Chương XXVII
Trong góc quán, Trần ngồi thẳng, yên lặng, mắt đỏ ngầu, điếu thuốc trên tay cháy gần chạm ngón trỏ, chàng vẫn không động đậy. Cốc cà phê còn lại một chút đen sánh dưới đáy, nguội lạnh, hờ hững như quang cảnh đêm tàn trong quán nhỏ.
Ngọn đèn dầu khô cạn, một chút lửa yếu ớt đậu lại trên cái tim đèn gầy guộc, lu mờ như chỉ chực bùng lên rồi tắt ngấm. Chiếc bàn đặt giữa quán, ngọn đèn được khêu sáng suốt đêm, ở đó có hai người cán bộ bày ra một cỗ cờ tướng, họ đánh với nhau suốt đêm trong yên lặng, thỉnh thoảng họ xuýt xoa tấm tắc khen nhau một nước cờ hay. Tiếng những quân cờ lách cách rời rạc trong đêm khuya. Sau mỗi ván cờ, những con cờ bị xáo trộn kêu rào rào, tim đèn lại được khêu lên cho thêm sáng, bình nước trà lại được nghiêng qua châm đầy hai chén nhỏ, họ vấn lại điếu thuốc, nói khẽ với nhau vài câu chuyện bâng quơ, rồi lại tiếp tục cúi xuống nghĩ ngợi trên cuộc cờ.
Chiếc bàn ở góc đối diện với bàn Trần có hai ba người gục đầu lên bàn ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng một người lại ngóc đầu dậy ngơ ngác nhìn quanh với đôi mắt lạc lõng bất thiết rồi lại gục xuống ngủ lại.
Ở góc trong cùng có một người nằm trên chiếc ghế dài bằng gỗ dương, ngủ say sưa từ hồi tối, tiếng ngáy to đều đều như kéo gỗ.
Bên ngoài trời vẫn còn tối mờ mờ, bụi tre trước quán cựa mình kêu ken két, chòm tre xào xạc, những chiếc lá thuôn dài đu đưa trong bóng đêm ẩn hiện vài ánh sao yếu ớt đã bắt đầu nhòa nhạt. Có bóng người gánh hàng kẽo kẹt đi qua chiếc cầu bắc ngang qua lạch nước chảy qua trước quán phía bên kia đường. Không khí bên ngoài lùa vào quán qua chiếc cửa sổ ngay sau lưng Trần có chấn song bằng những mắt tre, nồng mùi từ con lạch trộn lẫn mùi sương đêm đầm đầm hơi giá lạnh.
Ngôi quán nằm ở chặng chót từ chiến khu đổ về mở ra nhưng lộ trình xuôi về những làng mạc đồng bằng hay những vùng phụ cận thành phố Huế. Thường thường những người cán bộ kháng chiến từ chiến khu về đến đây là trời đã tối, họ ngủ vạ vịt qua đêm trong quán để chờ sáng lại tiếp tục rẽ đi những nẻo đường khác nhau.
Vợ chồng người chủ quán đã dậy sau một hồi chợp mắt, có tiếng động sau bếp, từ tấm phên đan bằng những thanh nứa thưa thớt, chiếu hắt ra những tia sáng của bếp lửa hồng vừa nhóm. Mùi khói của loại cây chàm trổi nhóm bếp tỏa ra khắp quán một mùi thơm nồng hắc.
Tiết trời cuối hạ mang hương vị nồng nàn của cơn gió nam lùa tới từ những vườn cây trái chín đầy mật ngọt giao thoa với hơi thu e ấp tản mạn trong không gian khiến con người cảm thấy bứt rứt như thể có những nỗi u hoài đang bị lãng quên mà có cố gắng mấy cũng không thể nào nhớ ra được.
Tựa hồ trên những cánh đồng vàng óng chưa từng có dấu vết của súc vật hay của loài người đã lướt qua, tựa hồ tiếng côn trùng rì rào trong đêm dài mùa hạ chưa từng gặm nhấm tâm tư của lữ khách trong cơn chợt tỉnh chợt mê của đêm trường quán nhỏ.
