Kỳ IX
Tóm lại, nói đến lịch sử con đường Nguyễn Huệ ngày xưa, nay là đường Thích Quảng Đức, phải kể đến 3 kiến trúc nổi bật nhất, gợi nhớ kỷ niệm sâu sắc của những người sinh trưởng trên con đường này, đó là Phố nhà băng tức Cư xá Việt Nam Thương Tín, nhà ông bà Bút Trà và chùa Mạch lô hay chùa Quán Thế Âm.
Song với người viết hồi ức này, quan trọng hơn cả là khu đất khá trống trải nằm giữa khoảng đường đi từ nhà ông bà Bút Trà đến chùa Quán Thế Âm. Nằm lọt sâu trong một khoảng đất trống mênh mông, cách đường Nguyễn Huệ khoảng 150 mét là một ngôi nhà vách ván, lợp ngói, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời. Dù là cách mặt đường lộ khá xa, song trước nhà không có nhà cửa, cây cối, nên ngồi trong nhà vẫn thấy được thấp thoáng bóng xe cộ chạy trên đường.
Khi được 5-6 tuổi, tôi vẫn còn thấy vạt đất bên hông nhà còn có một cái hầm hẹp và dài, sâu hơn 1 mét, là nơi mà vào những năm 1944-1945, cả gia đình tôi thường chui xuống đó, mỗi khi tiếng còi ”a-lẹc” (alerte là báo động)) nổi lên, báo hiệu sắp có máy bay đồng minh bay đến thả bom trên đất Sài Gòn.
* Bà Ngoại tôi cũng kể lại rằng vào khoảng những năm 1944-1945 đó, bà có lần chứng kiến cảnh một chiếc xe cam-nhông (camion, xe tải quân đội Pháp) chở khoảng 5-6 thanh niên người Việt chạy đến đường Nguyễn Huệ, ngay phía trước nhà tôi. Lính Pháp lùa những thanh niên xuống khỏi xe, bắt ngồi trước một miệng hố đào sẵn, sát cạnh đường Nguyễn Huệ, xả súng bắn từng người một, rồi xô hết xuống hố, lấp đất lại, thành một ngôi mả to.
Ngôi mộ gần đường Nguyễn Huệ này là một ám ảnh trong tuổi thơ của tôi. Vào những năm cuối thập niên 1940, cứ trưa trưa lại thấy một người lính Tây xách “kèn mu-zich” (musique), tức kèn Tây, đến trước ngôi mộ đó thổi một hồi kèn. Không hiểu sao thực dân Pháp lại có thể thực hiện một hành vi mang tính tâm linh như thế, và những hồi kèn vang lên mỗi buổi trưa đó luôn vẳng lên trong tâm thức tôi suốt một thời nhỏ dại.
Song đến những năm đầu thập niên 1950, chuyện về ngôi “mả chiến sĩ” ấy, theo cách gọi của Bà ngoại tôi, vẫn chưa kết thúc. Lúc đó, một số cá nhân đến khoảnh đất rộng hơi xéo trước nhà tôi, cất lên một trại nhỏ nuôi ngựa đua. Buổi tối, ở trại này chỉ có một vài người canh giữ và có lúc bỗng nhiên mấy ngày liền, họ hô hoán ầm ỉ là ai đó đã vào nơi họ ở lục tung áo quần, đồ đạc, vứt bừa bãi khắp nơi. Sự kiện kỳ lạ trên được nhiều người dân kết nối với ngôi mả chiến sĩ ấy. Phải chăng cái chết oan khuất của họ và việc họ không được thờ cúng đã dẫn đến chuyện kỳ lạ trên chăng?
Cũng nhờ có khu trại nuôi ngựa đua này mà tôi là một trong những người Sài Gòn được thưởng thức món thịt ngựa sớm nhất. Thỉnh thoảng người ta lại đè một con ngựa yếu đuối hay bệnh hoạn ra làm thịt và cả khu xóm xúm lại mua thịt ngựa bán rẻ về xào ăn. Má tôi không bao giờ quên những dịp mua món thịt giá hời này.
Đến những năm 1954-1955, trại nuôi ngựa kể trên không còn nữa. Thay vào đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cho cất hai dãy nhà nằm thẳng góc với con đường, mỗi dãy độ vài mươi căn, ngang khoảng 3-4 mét, sâu khoảng 10 mét. Nhà lợp tôn, nền đất, toàn bộ cửa và vách làm bằng những tấm ván ghép vào nhau. Nhà làm xong, không thấy ai vào ở, nền đất ẩm, chỉ sau vài tháng, cỏ mọc lên, có khi đàn bò dùng đầu húc cho cánh cửa sau mở ra, chui vào ăn cỏ.
Mãi cả năm sau, mọi người mới biết là hai dãy nhà vách ván đó được dành cho đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Chỉ trong một sớm một chiều, những căn nhà bỏ trống từ lâu ấy đã đầy ắp những người là người. Cũng từ đó, nơi đây mang tên mới là “phố di cư”, chúng được gia cố, làm đẹp dần theo với việc ăn nên làm ra của mỗi gia đình và tồn tại đến sau tháng 4.1975.
