- 59 - KUNDÉRA -VÀ SỨ MỆNH CỦA TIỂU THUYẾT
Milan Kundera
Hiện tượng Kundéra [Sinh 1929]
Những bài phát biểu đầu tiên Kundéra về các vấn đề lý luận văn học đã gây tiếng vang trong xã hội Séc. Năm 1955, trong tiểu luận Quanh những cuộc bàn cãi về di sản, ông đã hăng hái ủng hộ một cách đầy thuyết phục Vitezslav Nezval, người từng tuyên bố sẽ không có thơ thế kỷ XX, nếu thiếu Guillaume Apollinaire.
Nhưng bảo vệ phái tiền phong không phải là đề tài duy nhất trong bài viết của Kundéra. Ông khẳng định rằng trong văn học thế giới có chỗ cho mọi khuynh hướng khác nhau. Kundéra không đi theo sự phân chia thơ ra thành thơ truyền thống và thơ tiền phong, ông có các tiêu chí phân loại khác. Thứ thơ gần gũi nhất với mình ông gọi là “Thơ ca của cuộc sống trần thế”: Rimbaud - Apollinaire - các nhà vị lai Nga - Nezval thời trẻ. Nhưng ông cũng thừa nhận các đại diện của thứ thơ “triết học tư tưởng” mà ông xếp vào đó Mallarmé - Valéry - Rilke - Pasternak, thừa nhận thứ thơ chính trị bậc cao. Luận điểm chính trong quan niệm của ông là trên cơ sở những thành tựu đã có cần phải tiến tới sự tổng hợp: “…nghệ thuật của chúng ta đang dần dần bước vào một thời đại lịch sử rực rỡ của chủ nghĩa hiện thực cổ điển mới”.
Vào những năm đó, Kundéra bắt đầu giảng dạy văn học thế giới ở Viện Hàn lâm Điện ảnh Praha, nơi trong số các thính giả của ông có nhà đạo diễn sau này nổi tiếng Milos Forman. Gắn với hoạt động giảng dạy này là cuốn chuyên luận của Kundéra:Nghệ thuật tiểu thuyết. Con đường của Vladislav Vanchura đi đến sử thi lớn (1960). Thông qua sự đối chiếu cuốn tiểu thuyết cỡ vừa của nhà văn lớn thuộc phái tiền phong Séc với kiểu tiểu thuyết Balzac, ông nêu lên quá trình tiến triển của thể loại tiểu thuyết - từ phác họa chân dung xã hội đến phản ánh con người riêng rẽ.
Nhưng tiểu thuyết mới là khu vực Kundéra dành được sự chú ý cần thiết. Những tác phẩm chính của ông gồm có Chuyện đùa (1967), Cuộc sống không phải ở nơi đây (1970), Nhẹ kiếp nhân sinh (1984), Sự bất tử (1990), Chậm rãi (1994) (mấy cuốn về sau được ông viết thẳng bằng tiếng Pháp, sau khi chuyển sang sống ở Pháp). Các bản dịch tiểu thuyết của Kundéra thuộc vào danh mục các sách bán chạy và được trao nhiều giải thưởng uy tín không chỉ ở các nước Tây Âu, mà còn ở Mỹ - ở đấy đã có bốn tập chuyên khảo và một tập bài viết về sáng tác của ông, một bộ phim do không thành công và bị ông từ bỏ, nhưng hiển nhiên là đã góp phần thêm cho danh tiếng của Kundéra). Các sách của ông còn được dịch ra tiếng Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên và các thứ tiếng châu Á khác.
Về tiểu thuyết châu Âu
Tiểu thuyết đối với Kundéra - đó là tiểu thuyết châu Âu, ở đây thuật ngữ “châu Âu” chỉ thuộc về một kiểu văn minh nhất định. Lịch sử tiểu thuyết này ông dẫn từ Cervantes, đến Diderot người mà ông đặc biệt kính trọng, Balzac, Flaubert, Tolstoi, Joyce, còn trong thế kỷ XX ông tách riêng ra “truyền thống Trung Âu” được đại diện bởi những tên tuổi Kafka, Hasek, Broch, Musil, Gombrowiz. Hạt nhân quan niệm này là ở chỗ Kundéra xem tiểu thuyết không phải như một trong các thể loại văn học giữa các thể loại khác, mà như một phương pháp phức hợp nhằm nhận thức cuộc sống và đưa lại những kết quả nhiều khi còn đáng tin cậy hơn so với các nghiên cứu khoa học.
