← Quay lại trang sách

Chương XLI

Bà Tư và hai bé Hiền Hòa đã về Huế, Trần vui mừng thấy mọi việc đều trôi chảy như chàng mong muốn, Quý mang tin về cho chàng biết, người đưa đường đã trở về cho biết mẹ Trần đã bằng lòng nhận nuôi hai đứa bé và lưu bà Tư ở lại với bà.

Trước khi rời căn nhà của Hiếu để đi về đồng bằng, Trần dặn dò Quý:

– Thỉnh thoảng em tạt qua đây một tí nhé, anh về thăm mộ chị rồi anh trở lại đây làm rẫy sống qua ngày.

Quý buồn rầu lo ngại:

– Anh cẩn thận nhé, mộ chị ở gần đồn Tây, nguy hiểm lắm, em lo quá anh ạ.

Trần lắc đầu:

– Không sao đâu em, em quên rằng vùng đó anh em mình từng qua lại hằng ngày hồi chiến dịch năm ngoái à. Anh thuộc từng đường đi nước bước, em lo nỗi gì. Thôi anh đi nhé, em ở lại đó, anh sẽ về.

Quý ủ rũ nhìn Trần đi xa dần, tâm hồn non nớt của nó vẫn không thể hiểu tại sao nó vẫn yêu mến Trần tha thiết, mặc cho những giờ học tập, nó được cán bộ dạy dỗ cho biết rằng Trần là một tên phản động, một kẻ thù nguy hiểm cho nhân dân, một kẻ phá hoại cách mạng, nó vẫn cảm thấy một tình cảm chan hòa tươi mát tâm hồn bé dại của nó mỗi khi nó được ở bên cạnh Trần. Không một ai, từ ngày nó thơ ngây đi vào kháng chiến đã cho nó thực sự niềm thương yêu và tin cậy đến thế.

Chiều ba mươi Tết.

Trần đi ngược chiều gió lạnh căm căm dưới bóng tre trên con đường làng Thế Thượng để lên làng trên thăm một người bạn tên Đỉnh từ Việt Bắc mới vào thì gặp Huyên đang đi với một người bạn gái tên Loan, Trần cũng có quen biết cô ta trước đây. Huyên mừng rỡ rối rít khi gặp Trần:

– Trời ơi, anh Trần đây mà, anh được về rồi đấy à, anh về bao giờ thế?

Trần cảm thấy niềm vui bất chợt dâng lên như đón bắt cả một khung trời thoáng gió khi nhìn đôi mắt mở rộng mênh mông, cuốn hút của Huyên. Vẫn mái tóc dài, chiếc áo màu nâu, dáng gầy cao vượt hẳn Loan có tầm vóc bé nhỏ đi bên cạnh. Đột nhiên, chàng thấy mình rơi về một thế giới khác hẳn hiện tại, bao đau thương như chưa vướng bận đến chàng, chàng nhìn thấy trong đôi mắt trong sáng tuyệt vời của Huyên, in hình giòng sông Hương trải dài vô tận, chàng nhìn thấy bến đò Thừa Phủ thấp thoáng những bóng người phủ lên mình từng giọt nắng mai, chàng nhìn thấy tòa thành cổ, đền đài lăng miếu rêu phong trong mù sương bên cạnh giòng sông vàng óng, trên hết những cái đó, nổi bật lên giữa giòng sông, giữa bến đò mai, trùm lấp cả tòa thành cổ, là bóng người yêu xưa tóc dài áo trắng thầm lặng xa vời trên chuyến đò ngang. Niềm yêu của chàng suốt buổi thanh xuân, người yêu chưa một lần biết tên, chưa một lời thăm hỏi, như biểu tượng của cõi nguồn giải thoát thần tiên. Trần như một đãng tử đi hoang một đời, tình cờ gót phiêu bồng đưa chàng ngang qua khung trời cũ, bắt gặp cái hoang sơ trên dấu chân xưa chưa rỗ gót phong trần.

Tiếng nói của Huyên trong trẻo vang lên như thoát bay qua một chiều gió lộng:

– Bây giờ anh đi đâu đây, cho chúng em đi theo với.

Trần đáp những câu hỏi dồn dập của Huyên với một nỗi hân hoan thư thái:

– Anh ra khỏi nhà giam từ tuần trước, anh về đây tối hôm qua. Bây giờ anh đi lên làng trên thăm một người bạn, anh định qua cái tối ba mươi Tết này với Đỉnh, bạn anh và vị hôn thê của anh ấy cũng vừa ở Huế về thăm Đỉnh.