Trần vẫn ngồi thẳng tắp trong chiếc bàn góc quán như thế không biết bao nhiêu lâu, điếu thuốc trên tay chàng rơi tàn lả tả xuống tập giấy trước mặt. Chàng đăm đăm nhìn ngọn đèn dầu sắp lụn với đôi mắt nhìn mà không trông thấy gì cả, những đường gân máu đỏ ngầu kéo chằng chịt trong đôi mắt chàng chiếu ngời lên một gợn sóng ẩn ức lung linh. Mãi cho đến khi đầu lửa đỏ của điếu thuốc cháy xuống nung bỏng da, Trần mới khẽ động ngón tay, di chuyển đầu lửa nhích ra một chút, chàng cúi xuống nhìn điếu thuốc trên tay mình một cách chăm chú, in thể đó là một vật lạ lùng lần đầu chàng mới trông thấy, khuôn mặt chàng chợt trở nên trầm lắng xa vời, chàng đưa điếu thuốc chỉ còn một mẩu ngắn lên môi, rít một hơi dài. Đốm lửa sáng ngời loe ra từ môi chàng theo bàn tay búng luôn xuống nền đất, chàng di một bàn chân lên điếu thuốc rồi để yên đó không buồn kéo chân về chỗ cũ. Chàng ngước lên buồn bã nhìn tập giấy với những hàng chi chít nhảy múa trước mặt chàng, chàng nghiêng đầu thổi những mẩu tàn thuốc rơi vương vãi trên mặt giấy. Chàng nhìn những hàng chữ của chàng trên đó, “Bản án,” danh từ ấy vang lên trong tiềm thức của chàng suốt đêm khi chàng nhìn tập giấy mang những lời lẽ thỉnh cầu xin rút lui ra khỏi Đảng của chàng. “Ra khỏi Đảng,” mấy chữ ấy làm tim chàng nhói buốt. “Bản án,” hai tiếng ấy lại nổi lên trong trí chàng, dữ dằn, hung bạo, như chiếc vồ đập mạnh vào đầu chàng. Quả vậy, với tập giấy gần sáu trang, chàng trình bày với Đảng tình tự đất nước của chàng với tình yêu con người khốn khổ trên quê hương xứ sở này, một tình tự đơn sơ thuần khiết khác biệt với chủ trương đường lối sắt máu của Đảng. Với ý thức đó chàng cho rằng sự có mặt của chàng trong hàng ngũ của Đảng không còn đem lại lợi ích gì cho Đảng nữa, những mâu thuẫn nội tâm sẽ giết dần mòn tình yêu của chàng đối với Đảng, do đó chàng nêu lên ý muốn cuối cùng của chàng xin Đảng chấp nhận cho chàng ra khỏi Đảng. Như vậy chàng vừa ký xong bản án tự lưu đày, hay tự xử thì cũng vậy.
Từ ngày dấn thân vào cuộc sống phong trần gian khổ này, Đảng trong tâm tư chàng như suối hiền, như bóng mát, đã biết bao lần chàng lặn ngụp trong ảo tưởng chói lòa đó mà khắc phục được bao cơn hiểm nghèo, qua khỏi những lúc chồn chân mỏi gối. Giờ đây, ánh hào quang lộng lẫy trong tâm hồn chàng đã vụt tắt, trung thực với chính mình và thương tiếc chút dư vang của tình yêu lý tưởng thần thánh đã đi qua, chàng không muốn bày trò dối trá. Lưu lại Đảng với một tấm lòng không còn như xưa nữa, với trái tim không còn đập những tiết điệu ấm áp mê say nữa, đó mới chính là điều ghê tởm. Nhưng cũng như khi hết yêu một người tình lòng không còn đam mê tha thiết nữa, nhưng sự dứt bỏ tránh sao cho khỏi đau đớn rã rời.
Cũng lạ lùng làm sao, bên sự nhói buốt đến tê dại cả toàn thân, tâm linh chàng bỗng nhiên nhẹ hẫng như vừa được giải thoát ra khỏi một sự băng hoại triền miên từ bao nhiêu năm tháng. Trong trạng thái trống rỗng đó, chàng nhận thức một cách rõ ràng rằng từ nay chàng chỉ có một mình, không còn đồng chí, không còn bạn bè, không còn một ngọn lửa nào có thể thắp sáng lại được nữa.
Huỳnh đã bị bắt, người bạn duy nhất vừa là cứu cánh của chàng trong những thao thức của nội tâm bị dằn vặt, là nguồn cội sức mạnh tinh thần bền bỉ chịu đựng của chàng, giờ đây không còn bên cạnh chàng nữa.
