← Quay lại trang sách

Chương XXV

Lương bị bắt vào ngày mồng năm, hai ngày sau khi chạy giặc trở về nhà. Huyên sửng sờ đau đớn, nàng câm nín nghe người làng bàn tán.

– Thằng Việt gian này ghê thật, học hành nhiều cũng có khác, nó thu xếp cho vợ cơn nó đi vào Huế trước rồi mới chỉ điểm cho giặc về phá làng phá xóm sau. Chả trách máy bay giặc thả bom tan nát cả làng mà nhà nó vẫn y nguyên, không biết nó làm dấu cách nào mà tài thế.

– Thì ra lâu nay làng xóm mình ấp rắn độc trong lòng mà không biết. Cái thứ đồ tiểu tư sản trí thức địa chủ thối nát ấy rồi chỉ đến bán nước là cùng. Công an mình cũng sáng suốt lắm, đã biết trước nhưng chưa có bằng chứng, cứ làm ngơ để đấy, bây giờ tội trạng đã rành rành mà nó còn leo lẻo kêu oan nữa đấy.

– Làm sao mà mình có được bằng chứng nó làm Việt gian thế?

– Ối dào, bằng chứng thì thiếu gì, này nhé, suốt mấy ngày gần Tết chiều nào nó cũng đi dọc bờ sông ra dấu hiệu cho đồng đảng của nó bên kia sông để liên lạc về dưới đồn làng Hạ. Nó lại còn kêu oan, nó bảo nó ra bến đò để đón vợ con ở Huế về, nghe kể cũng xuôi ta, nhưng đón ở bến đò thôi chứ, việc gì lại đi dọc bờ sông tháng chạp trời lạnh buốt thế, bộ đi hóng mát hay sao. Rõ ràng hơn nữa là sáng mồng một Tết, đúng ngày Tây đổ bộ vào làng, hôm ấy nó ra khỏi nhà từ sáng sớm trong làng chưa nhà nào mở cửa cả. Nó lại ra bờ sông, đò Huế về buổi chiều chứ làm gì có buổi sáng mà bảo đi đón vợ con, nó lại mặc một cái áo trắng cho Tây dễ nhận ra nữa chứ, lại ra đứng tận đầu bờ đập ở giữa sông để ngoắc tàu địch tới, thiệt nó không coi ai ra gì hết chỉ nghĩ đến chuyện rước giặc vào làng mà thôi. Nghĩ mà hú vía, hôm đó nếu không có bác Còi đi thăm mấy cái đơm đó đặt ngoài bờ lác bắt gặp nó ngoài sông thì làng mình còn nhiều trận điêu đứng nữa chứ chẳng chơi đâu. Bác Còi bác ấy bảo rằng khi nó bị bắt gặp đi một mình ngoài sông vào giờ ấy, bộ tịch nó lúng túng ra mặt, bác ấy chào và chúc Tết nó, nó cũng không dừng lại nữa.

– Ai mà ngờ nhà ông Nghè ăn ở tử tế như thế lại sinh ra một thằng Việt gian như thế. Cho con ăn học cho biết nghĩa lý hóa ra nó học tiếng Tây nó đi theo liếm gót thằng Tây. Nhà cửa ruộng vườn dư ăn dư để, đến nỗi gì mà phải làm bậy. Thiệt là lòng tham không đáy, chắc tụi Tây nó trả lương cho vợ con nó trong Huế cũng nhiều lắm.

– Nhiều là cái chắc, người làng mình vô Huế thấy mụ vợ thằng Lương ăn bận sang trọng, vàng đeo đầy mình đi trên chiếc xe hơi bóng lộn. Không có tiền của Tây trả lương bán nước cho thằng chồng ngoài này mà con vợ trong ấy lại được như vậy à.

– Tôi nghe nói gia đình bên vợ chú Lương giàu lắm, xe hơi hai ba chiếc, không chừng thím Lương đi xe của cha mẹ thì sao?

