← Quay lại trang sách

Chương XXII

Lương và Hà đã hẹn nhau chỉ đi ba tháng rồi trở về, nhưng bệnh tình bé Cao kéo dài mãi nên đến gần Tết Hà mới nhắn về cho Lương biết nàng và hai con sẽ trở về trước Tết.

Những buổi chiều cuối năm, chiều nào Lương cũng ra bến đò chờ đợi, nhưng cho mãi đến chiều ba mươi Tết, chuyến đò cuối cùng cập bến cũng không hề mang theo bóng dáng vợ con anh. Lương buồn bã, cúi đầu quay gót trở về. Anh lang thang dọc theo con đường ngoài bờ sông thật lâu mới rẽ vào làng, làm như đi gần giòng sông chừng nào Lương càng có cảm tưởng gần gũi vợ con anh hơn chừng ấy.

Sáng mồng một Tết, Lương mở mắt với nỗi bàng hoàng quạnh quẽ, quanh mình chẳng có một ai, anh buồn bã chỗi dậy mặc áo quần, chiếc áo sơ mi trắng Hà gởi về, anh chưa kịp nhuộm màu nâu hay màu xám đậm cho dễ tránh máy bay, anh chép miệng:

– Thôi hãy mặc Tết cái đã, rồi hãy nhuộm sau cũng được.

Lương ra khỏi nhà, ngơ ngác không biết mình đi đâu, có một cái gì thu hút khiến bước chân đưa Lương đi mãi về hướng bờ sông. Ánh nắng mai nhuộm vàng mặt sóng phản chiếu lên người Lương những bóng sáng nhảy múa rập rờn. Khí lạnh buổi sáng làm anh lạnh buốt rùng mình, anh tự trách mình đãng trí quên không mặc thêm áo ấm. Một người làng từ bến đò đi ngược về phía Lương, Lương nghe người ấy cất tiếng chào kèm theo một câu chúc Tết thì phải, Lương cũng chào đáp lễ và cũng chúc lại người ấy một câu. Lương tiếp tục đi mải miết cho đến khi bến đò vắng vẻ và con đập kéo dài ra tận giữa sông hiện ra trước mắt anh. Anh đi chậm lại, lần bước đi ra giữa đập, cho đến khi đi hết con đập anh mới dừng lại, đứng sững nhìn mặt sông, hình ảnh một chiếc thuyền từ từ cập bến hiện ra trong trí anh. Lương thấy Hà tươi cười, hai mắt sáng lóng lánh, xanh biếc như ngày mới yêu nhau, nàng từ trong khoang thuyền bước ra, đưa cao trên tay bé Mai hồng hào xinh đẹp như một đóa hoa, bên cạnh nàng bé Cao khỏe mạnh, cao lớn hơn ngày đi, đang reo mừng muốn nhảy ra khỏi mạn thuyền để ôm lấy cha. Lương bước tới một bước; hai tay anh run run đưa tới trước trong một cử chỉ đón nhận, nhưng hình ảnh bỗng mờ dần, chỉ có tiếng nước sông rào rạt vỗ vào bờ đập. Lương chợt bừng tỉnh, cảm thấy đau đớn trong lòng. Hơn bao giờ hết, anh nhớ quay quắt mùi sữa trên cổ con anh, mùi thơm ngai ngái trên mái tóc của vợ hiền.

Bây giờ Hà và hai con anh đang làm gì trong ngày đầu xuân này? Các con có hỏi mẹ chúng rằng cha ở đâu không? Hà sẽ trả lời con anh ra sao? Cả trăm ngàn ý nghĩ dồn dập trong trí Lương, anh đứng lặng một lúc lâu, thân hình anh cao lớn chơ vơ tận đầu bờ đập, gió thổi mạnh luồn vào chiếc áo sơ mi trắng của Lương làm phồng vạt áo sau lưng, kêu phần phật. Lương cảm thấy run cầm cập nhưng anh vẫn đứng yên, nhìn chăm chú theo một luồng nước chảy quanh co giữa giòng sông như một con đường được vạch ra giữa sông. Lòng thương nhớ vợ con khiến Lương nghĩ rằng đó là con đường mà chiếc thuyền mang vợ con anh sẽ theo đó mà xuôi đến bến này. Anh không thể hiểu được có việc gì khiến Hà không thể mang con về như đã hứa với anh.