Năm 1957, khi phố di cư đã trở thành một cộng đồng dân cư sống yên ổn, hòa đồng với đồng bào địa phương, gia đình tôi dắt díu nhau về sống tại làng Bà Điểm, quận Hóc Môn, cách vùng Phú Nhuận độ 10 cây số, riêng tôi xách cặp đựng sách vở, quần áo tới đường Thái Lập Thành, sống chung trong gia đình các người cô để tiếp tục việc học, như đã kể ở phần trên.
Song 5 năm sau đó, duyên nợ của gia đình tôi với con đường Nguyễn Huệ vẫn chưa kết thúc. Cuối năm 1962, tình hình an ninh tại các quận, xã vùng ven thành phố Sài Gòn đã bắt đầu có vấn đề, chính sách ấp chiến lược được chính quyền Ngô Đình Diệm đặt ra nhằm cách ly dân chúng với các lực lượng chống phá. Tôi đã bắt đầu học năm thứ nhất Học viện QG Hành chánh, thẻ sinh viên có hình lá cờ vàng ba sọc đỏ vắt ngang qua, không dám về thăm nhà hàng tuần nữa. Bà Ngoại tôi thương tôi lắm, bà tính đến việc bán khu nhà đất đang ở, dọn trở lại đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận.
Tính là làm, cuối cùng, gia đình tôi mua một ngôi nhà nhỏ nằm ngang ngôi nhà cũ trước năm 1957, chỉ cách nhau độ 100 mét. Căn nhà này rất gần với nơi tạm gọi là trường học đầu đời của tôi, nơi tôi bắt đầu học a,b,c vào năm 6 tuổi (1950).
Sở dĩ tạm gọi là trường học, vì nơi đây chỉ là cái chái của một ngôi nhà tường xây, bề thế, nằm trên một vuông đất rộng. Gia đình này theo đạo Công giáo, bà cụ sinh đến... 15 người con! Cô giáo dạy tôi tên Vạn là người con thứ 13, song theo cách gọi trong Nam là thứ mười bốn nên người trong xóm gọi là “cô Bốn”, người em út của cô là cô Huệ, thứ mười sáu nên gọi là cô Sáu.
Khi tôi vào học lớp 5 (lớp 1) vào năm 6 tuổi thì cô Bốn đã 18 tuổi. Cái chái làm lớp học chật hẹp, bàn ghế đủ kiểu, xếp ngang dọc, bàn học của tôi có chiếc băng dài và cao đến bụng nên mỗi khi tôi cần ngồi vào bàn là cô Bốn phải lấy hai tay xốc nách tôi đặt lên ghế.
Năm lớp năm đó (lớp 1 bây giờ), tôi còn khờ khạo lắm, bữa nọ có mấy người phạm lỗi gì đó không rõ, trong đó có tôi, bị cô bắt ra cánh đồng trước nhà, mỗi cậu bẻ và mang vào một cây roi. Tôi ra trước cửa trường trong một tâm trạng buồn hiu, chợt nhìn về hướng nhà, thấy Bà ngoại tôi đang mót củi trước nhà, nỗi nhớ nhà trở nên khủng khiếp, mặc dù chỉ 1-2 tiếng đồng hồ nữa là tan học, được trở về nhà. Ở vào cái tuổi lên 6, lên 7, tâm hồn là tờ giấy trắng, ai in lên đó cái gì là cái đó hằn sâu suốt đời. Tôi nhớ vào một lần ra chơi, cô Bốn đưa cho tôi cái kéo nhỏ, bảo mang vào cho má cô ở nhà trên và dặn kỹ tôi là vào đưa kéo cho bà phải đưa bằng hai tay. Lời dặn đó, tôi nhớ đến bây giờ!
Vào năm học đầu tiên trong đời tôi, một kỷ niệm đáng nhớ là kỷ niệm bị... bắt nạt. Vì chỉ có một phòng học nên lớp này học chung với lớp kia, trong lớp tôi có hai anh em, người em tên Vốn, người anh tên Lời (còn một người anh nữa tên Lắm, học chỗ khác). Vốn cỡ tuổi tôi, nhưng đã có vẻ khí phách giang hồ, tôi nễ sợ anh ta lúc nào không biết và dần dần trở thành “con tin” của anh ta. Ngày nào đến lớp, tôi cũng phải cho anh ta nếu không là tiền thì là bánh trái mang theo.
Tình thế đó kéo dài, tôi túng quá, phải xin tiền hết người này đến người kia trong gia đình, xin tiền cả người chị họ ở cạnh nhà. Nhận thấy tôi ít xài tiền mà cứ xin tiền mãi, từ ngạc nhiên đến nghi ngờ, một bữa tối, gia đình tôi mở cuộc thẩm vấn rộng rãi, và nghi can nhanh chóng nhận tội xin tiền nhiều để cống nạp cho bạn Vốn học chung.
Thế là sáng hôm sau, bà Ngoại tôi dẫn tôi đến trường để tố cáo sự việc với cô Bốn. Anh chàng Vốn tinh ranh, thấy tôi đi học với bà Ngoại, biết là có biến, vội ôm cặp, nhảy qua cửa sổ và biến mất luôn từ đó.
Bảy năm sau (1957), tôi về ở đường Thái Lập Thành, không ngờ gia đình Vốn cũng ở đường này. Chúng tôi gặp lại nhau trên đường lúc mỗi đứa đã 13 tuổi. Không khó nhận biết nhau, Vốn và tôi nhìn nhau, cười giả lả...
Lê Nguyễn
5.3.2024