← Quay lại trang sách

Chương 18 TRẢ THÙ CHO BÉ SOMALI-

Wendy nói:

-Ngoại hãy cho con biết chi tiết tội ác của từng người để con liệu mà “đòi nợ”. Chúng ta hãy bắt đầu bằng kẻ đã giết Somali.

-Nó là một con mèo hoang chừng hai tháng tuổi. Nó đen nhẻm và chỉ to bằng củ khoai. Một đứa bé Somali còi cọc, da bọc xương, lông rụng gần hết, chỉ còn sót lại những nhúm nhỏ xơ xác, tả tơi và khô cháy. Lần đầu gặp nó, ngoại tưởng là một con chuột. Và cũng không khác nùi giẻ là mấy. Nó di chuyển từ cái chậu kiểng nhà hàng xóm đến cổng nhà ngoại. Nó chui vào cổng tìm nhặt thức ăn thừa của lũ mèo nhà bỏ sót.

Ngoại không dám nhúc nhích, sợ nó bỏ chạy. Ngoại đợi cho nó ăn hết mấy hột cơm thừa, mấy miếng cá vụn xong mới dám gọi: “Meo!”. Gọi rất nhỏ. Nhưng nó cũng bỏ chạy, trốn trong cái chậu kiểng nhà hàng xóm lúc nãy.

Ngoại ngồi xuống, khum hai bàn tay như cái tổ chim, đưa ra phía trước. Meo! Đừng sợ. Chờ chút. Ông ngoại đi lấy cá cho con.

Khi ngoại đem con cá nục hấp ra thì rất may, nó vẫn còn đó, nhưng ngoại không dám lại gần. Ngoại đặt con cá cách nó chừng một bước chân rồi bỏ đi. Núp sau cánh cổng, quan sát.

Chừng một phút sau, cậu bé Somali bước ra rất nhanh, tha con cá rồi rút vào giữa mấy cái chậu kiểng.

Buổi chiều hôm đó ngoại lại đặt con cá ngay khoảng trống giữa những chậu kiểng rồi bỏ đi.

Một tiếng đồng hồ sau ngoại quay lại để nhặt xương cá thật sạch, đem vứt xuống sông vì sợ hàng xóm phát hiện xương cá sẽ phàn nàn là ngoại cho mèo ăn làm dơ bẩn thềm nhà của họ.

Một tuần sau, chú bé Somali đã mọc lông lún phún, trông đã ra dáng một con mèo. Và nó cũng dạn dĩ hơn. Tuy vậy, buổi tối khi ngoại cho lũ mèo hoang ăn ngoài gốc cây thì nó là đứa sau cùng đến “dọn dẹp” những thứ còn sót lại.

Nó là kẻ lượm mót, là kẻ cùng đinh, là kẻ ăn xin của những đứa ăn xin, là sinh vật đói khát của những

kẻ đói khát, là mèo hoang của những con mèo hoang.

Mèo hoang! Chúng không “chảnh” như những con mèo nhà, chúng không chê thứ gì. Chúng ăn cả đầu cá, xương cá, thịt bầy nhầy, da heo. Cơm thiu chúng cũng không từ. Vì thế khi chúng bỏ đi thì “hiện trường” sạch bách. Vậy mà chú bé Somali vẫn tìm được một vài thứ còn sót lại. Nhặt nhạnh, gom góp, tỉ mỉ… từng hột cơm vung vãi, từng cọng rau, từng cái vảy cá. Nó vừa ăn vừa quan sát chung quanh như một kẻ tàn tật đầy mặc cảm, sợ hãi bị đánh đuổi, bị chà đạp, bị giết chết bất cứ lúc nào.

Ngoại núp sau cánh cổng, nghĩ cách đến gần nó, bế nó để vuốt ve nó, cho nó hiểu rằng không việc gì phải sợ, rằng tuy con nhỏ bé, xấu xí, yếu đuối, nhưng trong lòng ngoại thì con vẫn là một tác phẩm của tạo hóa với đầy đủ những kỳ diệu của một sinh vật mà chỉ có tạo hóa mới sáng tạo được.

Người ta có thể chế tạo ra một chiếc điện thoại thông minh, một vệ tinh nhân tạo hay một robot biết nói tiếng người, nhưng không bao giờ có thể chế tạo được một con mèo, cho dù còi cọc, xấu xí như con.