Huỳnh bị bắt sau khi đệ trình bản điều trần về chính sách cải cách ruộng đất lên cơ quan hữu quyền xin chuyển về cấp lãnh đạo trung ương. Khi nghe tin Huỳnh bị bắt, Trần lập tức tìm đến những đồng chí chỉ huy cao cấp có thẩm quyền để phản đối việc bắt giữ Huỳnh và xin trả lại tự do cho Huỳnh. Đề nghị của chàng bị từ chối, chàng được giải đáp cách dung dị rằng với bản điều trần đó, Huỳnh đã công khai chống lại đường lối của Đảng, thêm vào đó những bài thơ của Huỳnh đã gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ bộ đội kháng chiến rất nhiều, rằng những hành động đó được xem như phản động, được tạo nên bởi một nguyên động lực nào đó người ta đang còn tìm hiểu. Có thể là do kẻ thù thúc đẩy, cũng có thể là do tinh thần hèn nhát khiếp nhược của đương sự, và để biết rõ căn do, người ta đã giao Huỳnh cho cơ quan chuyên môn để điều tra cho được rõ ràng.
Về thái độ phản đối và phẫn nộ của Trần, những đồng chí cao cấp khuyến cáo chàng không nên đặt tình cảm riêng tư lên trên đại cuộc và chính nghĩa.
Tiếp đó Đảng đề ra một cuộc học tập tại cơ quan Huỳnh để giải thích về việc tại sao bắt giữ và loại trừ Huỳnh ra khỏi hàng ngũ bộ đội kháng chiến. Trong những buổi học tập đó, những người có thiện cảm và hiểu biết Huỳnh đều im lìm thất sắc, không hề dám lên tiếng. Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, không ai nói với ai, đều có cảm giác sợ hãi rùng rợn vô cùng. Từ đây họ đã hiểu rõ thêm con đường họ đang đi sẽ mở ra cho họ những ngõ ngách ranh giới nào. Trong nỗi hoang mang cùng cực đó, họ xòe rộng bàn tay, cúi tìm trên đó chút số phận của mình.
Dù là một đảng viên được ưu đãi, Trần cũng không thoát ra ngoài tâm trạng đó. Chàng không xin gặp Huỳnh vì chàng thừa biết sẽ bị từ chối. Chàng đau xót nhớ lại gần đây sức khỏe của Huỳnh càng ngày càng sa sút, bệnh tim làm cho tính tình anh càng thêm gắt gỏng, thêm vào đó những nỗi ưu tư phiền muộn khiến anh càng ngày càng thêm xơ xác. Vốn đã xuề xoà không hề chú ý đến phục sức bề ngoài, gần đây Huỳnh lại càng tệ hơn nữa, anh chẳng hề tắm rửa, thậm chí có những ngày anh không thiết rửa mặt đánh răng, râu tóc phủ kín cả mặt mày, áo quần đầy cáu ghét dơ bẩn. Trần cằn nhằn thì Huỳnh nói:
– Mày tính sống giữa thời buổi này, ở sạch làm gì cho uổng, phải ở bẩn mới hòa mình được với thứ người ngợm xung quanh chứ.
Trần đã đau khổ nên chàng hiểu và thương bạn vô cùng.
Trời trắng dần, ánh sáng nhợt nhạt len lách vào cửa sổ làm sáng dần từng góc tối, từng xó xỉnh nghèo nàn trơ trụi của cái quán. Thốt nhiên Trần nhớ lại hình ảnh một buổi sáng trên chuyến đò ngang qua bến Phu Văn Lâu. Hôm ấy chàng đến bến đò trễ hơn thường lệ. Vào tiết lập xuân, mặt trời chưa ló dạng, ngày bắt đầu với một ánh sáng buồn bã, người con gái chàng yêu đã ngồi đó, trên mạn thuyền nàng nhìn chàng bằng một thoáng nhìn mừng đón thầm lặng rồi e thẹn cúi xuống quay sang chỗ khác, chiếc nón bài thơ và mái tóc rũ xuống che khuất một bên mặt. Chừng đó đủ cho lòng Trần rộn ràng ngây ngất. Chàng bước lên đò,
chiếc đò khẽ tròng trành, khi cúi xuống tìm chỗ ngồi, chàng nhìn thấy một con cá giếc thật to, có lẽ người lái đò mua lại của người đơm cá đâu đó ven sông. Con cá bị một sợi dây lạt xỏ qua mang cột vào một cái cọc bằng gỗ bên dưới đáy thuyền, cả mình con cá mẩy mập với những miếng vẩy trắng ngời được thả ngập xuống vũng nước đọng giữa lòng thuyền. Cái miệng nó há căng tròn trịa vì sợi dây cứng xâu qua mang, nó cố gắng ngáp ngáp, thỉnh thoảng lại quẫy mình một cái. Khi đã ngồi xuống mạn thuyền gần như đối diện với người thiếu nữ, Trần vẫn cúi nhìn con cá đang chao qua chao lại trong vũng nước theo đà tròng trành của chiếc đò với những cái ngáp khó khăn tội nghiệp. Vô tình tia nhìn của chàng di chuyển sang một bên, bắt gặp đôi bàn chân của người thiếu nữ đặt trên sàn thuyền lát gỗ cạnh đấy, đôi bàn chân như hai búp hồng xinh đẹp với hai gót mịn đỏ như thoa son vận trong đôi guốc mộc lên nước bóng như hai phiến ngà. Vẻ đẹp bất ngờ khám phá làm tim Trần đột nhiên thắt lại, không hiểu vì đâu chàng chợt thấy ngậm ngùi. Trần ngạc nhiên không hiểu có sự liên hệ nào giữa hình ảnh con cá đang ngáp hấp hối kia trong những miếng vẩy sáng ngời như nạm bạc và đôi bàn chân xinh đẹp của người yêu làm cho nỗi xúc động của chàng mang một sắc thái bùi ngùi xa xót đến như vậy.