Bên tai Lương chợt có tiếng rù rù vẳng lại từ đàng xa. Anh định thần lắng nghe xem đó là thứ tiếng gì, có lúc giống như tiếng một con bò rống vang qua cánh đồng xa, cũng có lúc nghe như tiếng gió vi vu, mãi đến khi mắt anh nhận thấy những chấm đen lạ hiện ra trên giòng sông lòa nắng từ xa thật xa, lúc đầu thật nhỏ, sau rõ dần dần. Lương giật mình, máu trong người anh như đông đặc lại, “đúng là ca nô của địch.” Có đến năm hay sáu cái. Lương vội cúi khom người chạy ngược vào bến. Từ bến đò Lương chạy băng qua cánh đồng, anh thở hào hển, men theo những con đường có bụi cây che khuất, chạy mãi, trong khi tiếng động cơ của ca nô địch mỗi lúc một lớn hơn từ ngoài sông.

Vào đến đường làng, anh nghe có nhiều tiếng người la lên từ đầu xóm, nhưng những con đường trong làng vẫn còn vắng hoe vì sáng mồng một Tết, mọi người đang bận lễ buổi sớm, chưa ai ra khỏi nhà.

Một tràng súng nổ vang giòn giã từ phía xóm nhỏ ngoài sông. Lương chạy vội về nhà, cất giấu một vài đồ đạc, thay một bộ áo quần đen. Vừa lúc ấy cả làng đều được báo động, người ta truyền miệng nhau, giặc về làng, đang đụng nhau với bộ đội ở ngoài xóm bến. Tức thì làng trên xóm dưới, những trai tráng và phụ nữ trẻ tuổi đều lũ lượt rời khỏi các căn nhà, dìu dắt nhau chạy ra những đụn cát trắng phau trùng điệp sau làng. Trong làng chỉ còn lại những người già và trẻ con ở lại giữ nhà mà thôi.

Độn cát của miền này rộng mênh mông trắng xóa, đồi cát nọ nối tiếp đồi cát kia kéo dài ra tận bờ biển Thái Bình. Ở vùng này, mỗi khi Tây về khủng bố, mọi người trong làng đều chạy ra ẩn núp trong các làng chài lưới dọc bờ biển khuất sau những đồi cát chạy dài như một tiểu sa mạc. Tại đây màu cát trắng xóa dễ dàng tố cáo bóng dáng quân giặc xuất hiện từ xa hàng vài cây số. Họ có thể cứ thế dọc theo bờ biển chạy mãi cho đến khi hết tiếng súng, nghe ngóng tin giặc đã rút lui, mọi người mới lần bước trở về thôn xóm của họ.

Lương chạy qua nhà Huyên, cách nhà anh một khu vườn.

Vừa ra đến đầu đường, Lương gặp Huyên đang chạy về phía anh:

– Em định qua mừng tuổi anh không ngờ lại rủ anh chạy giặc.

– Thì anh cũng sang rủ em chạy giặc đây.

Hai anh em cùng cười, thong thả sóng bước bên nhau đi theo con đường dẫn ra ngoài đồi cát.

Tiếng súng vẫn còn ngoài sông xa nên mọi người trong làng đều dừng lại, quanh quẩn ven hàng dương liễu sau làng để nghe động tĩnh, xem tình hình ra sao, chưa ai muốn chạy đi xa.

Lương và Huyên đứng dưới một cây dương liễu, bóng đổ che nắng từ trên cao tỏa khắp một vùng cát trắng. Từ trên đồi dương nhìn xuống, hai người trông rõ nhà cửa làng mạc và cánh đồng trải dài đến tận bờ sông. Bấy giờ những chiếc ca nô địch chạy ngoài sông đang quay mũi vào cái xóm nhỏ ngoài bến sông. Từng loạt súng nổ vang rền, thỉnh thoảng một trái phá từ tàu địch bắn vào, sau tiếng nổ dữ dội một vầng khói trắng đục bốc lên sau lùm cây.

Trên đồi dương liễu sau làng, mọi người bàn tán lao xao, tiếng nói chuyền từ cây nọ qua lùm cây kia.

– Chà, tiếng súng nổ giòn quá, tụi Tây đi chúc Tết bà con mình đấy mà.

– Kể ra thì bộ đội mình lịch sự thiệt, mang đãi khách toàn kẹo đồng nổ như bắp rang.