Ngoại muốn làm mọi cách cho con hiểu rằng con là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thiêng liêng không gì có thể thay thế được, rằng con không phải là một món đồ chơi, một vật dụng, một cái máy. Con là một sinh linh, con đang sống cuộc đời của mình như bao sinh vật khác, như chính ông ngoại, đang cảm nhận thế giới chung quanh, đang đau khổ và hạnh phúc, đang sợ hãi và thèm muốn một mái ấm, một sự vuốt ve âu yếm, một tiếng gọi dịu dàng.

Người ta có thể đem bán con một đồng, không ai thèm mua, nhưng con vẫn là một tác phẩm kỳ diệu gấp ngàn lần chiếc điện thoại thông minh giá 20 triệu. Con nhỏ bé nghèo nàn và tội nghiệp của ngoại, làm sao để ông ngoại có thể nói cho mọi người hiểu điều đó?!

*

Nửa tháng, một thời gian quá ngắn để có thể biến một con mèo con còi cọc thành một chú bé sởn sơ như những đứa khác.

Nhưng chỉ trong một giây, tạo hóa có thể xóa bỏ một tác phẩm mà ngài đã tạo ra.

Tại sao vậy? Lẽ nào ngài lại quên mất rằng tác phẩm ấy tuy nhỏ bé nhưng dù phải đầu tư một tỷ đô la thì các nhà khoa học cũng không chế tạo ra được? Lẽ nào ngài vô cảm, hay ngài chỉ là một quyền lực “phi ngã”?

-Phi ngã là gì? Wendy hỏi.

-Là impersonal. Tức là không có tính người.

-Con hiểu. Ngoại tiếp đi.

Như thường lệ, 6 giờ sáng trước khi đi tập thể dục, ngoại đặt con cá cạnh cái chậu kiểng. Một tiếng đồng hồ sau trở về, ngoại vẫn thấy con cá còn nguyên đấy.

Buổi tối, lũ mèo hoang các nơi tụ về dưới gốc cây bàng, nhưng nơi chậu kiểng không có con Somali nằm đợi như mọi khi.

Ngoại bắc ghế ngồi chờ sau cánh cổng đến khuya. Vẫn bặt vô âm tín. Sao vậy? Nó chưa tới tuổi động dục. Nó cũng không bị lũ mèo hoang ăn hiếp. Thế thì nó đi đâu?

Ngoại nghĩ ngay đến người chủ đống gỗ mục từng vác gậy đánh ngoại, từng ném hộp thức ăn của mèo xuống sông. Có thể nào bà ta không muốn cho nó tá túc nên đã đánh đuổi nó đi? Có thể nào nó đã lẻn vào bếp của ai đó và đã bi đập chết, ném xuông sông?

Ngoại lùng sục trong các bụi cây, các chậu kiểng bày trước nhà hàng xóm. Ngoại đi lang thang mấy vòng quanh tất cả các nhà trong xóm, vừa đi vừa gọi meo meo. Tiếng gọi vang lên giữa im lặng như tiếng con thú lạc bầy, như tiếng rao buồn của những người mua ve chai lang thang trên chiếc xe đạp lọc cọc.

Những tiếng meo meo rơi rớt trong vô vọng, như mớ lá khô bay lả tả, âm thầm, thất lạc trong cỏ rối, trên bờ sông, trên vỉa hè câm nín.

Rồi ngoại trở về, đứng ngơ ngác trước cổng nhà mình như một hình hài cũ kỹ, đơn độc, không biết nhờ cậy ai, không biết chia sẻ cùng ai…

Bỗng dưng, từ đâu đó có tiếng gọi nhỏ nhoi của một đứa bé gái:

“Ông ơi! Ông đi tìm mèo hả? Có phải ông tìm con mèo nhỏ xíu màu đen không”?

“Phải. Sao con biết nó”?

“Con thấy ông thường cho nó ăn”.

Đó là bé Vân, mười hai tuổi, ở sát cạnh nhà ngoại. Nó đang ôm một con tam thể trước ngực.

“Con thấy nó ở đâu không”?

“Nó chết rồi ông à. Trưa hôm qua, con thấy ông Hai ném xác nó xuống sông”.

“Nhưng sao nó chết”?

“Lúc đó con thấy nó đang giỡn với chiếc dép của ông Hai để ngoài cửa, thì ông Hai từ trong nhà bước ra. Thấy quai dép bị cắn đứt, ổng tức mình đá nó một cú rất mạnh. Nó văng vô tường. Hộc máu chết liền tại chỗ”.

Ngoại ngồi xuống vỉa hè, ôm mặt.

Khi mở mắt ra, ngoại thấy bé Vân ngồi bên cạnh.

“Ông đi theo con. Nó bị ném xuống ở chỗ này nè”.

Hai ông cháu ra bờ sông.