– Ơ, cái thằng này muốn bênh Việt gian địa chủ hay sao đó. Ai chẳng biết hồi mụ ấy ở đây nó giúp cho chú đem tiền về lo thuốc thang cho mẹ chú đau nặng. Chú thật ngu ngốc, cứ tưởng thế là nó tốt bụng, nó cho một nó lấy lại mười, chú làm việc cho nó thí chết chẳng kể đêm ngày chứ tốt lành gì mà bày đặt thương Việt gian địa chủ.

– Đừng nói thế tội chết. Nói là nói vậy chứ ai mà ưa được cái giống địa chủ Việt gian.

– Ừ, có thế chứ, dù sao thì tối nay họp tổ nông dân, chú cũng nên tự kiểm thảo sự yếu đuối đó để cho đoàn thể giúp đỡ cho chú dứt khoát tư tưởng với tụi địa chủ phong kiến đi nhé.

– Có gì đâu mà dứt khoát, tôi có thương tiếc gì họ đâu mà anh nói thế.

– Hừ, nếu chú không đưa ra thì tôi cũng phải đưa ra, phải xây dựng cho chú tiến bộ kịp với đà cách mạng vô sản chứ.

– Cái đó tùy anh.

Những luận điệu như thế cứ ngày này sang tháng khác gặm mòn tâm trí của Huyên. Nàng bước đi, lòng hoang mang sợ hãi đến cùng cực. Người anh họ mà Huyên thương mến nhất, quý trọng nhất giờ đây đã trở thành một người xấu xa tồi tệ nhất dưới mắt mọi người. Việt gian, không có danh từ nào nhục nhã cho bằng. Huyên âm thầm đau đớn, ngoài mặt nàng không dám tỏ lộ với ai ngay cả những bà con ruột thịt gần gũi nhất. Nàng hiểu thân phận nàng cũng chẳng hơn gì anh Lương của nàng, người ta còn để yên nàng vì nàng chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi mà thôi.

Lương bị bắt mang đi đâu không ai biết đã hơn một tháng, cả làng sau một hồi xôn xao bàn tán rồi cũng nguội dần đi. Không một ai dám tỏ vẻ lo lắng thương xót, mọi người đều nhất loạt biểu lộ sự căm hờn đến tột độ, tưởng chừng như nếu người ta đưa anh về làng lúc đó, dân làng sẽ ùa ra băm nát anh lập tức.

Huyên hết sức dè dặt trong việc đi tìm hỏi thăm tin tức của người anh. Nàng nói với người nhà rằng nàng đi qua bên kia sông để thăm người cô lấy chồng bên đó. Huyên tìm đến cơ quan của Huỳnh, gặp luôn cả Huỳnh và Trần trong một căn nhà trống trải. Hai người đang ngồi nói chuyện, vừa thấy Huyên, Huỳnh đứng bật dậy, ra đón Huyên từ ngoài sân, Huỳnh nói nhanh:

– Anh biết Huyên tìm anh về việc gì rồi. Hãy vào đây, có anh Trần ở đây nữa, chúng ta nói chuyện.

Huỳnh đưa Huyên vào nhà, chỉ một cái ghế cho Huyên ngồi, như cái máy Huyên ngồi xuống ghế, nhìn Huỳnh, đôi mắt buồn bã, chờ đợi.

Huỳnh trầm giọng nói:

– Anh và Trần đang định tìm gặp Huyên, vì biết rằng sau khi anh Lương bị bắt, Huyên ở bên ấy không còn ai nữa. Anh cũng biết rằng Huyên mong biết tin tức của Lương.

– Vâng, em lo lắng cho anh em quá mà không dám hỏi ai cả. Tội nghiệp anh em bị bắt oan, hai anh cũng biết đó. Chỉ vì anh ấy thương nhớ vợ con quá, lại có cái tật khi buồn thì ưa đi lang thang mà ra nông nỗi.

– Anh ấy bị bắt không oan đâu Huyên ạ.

Huyên mở to mắt nhìn Huỳnh:

– Cả đến anh mà cũng có thể nghĩ là anh Lương em làm Việt gian ư?

Trần mỉm cười chua chát:

– Huyên không hiểu, đó chỉ là một cách nói của anh Huỳnh đó thôi. Anh Huỳnh nói thế có nghĩa là chuyện người ta bắt anh Lương là một việc có dự liệu ở trong chính sách chung. Còn có tội hay không điều ấy không thành vấn đề.