Loan tiếp lời Trần:

– Vâng, em có nghe nói về anh chị ấy, chị Hương là vị hôn thê của anh Đỉnh từ mười năm nay, vừa làm lễ hứa hôn thì anh ấy đi hoạt động chống Pháp từ thời kỳ bí mật. Chị ấy vẫn chờ đợi từ mười năm cho đến bây giờ. Anh ấy vừa từ Việt Bắc vào nhắn tin cho chị ấy về thăm đấy.

Huyên ngẩn người, thích thú:

– Tuyệt thật, chuyện đẹp hơn thơ đấy nhỉ.

Trần đột nhiên nhăn mặt:

– Em nói đúng, thơ văn thì ra cái quái gì, chả sánh được gì trong đời này cả.

Huyên cười trong vắt, hồn nhiên:

– Vâng, bằng chứng là nó làm cho các anh đi tù rồi đấy thôi, phải không anh? Nhưng anh đã về, đó là chuyện đáng nói.

Trần nhận xét:

– Hai cô đi đâu mà chiều ba mươi Tết còn lang thang như thế này?

Khuôn mặt rạng rỡ của Huyên xịu xuống, nàng phân trần:

– Anh nghĩ xem, chiều ba mươi Tết ở nhà trọ thấy mọi người trong gia đình sửa soạn Tết, em buồn và nhớ nhà quá nên đi lang thang ra ngoài, tình cờ gặp Loan cũng tâm trạng như em vậy, hai đứa họp nhau thành một cặp lang thang, bây giờ lại gặp anh, vị chi là ba kẻ lang thang.

Trần đề nghị:

– Hay lắm, vậy thì ba anh em mình cùng kéo nhau đến thăm vợ chồng Đỉnh một thể, để nhìn cuộc tái ngộ của họ mà mình vui lây một chút hạnh phúc của kẻ khác vậy.

Huyên chợt nhớ ra, nàng nhìn Trần e ngại, tự nãy giờ mãi mừng Trần được phóng thích Huyên quên nghĩ đến cái chết của Hiếu và Huỳnh. Nàng cảm thấy một nỗi xót xa đau đớn trong câu nói làm ra vẻ thản nhiên của Trần, đằng sau khuôn mặt thoáng một niềm vui xanh xao khắc khoải ấy.

Huyên và Loan cùng gật đầu đồng ý:

– Vâng, chúng em sẽ đi với anh đến đó cho biết mặt anh chị ấy cho vui.

Ba người rẽ qua một đường ruộng đi ra con đường cái quan chạy thẳng tắp giữa cánh đồng mùa đông có chút nắng chiều vàng vọt hắt xuống hai bên bờ cỏ một màu vàng héo úa. Cánh đồng chạy dài ra tận bờ sông, gió từ đó heo hút thổi vào làm mặt ba người tái đi vì lạnh. Bên kia sông là cánh đồng làng Nguyệt. Trần trỏ tay về phía đó:

– Tối nay anh sẽ bơi qua đó thăm mộ chị và con anh.

Huyên và Loan nhìn nhau, cả hai đều thấy mình quá nhỏ bé trước một nỗi đau thương mà họ đều biết rằng quá to lớn đến nỗi họ không biết nói sao cho phải trong khi đó. Huyên nhìn theo hướng Trần trỏ, nàng chỉ thấy cánh đồng tháng chạp mênh mông ngập nước, xa hơn nữa là làng mạc sẫm màu trong bóng chiều loang lổ những bóng mây xấu xí dị hình. Trong một lùm cây nhô ra giữa cánh đồng, Huyên nhìn thấy ngọn cờ tam tài của đồn Tây làng Nguyệt bay phất phới trên đỉnh cột cờ và tháp canh đen ngòm bên dưới. Cảnh tượng đó vẫn thường cho Huyên một cảm giác lạ lùng khó hiểu mỗi khi Huyên đi bên con đường làng Thế Thượng nhìn sang, nó gợi cho nàng một sự phi lý nổi lên giữa mây gió vô tư ngàn năm dàn trải. Luôn luôn mỗi khi đứng bên này hữu ngạn nhìn sang ngọn cờ địch mang dấu hiệu của một giống người phương Tây bay trên thôn xóm Việt Nam, Huyên không khỏi so sánh sự nghịch lý giữa những bước chân của loài người đi tìm hạnh phúc với ngọn cờ ba màu bay phơ phất một cách cô đơn lạc lõng kia. Ngọn cờ nào cũng tự biết mình là linh hồn, là biểu tượng cho một xứ sở đất đai nào đó, nhưng ở đây, giữa không gian này, nó không là gì cả, giữa những lũy tre xanh lam này, giữa cánh đồng làng ngập nước nghi ngút khói sương này, nó trỗi lên như một phím đàn lạc điệu, cung bậc dở dang.