Đêm hôm trước, nước triều lên, lục bình trôi theo dòng đã lấp kín mặt nước. Ngoại lấy một cây sào dài, vạch từng dề lục bình ra kiếm, nhưng chúng dày đặc, tầng tầng lớp lớp. Những chiếc lá to bản, xanh ngắt và dày, liên kết nhau thành từng mảng lớn, trùng trùng điệp điệp như rừng. Biết tìm đâu ra một con mèo nhỏ như củ khoai vùi xác dưới chín tầng địa ngục ấy?

Wendy bấm nút tắt máy ghi âm. Cô nói:

-Ông ngoại kể chuyện thật cảm động. Đúng là nhà văn. Nghe xong là trong đầu con đã có cách bắt ông ta trả món nợ ấy rồi.

Út nói:

-Đừng nghĩ tới chuyện thù hận nữa. Hãy buông bỏ, vì tất cả chỉ là hư ảo.

-Chị không thù hận. Chị chỉ thi hành luật nhân quả. Ngay ngày mai, em và ngoại sẽ chứng kiến luật nhân quả ấy.

*

Như thường lệ, ông Hai đi làm về thì bấm còi trước khi lùi xe vào dưới bóng mát của tàn cây. Bà Hai ra mở cổng.

-Cơm đã dọn xong rồi. Anh ngồi ăn luôn.

Trong mâm cơm chỉ có hai ông bà và thằng con trai mười bốn tuổi. Thằng nhỏ đứng lên mở tủ lạnh lấy cho ba lon bia.

-Mời ba má ăn cơm.

Ông Hai khui bia, nốc một hơi dài, sảng khoái. Nhưng khi đặt lon bia xuống bàn, tự nhiên ông thấy đầu óc mụ mị, nửa như buồn ngù, nửa như bị lên máu. Rồi ông thấy mọi vật chung quanh trở nên mờ mờ ảo ảo.

Ba xã hỏi:

-Mình sao vậy?

-Tôi thấy chóng mặt. Chắc phải đi nằm một lát.

Ông đứng dậy. Nhưng thay vì vô phòng thì ông lại đi thẳng ra trước sân, mở cổng rồi xăm xăm ra bờ sông, tiến lại phía đầu cầu, ngay chỗ đám lục bình.

Như một kẻ mộng du, ông bẻ một nhánh cây bần, suốt sạch lá rồi lội xuống nước. Nước ngập lên tới bụng ông nhưng ông cứ tiếp tục lội, vừa đi vừa cầm nhánh cây bần xăm lia lịa xuống đám lục bình, miệng thì kêu:

-Meo meo! Meo meo! Con đang nằm ở đâu? Con đang nằm ở đâu hả con?

Cứ nói lui nói tới một câu đó rồi khóc.

Ban đầu chỉ có bà Hai và đứa con trai đứng trên bờ sông lo lắng nhìn. Lát sau thì sự lo lắng đã biến thành hoảng hốt, không biết chuyện gì đang xảy ra. Chừng mười lăm phút sau đã thấy hàng xóm kéo ra bờ sông cả chục người. Rồi trẻ con. Rồi những người bên kia cầu cũng chạy đến.

Nhưng ông Hai hình như không để ý gì đến chung quanh. Ông cứ vừa lội vòng vòng vừa xăm nhánh cây xuống đám lục bình vừa khóc:

-Meo meo! Meo meo! Con đang nằm ở đâu? Con đang nằm ở đâu hả con?

Chừng một tiếng đồng hồ sau mới có bốn anh dân phòng lội xuống sông dìu ông lên bờ, khiên ông vô nhà. Khi đã nằm trên giường rồi mà ông vẫn còn khóc nức nở:

-Meo meo! Meo meo! Con đang nằm ở đâu? Con đang nằm ở đâu hả con?

Từ đó mỗi lần ông bước ra trước nhà là cứ muốn mở cổng đi ra bờ sông, lội vô đám lục bình tìm

Wendy thi hành luật nhân quả

mèo. Vợ con ông phải kèm một bên để ngăn cản.

Bà vợ có ý kiến:

-Hay là mình đem ô-tô vô nhà. Từ trong nhà lái xe đến công ty luôn. Có được không?

Họ đã thử làm như vậy nhưng khi ô-tô vừa ra khỏi cổng thì nó quẹo ra bờ sông, chui xuống đám lục bình. Ông Hai sợ quá thắng xe, nhưng không tắt máy được. Ông la lớn:

-Cứu tôi! Cứu tôi với! Ai cứu tôi với!

Thế là ông ta không thể nào đi làm được.

Nửa tháng sau, cả nhà phải chuyển đi nơi khác.