Khái quát kinh nghiệm tích cực của các nhà văn kể trên, hoặc của T.Mann, E.Hemingway và một số người khác, cũng như tiếp tục suy xét những bài học từ sáng tác của chính mình, Kundéra nêu lên những yêu cầu mà tiểu thuyết cần phải đáp ứng để có khả năng hoàn thành được sứ mệnh cao cả. Tiểu thuyết, theo Kundéra, thể hiện trong mình “tinh thần của phức tạp”, “hiền minh của hoài nghi”, nó không đi tìm các câu trả lời mà đặt ra các câu hỏi, nó nghiên cứu chính ngay bản chất sự tồn tại của con người. Đối với ông, tiểu thuyết trước hết là “sự tổng hợp trí tuệ lớn”, tự do thu nhận vào mình những suy tư về bất kỳ đề tài nào: “Không cái gì có thể đưa ra suy luận mà lại bị loại ra khỏi nghệ thuật tiểu thuyết”. Đó không phải là những đoạn tiểu luận ngoại đề, mà là tư tưởng mang tính động lực chung bao trùm tất cả, toát ra từ các tiểu thuyết giá trị.
Ông viết: “Các nhân vật trong các tiểu thuyết của tôi – đó là những khả năng riêng mà tôi không thực hiện được. Vì thế tôi yêu mến tất cả chúng như nhau và cũng kinh sợ chúng như nhau, mỗi người trong số các nhân vật đó đã bước qua giới hạn mà bản thân tôi chỉ dám đi vòng. Chính cái giới hạn này (giới hạn mà đằng sau đó cái “tôi” của tôi kết thúc) đã lôi cuốn tôi. Chỉ ở phía sau nó mới bắt đầu những bí ẩn mà tiểu thuyết cần phải dò hỏi. Tiểu thuyết cần phải dò hỏi. Tiểu thuyết không phải là một thứ tôn giáo của tác giả, mà là sự nghiên cứu cuộc sống trong cái cạm bẫy do thế giới biến thành”.
Điều làm Kundéra băn khoăn là độc giả hiện đại thích đọc các sách viết về những chuyện đồn đại của cuộc đời các nhà văn nổi tiếng, chứ không phải là các tác phẩm của họ. Theo ý ông, trong tiểu thuyết - “thứ văn xuôi tổng hợp lớn dựa trên trò chơi với các nhân vật hư cấu” – tác giả, khi đưa ra những đòi hỏi, những quyết định có thể hay không thể của mình để thử thách các nhân vật đó, tỏ ra tự do và cởi mở hơn rất nhiều so với qua thư từ, nhật ký, hồi ức. “Trò chơi với các nhân vật hư cấu” không nhằm mục đích đạt đến sự giống như thật, nhưng cũng không mâu thuẫn với những sự tìm kiếm chân lý, ngược lại, nó kết hợp với những suy ngẫm tạo thành cơ sở của sự nghiên cứu theo kiểu tiểu thuyết đối với cuộc sống. Theo niềm tin của Kundéra, tiểu thuyết kiểu mới hầu như sẽ tự động mang theo vấn đề phức điệu. Ông nhấn đi nhấn lại bản chất tra vấn của tiểu thuyết, khả năng hoài nghi tất cả của nó. Chính dựa vào đó, theo Kundéra, nhà tiểu thuyết mới có khả năng tiến sát đến việc khám phá ra điều bí ẩn duy nhất mà hắn phải quan tâm - “điều bí ẩn của hiện sinh mà chỉ hắn và nghệ thuật tiểu thuyết của hắn mới khám phá ra được”.
“Sau Joyce, chúng ta đã biết rằng sự phiêu lưu lớn nhất trong cuộc sống đã chuyển vào bên trong con người”. Các nhà phê bình coi câu nói của đó là “tín điều” của Kundéra, thán phục sự quan sát tinh tế và sâu sắc của ông.
Kundéra rất quan tâm đến việc dịch. Chẳng hạn ông đã có riêng một bài viết phân tích việc dịch một câu của Kafka ra các thứ tiếng khác nhau. Bài viết đó cũng không hẳn nói về việc dịch, mà là nói về đặc thù của nghệ thuật tiểu thuyết. Kundéra khuyên: Phải đọc các tiểu thuyết thật chậm rãi, chăm chú. Tuy thừa biết rằng khó mà tìm được một người nào trên đời đọc sách lại không nhảy cóc từng trang, ông vẫn tin cần phải viết ra những cuốn tiểu thuyết đáng để đọc chậm.
Nhìn chung, Kundéra tin tưởng vào thiên chức xã hội, nhân văn cao cả của nghệ thuật tiểu thuyết. Khi đưa lại cho con người sự nhận thức phù hợp nhất về ý nghĩa của sinh tồn, nó đối lập lại các phương tiện thông tin đại chúng - những cái không để cho con người đối diện với chính mình, tước mất của con người ký ức lịch sử, đè nén cá tính của con người: “Cuộc sống thường xuyên bị ngốn nuốt bởi các “sức mạnh thoái hóa” và công việc của nhà văn - đó là những nỗ lực Don Quichotte nhằm bảo vệ con người khỏi sự thoái hóa, là khát vọng tạo ra một thế giới tưởng tượng nhỏ bé có sự tươi mới của một câu hỏi bất ngờ”.