– Thật đúng là cái tụi đi cướp nước, chúng nó biết hôm nay là Tết của dân mình chớ, vậy mà cũng kéo nhau đi khủng bố cho được. Chẳng may đụng phải bộ đội rồi, phen này thì cho chết cả lũ.

– Ừ mà cũng lạ thiệt, bộ đội về đóng ở xóm ngoài hơn một tháng nay thôi, vậy mà tàu chúng nó ra là đổ bộ ngay chóc lên xóm ngoài, đụng nhau ngay.

– Thì bao giờ cũng có Việt gian chỉ điểm cho chúng nó, chứ chúng nó thì biết cóc khô gì.

– Ừ, thật đấy, chúng nó thì biết cái khỉ khô gì, chung quy cũng tại mấy thằng Việt gian bán nước cả. Tao ghét tụi nó còn hơn ghét Tây, bắt được tụi nó tao đâm liền, băm vằm làm trăm mảnh cũng chưa hả giận. Ngày Tết mà nó làm mình phải bỏ ông bà ông vải mà chạy có khói, ra đứng lóng ngóng giữa trời như thế này.

Tiếng một người con gái cất lên, giọng hằn học:

– Thôi im đi, đừng đứng đó mà nói tào, cái thứ đồ trói gà không nổi mà đòi giết ai. Nội một việc xóc cái bó lúa không lên nổi mà cứ lo nói trạng.

– Sao em khó quá vậy em, bởi vì anh học trò nên chưa quen gánh lúa, thương em rồi anh sẽ tập lần. Chữ nghĩa học mới khó chớ còn chuyện gánh lúa thì học mấy hồi em.

– Này đừng có đứng đó mà nói trây, ai anh em gì với cái mặt chú, cứ xưng học trò để làm biếng làm nhác. Không có chữ đui nào trong bụng cả mà cứ làm bộ làm tịch hoài ai mà thèm ưng lấy mấy thứ đó kia chớ.

Cô gái quê nguýt dài ngoe nguẩy bỏ đi một nước, chiếc áo cánh đen may sát bó chặt vào người làm nổi bật thân hình chắc nịch, đầy sức sống. Mọi người cười ồ, trong khoảnh khắc ai nấy đều cảm thấy vui vui, quên đi nỗi lo sợ của chiến tranh chết chóc kề cận.

Huyên nhìn theo cô gái:

– Ai như chị Chắt ấy anh nhỉ, sao hôm nay chị ấy trở chứng chua ngoa như thế chứ thường ngày em thấy chị ấy hiền và ít nói lắm mà.

Lương mỉm cười:

– Ừ, cô Chắt đó. Em vừa đi xa về nên chưa biết. Thằng Đại con ông Còm ở xóm dưới đó, hồi nhỏ học đâu được hết lớp năm, đọc chữ qua loa rồi bỏ học đi lêu lỏng, sau vào Huế học nghề chụp ảnh, lúc tản cư về làng nó làm dáng lắm; tóc chải láng mướt, áo quần chải chuốt, đi đâu cũng kè kè cái máy ảnh. Sau này chạy giặc cực quá nên cũng bớt đi, nhưng về nhà quê mà nó không chịu làm lụng gì cả, ngày chí tối lượn lên lượn xuống trong làng, o bế mấy cô con gái. Nghe đâu gần đây ông Còm cha nó đi dạm hỏi cô Chắt cho nó, nhà cô Chắt bằng lòng nhưng cô ấy chê thằng kia là thứ lỡ ông lỡ thằng, không chịu, cha của cô ấy thì cứ nhất quyết đòi gả cho được.

Huyên gật đầu:

– Chị ấy nghĩ phải đấy chứ anh nhỉ, ở nhà quê mà lấy mấy thứ đó làm gì. Tội nghiệp chị ấy thật, em nghĩ phong tục ở quê mình nhiều cái thật kỳ cục, con không ưng thì thôi lại cứ bắt ép phải lấy. Như vậy thật khổ phải không anh?

Lương nhìn em, anh vói tay gỡ một lá dương liễu vương trên tóc Huyên:

– Em nói thế bộ em quên ông nội của em bên nhà cũng nghiêm khắc lắm, luôn luôn gả các cháu gái theo ý mình, không thèm hỏi ý kiến bao giờ cả. Anh thấy các chị con các bác của em bên ấy đều gả như vậy cả, em nhớ không?