Giờ đây chàng nhớ lại rõ ràng như đang sống trong cảnh mộng xưa, cảm giác ngậm ngùi vẫn còn nguyên vẹn. Cái gì đã khiến cho chàng trong giây phút bải hoải trầm trọng giữa hủy diệt và tái sinh, lại nhớ đến con cá lập lờ nằm ngang ngáp những cái ngáp đáng thương hấp hối dưới lòng thuyền và đôi bàn chân hồng mịn của người con gái chàng yêu đang dẫm những bước lên ngôi thần nữ trong lòng chàng?
Có một con ve không biết ở đâu đến đậu trên mắt tre trên song cửa sổ, mình mẩy xù xì, hai con mắt tròn xanh như hai viên ngọc bích, đôi cánh trong suốt dài thượt khẽ rung động kêu rọt rẹt. Trần quay lại nhìn, chàng chiếu đôi mắt mệt nhọc vì mất ngủ nhìn con ve một cách khó khăn. Con ve có một vẻ quen thuộc như nó đến đây từ mùa hạ nào rực rỡ vàng tươi của những năm mà tình đời hãy còn nguyên vẹn. Những buổi trưa hè trong vườn cây xanh mát ran ran tiếng ve kêu bên giòng sông hiền hòa lấp lánh của khung trời Vĩ Dạ. Sao con ve lại rời bỏ khu vườn mùa hạ đó để đến đây làm chi kìa? Như để trả lời câu hỏi đang trì chậm lướt qua trong trí óc mụ mẫm nặng nề của chàng, con ve lại khẽ rung động đôi cánh kêu rọt rẹt rồi thình lình nó vụt bay ra ngoài trời khuất dạng. Trần gật gù ra dáng tán thành, “Ừ, phải đó, với đôi cánh mỏng trong suốt như thế kia, có khó gì việc bay trở về tìm lại khu vườn mùa hạ cũ, ở đó ve có thể thoát xác để trở lại hình thái của buổi ban sơ tao ngộ với cuộc đời, và ở đó, ve có thể mơ dài qua hết kiếp phù sinh. Chỉ có ta đành ngồi lại nhìn tất cả đi qua, không phương níu giữ, chỉ có ta không có đôi cánh mỏng huyền diệu trong suốt có thể trông xuyên qua cả cõi trời, chỉ có ta lủi thủi độc hành tới một mùa đông trắng xóa. Con đường ta đi cực kỳ vắng vẻ, nhưng không sao, hành trang ta mang theo trong trái tim dày dạn đau thương này là chút lửa chắt chiu gìn giữ từ mùa hạ cũ. Với chút lửa đó ta hồn nhiên đặt lên canh bài định mệnh, ở đó những quân bài là những thân phận bọt bèo rẻ rúng trên xứ sở lầm than yêu dấu này. Ôi, sao ta nhìn thấy những khuôn mặt của người Việt Nam sao mà khắc khoải đau buồn, những khuôn mặt thảy thảy mang hình tượng mẹ ta, bạn ta, người yêu ta, vợ ta, con ta chưa ra đời và cả chính ta đây nữa; sao những khuôn mặt đều dúm dó biến dạng đến như thế kia nhỉ? Ôi, ta đã làm gì, các đồng chí của ta đã làm gì, Đảng của ta đã làm gì trên nước non này, những ngày đã qua, những ngày sắp tới?”