TỪ TRẢI NGHIỆM ĐẾN BẢN SẮCTức thời, cuốn hút, những nhân vật đầy ám ảnh!
Đây là một cặp tình nhân, Jean - Marc và Chantal – chàng thì trẻ hơn nàng một ít – vừa âu yếm vừa đùa nghịch. Một bữa anh chàng bày ra một trò đáng ngờ để làm cho cô nàng tin vào khả năng mình có thể khơi dậy những tham muốn của những chàng trai khác. Quả là một sáng kiến chết người: Kết cục anh chuốc lấy sự ghen tuông và giết chết những ý định ban đầu. Còn với cô Chantal, đàng sau cái mưu mô và cạm bẫy đó, đã nhen nhúm lên những ý nghĩ thù địch, hoàn toàn đi ngược lại cái ý đồ tốt đẹp đã khuyến khích người bạn tình của mình khởi xướng ra trò này. Từ nghi ngờ đến khinh ghét, một kết cục thật trớ trêu.
Một trò vui trở thành bi kịch, đây là tấm phim X-quang mang chất bệnh viện về sự hiểu nhầm cơ bản gắn liền với những lứa đôi. Với những ai từng hâm mộ những cuốn sách của Kundera thì chuyện này không làm họ bỡ ngỡ. Cái có nguy cơ làm họ lạc hướng chính là cái hình thức mới của thứ “nghệ thuật tiểu thuyết” mà ông thực hiện ở đây, đặc biệt là sự biến mất hoàn toàn sự can thiệp của tác giả và những thể nghiệm riêng của ông để trở về với cái công thức thuần túy Kundera, đưa thiên truyện quay lại dòng chảy trước kia của ông. Ở đây, không chỉ những cảm nghĩ, những suy tư hiện sinh bị tước đi mà, đơn giản thôi, chúng được gắn liền với nhân vật (trong lời nói và những ý nghĩ thầm kín của họ). Ở đây có sự hoán vị khá thường xuyên giữa hai cách nhìn, hai giọng nói, hai cảm nghĩ. Từ đó người ta hiểu được tại sao mỗi con người trong hai nhân vật chính đó lại hiểu sai về người kia, không nhìn thấy được “bản sắc” thực sự của đối tượng, hiểu lầm về động cơ và dụng tâm của đối tượng mình. Tất cả những cái đó mở đầu cho việc dẫn dắt đến một kết cục bi đát.
Như vậy, người ta có thể suy luận rằng Kundera quay về với thứ tiểu thuyết tâm lý thuần túy và đơn giản chăng? Chẳng phải thế. Bởi vì cách kết cấu đó cũng phục vụ cho sự triển khai những tình huống trong đó đủ loại những chủ đề phụ thâm nhập vào. Chính là qua đó một cuốn tiểu thuyết sẽ làm cái chức năng mà Kundera luôn luôn gán cho nghệ thuật viết truyện: Phát lộ ra cái phần sâu kín của sự trải nghiệm của con người vốn chỉ mình ông mới có thể làm cho nó bật ra một cách bất ngờ.
Vì hiểu rõ hơn bản thân các nhân vật (nhờ đi vào đời sống nội tâm được che giấu trong mỗi người), độc giả của Bản sắc (L’Identité), lập tức đặt mình vào trong cái ảo tưởng cho là mình chi phối được mọi tình huống mà thiên truyện gợi nên. Và rồi dần dần sự tin chắc ấy bị lung lay. Có những sự trượt ngang đầy bối rối, những sự trùng hợp lạ kỳ, khiến người ta bắt đầu liên tưởng đến nghệ thuật kết cấu (với thủ pháp “các mô típ tiếp nối” giữa các lớp tách biệt nhau một đặc trưng kết cấu thường có trong những tiểu thuyết của Kundera), trước khi cảm thấy rằng cái đó dần dần biến đổi cả cái cách thức “giống như thật” đặt ra ngay từ đầu. Và người ta cũng bị cuốn đi một cách vô thức từ thế giới thực đến thế giới mê sảng, bất an, gần với thế giới của Kafka, lên tới đỉnh điểm trong những hồi lớp cuối. Những tiểu thuyết gia Mỹ Latinh như Cortázar, Garcia Marquez, Fuentes đã làm cho chúng ta quen với sự cộng sinh trong cùng một thiên truyện giữa chủ nghĩa hiện thực và cái hoang tưởng.