– Vâng, em nhớ, cũng may mà các chị ấy đều lấy chồng tốt cả. Thôi cũng được.

Lương trêu em:

– Thôi cũng được là thế nào? Còn em thì định sau này lấy chồng ra sao đó?

Huyên cười:

– Làm sao được hả anh? Đó là chuyện ngày sau. Bao giờ em gặp lại gia đình đã rồi mới nghĩ đến chuyện đó được. Em vừa nhận được tin nhà, mẹ em nay đau ốm hoài, gia đình em đang lâm vào cảnh túng quẫn, các em của em đang cực khổ lắm ở trong Hàn. Trong khi đó thì em ở đây, như bị giam lỏng, không làm gì được cả, vì mình chỉ là thành phần tiểu tư sản vô tích sự. Thậm chí em xin đi dạy học không lương để khỏi phải ở không người ta cũng hẹn rày hẹn mai. Em không biết rồi sẽ ra sao đây anh ạ.

Nét mặt Lương bỗng tối sầm lại:

– Anh hiểu, anh hiểu, lại vẫn cái trò đó. Dù sao thì chuyện đó đối với một cô bé như em không đến nỗi nào đâu em ạ. Em còn trẻ, còn nhiều thì giờ, còn nhiều điều có thể đính chính. Không ai có thể bắt buộc lớp người trước người sau phải chấp nhận tư tưởng của nhau. Anh nghĩ rằng với em, em còn đủ thì giờ để chọn lựa em ạ.

Huyên ngỡ ngàng nhìn anh:

– Anh nói cái gì em chưa hiểu, chọn lựa cái gì, hả anh?

– Ờ, thì cũng có lúc mình phải chọn lựa một cái gì đó. Không cần phải hiểu chi cho lắm. Hiểu thêm cực, em ạ.

Lương ngừng bặt, anh đưa mắt nhìn sang sông, tiếng súng vẫn nổ đều về phía xóm bên:

– Chả biết đánh đá ra làm sao ngoài ấy, gần trưa rồi, rút đi cho người ta về ăn cơm chứ.

Bỗng có tiếng ồn ào, từ phía truông có nhiều người rầm rập chạy tới, Lương chưa kịp hỏi han, nhưng nhìn ra cánh đồng, anh hiểu ngay. Những chiếc ca nô địch đã cập vào bờ, quân giặc đổ bộ lên dàn thành hàng ngang từ ngoài đồng tiến vào làng, chúng đi rải rác, lom khom, súng hờm trong tay, từ trên đồi dương sau làng trông xuống mọi người thấy những chấm nhỏ di động giữa đồng lúa xanh rờn.

Tiếng người la lên trong những lùm cây:

– Chạy đi thôi, Tây vào làng rồi đó.

Lương kéo Huyên chạy ra đồi cát, cát nóng luồn qua kẽ chân lọt vào giữa đôi dép cao su đen làm rát bỏng da chân, nhưng không ai nghĩ đến, mỗi bước đi trên cát làm họ trụt lại sau một chút nên vất vả lắm họ mới qua được bốn năm đụn cát. Xế chiều hai anh em ra đến đụn cát cuối cùng, họ đứng trên đỉnh, phóng tầm mắt nhìn biển cả hiện ra mênh mông như một tấm thảm xanh lơ vĩ đại bao la tiếp giáp với trời.

Từ xa, sát ven biển, những làng chài lưới cách khoảng nhau chừng vài ba cây số dọc theo bờ biển. Mỗi làng có độ hai chục nóc nhà, phần nhiều lợp bằng lá sơ sài. Có độ một hai căn nhà lợp bằng ngói đỏ, đứng chơ vơ giữa vùng cát trắng, không có một thứ cây cối gì tô điểm cho đỡ trống trải ngôi làng, ngoại trừ vài gốc dừa nghiêng ngả lẻ loi đầu ngọn gió biển. Quanh bãi biển ngoài làng những đám cỏ bồng vàng úa bò lan trên cát biển.

Tiếng súng xa xa vẫn nổ đì đùng sau lưng họ, gió biển tạt vào mặt họ mang theo hơi lạnh của cả một mùa đông lạnh buốt. Hai anh em đi chầm chậm trụt xuống đồi cát biển đến một ngôi làng.