuổi mê món mì của tiệm này lắm, cứ mỗi chiều thứ bảy hàng tuần, cậu được mẹ đền cho 6 ngày nhịn thèm bằng một tô mì giá 10 đồng, gần gấp 3 lần một tô mì bình thường.
Con hẻm nhỏ ngăn cách nhà ông bà Bút Trà và nhà ông lò mắm dẫn đến một lò bánh tét lâu năm có tên là “lò bánh tét bà Kẻo”, một cái tên khó nhớ, dễ quên. Sau lò bánh tét bà Kẻo là một nghĩa trang rộng lớn được người dân gọi là “đất thí”, do xã Phú Nhuận quản lý, dành cho các gia đình không có đất riêng để chôn cất người thân hoặc để chôn những người chết bờ chết bụi, không tìm được ai là thân nhân. Vào những năm 7-8 tuổi, tôi nhiều lần chứng kiến cảnh người ta khiêng người chết trôi vô thừa nhận, mang đến chôn trong khu đất thí này, quan tài chỉ là mấy miếng ván ghép sơ sài, nước từ trong tử thi chảy dọc theo đường đi, để lại một mùi … khủng khiếp.
Vậy mà tôi đã sống cạnh khu đất thí này suốt 13 năm kể từ lúc mới ra đời, có lẽ do đó mà bổn tánh rất … sợ ma.
Từ nhà ông bà Bút Trà và ông lò mắm đi xuống nữa chừng vài trăm mét, cùng một phía bên phải đường Nguyễn Huệ, ta sẽ gặp một nơi mà bây giờ hầu hết người Sài Gòn đều nghe tên. Đó là ngôi chùa mà trong lịch sử tồn tại của nó, có hai cái tên nối tiếp nhau. Trước tiên là tên “chùa Mạch Lô”, từ khoảng năm 1954 trở về trước. Tên “mạch lô” xuất phát từ tiếng Pháp “matelot” là lính thủy.
Cũng giống như chùa Bà Đầm ở khu cư xá Thủ hiến Thái Lập Thành, không rõ lịch sử ngôi chùa Mạch lô này dính dáng thế nào đến những anh lính thủy Pháp. Tên thứ hai của chùa là “Quán Thế Âm” mà phần lớn người địa phương vẫn gọi là “chùa Quan Âm”. Lúc đó, chùa được biết đến nhiều nhờ nơi đây có sự tu tập của một nhà tu thật đặc biệt, khá lớn tuổi, song chỉ cao khoảng... 1 mét. Người trong xóm gọi ông là “ông thầy chùa lùn”. Người ông đầy đặn, đi đâu ông cũng mặc một bộ quần áo màu nâu, đầu đội chiếc nón lá nhỏ, người lắc qua lắc lại, trông như một cây nấm mối biết đi. Ông mất năm 1968, trong vụ Tổng tấn công Tết Mậu Thân, nghe nói ông bị trúng đạn, xác nằm trên đường mấy ngày liền.
“Ông thầy chùa lùn” chỉ nổi tiếng tại chùa Quan Âm vào những năm 1950, đến năm 1963 thì tên ông phải nhường chỗ cho một cái tên vang danh cả nước, đó là tên hòa thượng Thích Quảng Đức, người trụ trì ngôi chùa này, đã tự thiêu để bày tỏ sự chống lại chính sách tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Từ chùa Quán Thế Âm đi lên nữa, người ta sẽ gặp ngôi trường Nhân Vị nằm bên phải, do các linh mục Công giáo điều hành, tuy mọc lên khá trễ, song cũng là nơi có nhiều kỷ niệm của lớp thiếu niên sinh vào những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
Qua trường Nhân Vị, đi về hướng giao lộ Thích Quảng Đức – Nguyễn Kiệm (xưa là Nguyễn Huệ-Võ Di Nguy), sẽ gặp cổng xe lửa số 11, là chiếc cổng cuối cùng còn thuộc quận Tân Bình.
Kỳ sau: Đường Nguyễn Huệ - nơi chôn nhau cắt rún
Lê Nguyễn
2.3.2024