Huỳnh ngắt lời Trần, đôi mắt bừng lên sắc giận:

– Anh ấy có tội chứ, tại sao không? Nhưng không phải bị tội làm Việt gian đâu, Việt gian chỉ là cái cớ để bắt mà thôi. Anh ấy có cái tội to lắm, tôi đã biết từ lâu, đó là tội tiểu tư sản trí thức, địa chủ phú hào, Huyên hiểu rõ chứ?

Huyên tái mặt, đôi môi nhợt nhạt của nàng run lên:

– Nếu thế thì nguy cho anh Lương em lắm rồi, em có nghe những chuyện như thế ngoài miền Bắc, không ai thoát chết được cả, miền Bắc cứ hễ địa chủ là có sẵn tội cường hào ác bá rồi.

– Đó là những vùng tương đối yên tĩnh, xa hẳn vùng địch chiếm, trái với miền Trung chúng ta, sát nách các đồn Tây, lại ở gần các thành phố của địch, cho nên để bắt đầu chính sách tiêu diệt giai cấp, người ta phải có những thủ đoạn thích hợp với từng địa phương, Huyên hiểu rõ điều đó chứ? Trí não của con người tinh vi lắm Huyên ạ.

Huyên tỏ vẻ nôn nóng:

– Hai anh có biết bây giờ anh Lương em ở đâu không?

Giọng Trần ôn tồn:

– Khi Lương mới bị bắt đưa lên tỉnh, anh có đến thăm, chả nói được gì nhiều, Lương nhờ nhắn với vợ con cứ ở yên trong Huế, đừng về làng nữa, việc ấy anh đã nhờ cô anh nhắn lại rồi. Lương rất bình tĩnh, đàng hoàng, tuy người tiều tụy lắm. Tất cả anh em chúng ta đều đau buồn khi nghĩ đến Lương trong tình trạng bi đát này, nhưng chúng ta cần phải bình tĩnh mới được Huyên ạ. Riêng các anh không biết phải làm sao đây, khoanh tay ngồi nhìn một người bạn bị hãm hại oan ức, những thằng con trai như các anh lại càng nhục nhã hơn Lương đang chịu cảnh giam cầm nữa.

Huyên cúi đầu:

– Vâng, em hiểu.

Huỳnh cười khẩy:

– Đừng hiểu gì cả mà đỡ khổ Huyên ạ. Huyên còn trẻ quá, hãy vui đời, hãy hồn nhiên mà sống, như thế lại hơn. Có thương anh Lương thì để bụng. Huyên đùng nghĩ rằng người ta có thể bằng lòng để yên cho một cô gái nhỏ tỏ lòng thương xót một người thân thích của mình. Thương Việt gian, thương địa chủ tội nặng lắm đấy. Khi về bên làng Huyên nên thận trọng là hơn. Hiện giờ các anh không thể biết Lương đang ở đâu, công an viện cớ giữ gìn bí mật chuyên môn nên không thể tiết lộ chỗ giam Lương cho ai biết, họ cho biết đây là trường hợp tội phạm chiến tranh rất nguy hiểm.

Huyên lặng người, nàng không thể khóc, cũng không nói gì được nữa.

– Anh đang nhờ những người quen có thế lực hỏi giúp, có gì anh sẽ cho Huyên biết. – Trần nói bằng giọng xót xa.

Huyên vâng dạ, một lát nàng đứng dậy buồn bã cúi chào Huỳnh và Trần để ra về.

Hai người tiễn Huyên ra cổng, Huỳnh nhìn theo dáng người gầy nhỏ của em gái bạn, nói với Trần:

– Tao e rằng cô bé này cũng khó ở yên với cái tụi ủy ban xã ở bên ấy, vì cô bé quấn quýt thương mến Lương quá đỗi. Bây giờ Lương bị bắt, không biết cô bé sẽ ra sao.

Trần nghiến răng:

– Có Trời mới biết được những gì có thể xảy ra giữa thời buổi này. Vậy mà không thấy Trời can thiệp gì cả, bộ mảnh đất này bị Trời bỏ quên hay sao.

Huỳnh chua chát:

– Nếu không bỏ quên thì cũng là không muốn nhớ, đằng nào cũng vậy thôi.