Nhìn từ ngoài, ngòi bút của Kundera đã chuyển qua ba giai đoạn: Từ năm 1972, 4 tác phẩm được viết bằng tiếng Tiệp tại Tiệp Khắc; đến năm 1988 ba cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếp Tiệp, nhưng tại Pháp; và sau đó hai cuốn mới viết ở Pháp bằng tiếng Pháp.
Theo Kundera, mỗi một nhà viết tiểu thuyết xứng đáng với cái tên ấy thường tuân thủ hai điều luật: Thứ nhất, chỉ nói những gì chưa nói ra; Thứ hai, luôn luôn tìm kiếm một hình thức mới. Tuy nhiên, việc tìm kiếm hình thức mới có những giới hạn của nó. Để khỏi đánh rơi mất tính độc đáo của mình, người ta không thể vượt khỏi những giới hạn của chính bản thân mình. Đấy là lý do tại sao những hồi lớp của Bản sắc viết bằng tiếng Pháp lại mang cái giọng điệu như những cuốn viết bằng tiếng Tiệp. Kundera nói: “Ngôn ngữ của tôi tìm cách trở nên đơn giản, chuẩn xác, gần như trong suốt, và nó muốn được như vậy trong bất cứ ngôn ngữ nào. Nhưng trước hết tôi nhấn mạnh đến điều này: Nhà văn được quy định bởi một vòng ma thuật của những chủ đề nào đó để biết ra được những bí ẩn hiện sinh đã ám ảnh suốt đời họ và là lý do khiến họ cầm bút”.
Cũng theo Kundera: “Tiểu thuyết Tiệp giống như hình thức của một bản sonate: Một nhạc phẩm lớn có nhiều chương tương phản nhau. Với cuốn Sự bất tử (L’Imortalité) tôi đã đi đến tận cùng của hình thức này. Sau đó, đối với tôi chỉ còn là việc đóng cửa lại hay chuyển sang một hình thức mới. Sau đó nữa, khi tôi không chờ đợi, và với niềm vui hiếm hoi và một sự nhanh chóng hiếm hoi, tôi viết cuốn Sự chậm chạp (La Lenteur) và lập tức tôi đã thoát ra. Từ nghệ thuật sonate tôi đã đi vào nghệ thuật fugue (tấu khúc): Khuôn khổ ngắn hơn, một nguyên khối có thể chia cắt, cũng cùng với những chủ đề và mô típ không ngừng có mặt và không ngừng thay đổi. Tuy nhiên, những vấn đề cũ về mặt hình thức tiểu thuyết vẫn tồn tại, chẳng hạn làm thế nào hội nhập cái không thể xảy ra trong một cuốn tiểu thuyết được coi là sáng suốt? Làm thế nào để đưa cái không thể nhận thấy vào sự chuyển biến từ một hiện thực đến một giấc mơ?”.
Ông từng nói nhiều đến cái vòng ma thuật của những chủ đề và lý do tồn tại của tác phẩm, việc khám phá những chủ đề lớn của sự tồn tại. Có khá nhiều chủ đề trong Bản sắc đã hiện diện trong những tác phẩm trước đó (như tình bạn, hiểu lầm, huyền thoại hóa) và một số nét mới (như âu lo, bên lề và bản sắc). Nhưng cái chủ đề xuyên suốt và cố kết tất cả lại trong Bản sắc là tình yêu, một tình yêu hết sức buồn cười.
Theo tác giả, Chantal của Bản sắc chính là người chị em bí mật của Agnès trong Sự bất tử. Agnès tự hỏi: “Làm sao có thể sống trong một thế giới mà tôi không coi đó là thế giới của mình, với nó tôi từ chối không nhìn nhận bản sắc của mình?”. Agnès thấy có hai giải pháp: Tình yêu hay nhà tu kín. Tình yêu: Một từ bị ô uế, nhưng kinh nghiệm thì cực kỳ hiếm hoi. Không hiểu được nó, Agnès chỉ có một con đường: Con đường mà cô gọi một cách hoán dụ là nhà tu kín. Âm thầm, cô đến sống biệt lập trong vùng núi Thụy Sĩ như Fabricedel Dango trong cuốn Tu viện thành Parme xưa kia. Nhưng vẫn còn một giải pháp thứ hai: Cái cách sống khác để sung sướng trong một thế giới mình không yêu mến. Đây là tình yêu, là giải pháp mà Chantal chọn lựa. Trong tình yêu, từ những thuở ban đầu thời Trung cổ, đã mang tính chất tà giáo, và Kundera muốn khám phá ra việc cái chất tà giáo đó đã có thể tồn tại như thế nào trong thời đại này.
Một câu chuyện thực trở thành một giấc mơ hủy diệt, và đây là bước đột phá mới về tiểu thuyết của ông, một nhà văn đang được ngưỡng mộ.
NGÂN XUYÊN