Huyên thất thểu đi xa dần tầm mắt của Huỳnh và Trần, vừa thì thầm khấn nguyện, trong khi đôi mắt nàng đẫm đầy lệ:

– Xin Trời thương anh con, xin Trời rủ lòng thương xót tất cả chúng con.

Huyên không nhớ mình đã đi qua bao nhiêu chiếc cầu nhỏ bắt từ xóm này qua xóm khác. Đang lầm lủi bước đi Huyên nghe tiếng người gọi tên nàng. Nàng ngẩng lên thấy Phan, một người bạn học cùng trường ở Hương Khê ngày nàng còn học ở Liên khu Tư.

Phan đứng trong sân một ngôi nhà nhỏ, chàng mặc quân phục, nét mặt đẹp đẽ cương nghị, đôi mắt trong sáng tươi cười nhìn Huyên. Huyên dừng lại, cảm thấy lòng êm ả dịu dàng, mọi lo âu đau đớn trong lòng hầu như tan biến khi nhìn thấy người bạn của một thời đi học, một thời mà những giấc mơ tròn đầy thắm thiết.

– Anh đóng ở đây à? Huyên hỏi.

– Vâng, đơn vị tôi về đóng ở đây vài tháng nay. Huyên vào chơi đã.

Huyên tạt vào, buổi chiều đi qua ngoài kia, trong khi câu chuyện hàn huyên không dứt giữa hai người bạn học. Hình ảnh mái trường xưa đầy rêu phong, những cây cau trong sân trường, những ngọn đồi đầy hoa sim tím phía sau đồng cỏ may sau lưng trường học. Hai người nhắc đến hai cây bàng liền cành nhau trên con đường dốc trước cửa trường đổ xuống thôn Gia Ninh, nơi họ ở trọ học. Ở đó, khi mùa trăng đến, ánh trăng loáng bạc trên những tàng lá to xòe rộng như những chiếc dù, che chở ngôi làng chìm ngủ trong bóng đêm yên tĩnh tràn đầy ơn phước, những cây cam, cây bưởi, mùi hoa thoáng động trong đêm.

Và giòng sông Ngàn Sâu chảy ngang qua thôn Gia Ninh, băng qua Chu Lễ xuôi về Châu Phong, Đức Thọ, thuận giòng trẩy đến Nam Đàn, Đô Lương, những bờ đê những nương dâu, câu hò tiếng hát đêm trăng lướt qua cánh rừng hoa trảo trắng muốt liêu trai. Biết bao địa danh thân thiết, biết bao khuôn mặt thầy học, bạn bè thân thuộc, luyến lưu, Phan và Huyên cùng lần lượt nhắc nhở, cùng chung một niềm hoài tưởng.

Huyên từ giã Phan ra về khi nắng xế nghiêng trải dài một làn gợn sóng lăn tăn trên sông xanh biếc ngoài kia.

Phan hỏi xin Huyên chiếc quai nón của nàng làm bằng một dải len màu hồng tết bím. Chàng nói để chàng thắt một cái nơ trên quyển vở của chàng và tết một sợi dây trên chiếc huy chương chiến sĩ của chàng. Huyên cười hồn nhiên, nàng tháo quai len màu hồng đưa cho Phan. Khi ra ngoài đường ngang qua một bụi chuối, Huyên dừng lại, nàng tước một sợi dây chuối đã gần khô, màu nâu xốp, cột vào chiếc nón bài thơ của nàng.

Huyên trở về làng, trên thuyền đi qua sông, nàng thấy mình đang đi ngược giòng thời gian. Cuối sông những lá hoa xưa đang phất phới vẫy gọi nàng từ một miền thiên đường bát ngát, ở đó có trường xưa, có thầy và bạn, có giòng sông, có những tàng cây to loáng ướt sương trăng, có một mùa hoa trảo trắng ngời, có những đồi sim ảo mộng.

Từ cõi miền đó, chiều nay khuôn mặt Phan tươi cười rạng rỡ đã đưa Huyên trở lại quê hương của tuổi thơ, giây phút thần tiên ngắn ngủi lãng quên đi thực tại đau buồn.