Nhìn ngọn cờ, nghe Trần nói, chợt Huyên cảm thấy một nỗi lo sợ không thành hình dạng nào cả, nàng nói, thấy khó chịu vì sự vắn tắt của câu nói:

– Bên ấy là đồn Tây làng Nguyệt.

Trần cười:

– Anh biết, nhưng khuya anh mới bơi qua sông kia mà, huống chi anh rất thuộc lòng đường sá ở vùng này. Dù sao, đêm nay anh cũng phải đến với chị, anh không thể để chị một mình lạnh lẽo trong đêm giao thừa được. Chị đã khổ sở suốt đời rồi, từ ngày yêu anh lại càng khổ sở gấp trăm lần.

Huyên và Loan lại nhìn nhau, cả hai đều lo sợ, nhưng không ai có thể nói được gì. Trần bước đều trên đường, tầm mắt của chàng như bị thu hút về phía cánh đồng bên kia sông, chàng cười khẩy chua xót:

– Khi người ta sống người ta may áo cho mình, bây giờ người ta chết mình không thắp được cho người ta một nén hương.

Huyên rụt rè hỏi, mong kéo Trần ra khỏi cơn sầu khổ:

– Anh Huỳnh mất cách đây bao lâu hở anh?

Hỏi xong Huyên mới kịp nhận ra mình lỡ lời, Loan cũng nhận thấy thế nên nàng khẽ huých tay Huyên một cái.

Trần quay lại vừa kịp nhận thấy sự bối rối thảm thương trên gương mặt hai thiếu nữ, chàng hiểu và cảm động, bật cười:

– À, Huỳnh hả, để anh kể chuyện Huỳnh cho mà nghe, nó chết vì bệnh đau tim của nó. Ở trại giam thỉnh thoảng nửa đêm người ta cho gọi nó dậy mang lên văn phòng bắt nó ngồi một mình với ngọn đèn dầu để tự kiểm thảo tư tưởng đến gần sáng mới cho trở về lều giam. Huyên còn lạ gì trí tưởng tượng của nó, mỗi lần bị gọi đi giữa đêm khuya là người nó xám xanh, run lên bần bật, lần nào nó cũng nghĩ rằng đó là lần quyết định, người ta sắp mang nó đi giết. Cho đến một đêm khi người ta vừa đập cửa gọi nó đi thì tim nó từ chối không thèm đập nữa. Trái tim của nó không chịu theo kịp sức tưởng tượng của nó, trái tim nó muốn nghỉ ngơi cho nhàn nhã một chút, biết làm sao được.

Trần lại cười:

– Trái tim nó cũng lười biếng y hệt như nó vậy.

Huyên buồn rầu nhắc lại:

– Vâng, anh Huỳnh lười có tiếng đấy anh nhỉ.

Trần cười to:

– Còn phải nói, để anh kể chuyện này cho nghe, có một đêm, nó gọi anh dậy, nó bảo nó muốn đi tiểu, anh gắt bảo nó đi đến chỗ tiểu ra ngoài mà đi đi, xong anh ngủ lại, đang lơ mơ thì nghe tiếng gì rơi đánh bịch một cái, kế đó là Huỳnh nó kéo chăn anh vừa xuýt xoa “lạnh quá, cho tao đắp chung chăn với mày,” anh bực mình gắt hỏi “thế chăn của mày đâu,” thì nó bảo lạnh quá nó không thể bước ra khỏi giường được nên nó đi tiểu trong chăn nó luôn, nó bảo để mai nó giặt, em có biết ngày mai nó giặt cái chăn bằng cách nào không?

Huyên và Loan không ai nhịn được cười, tiếng cười của họ làm ấm lại không khí lạnh ngắt của buổi chiều đông.

– Nó mang chăn ra phơi trên một cái sào, nó lấy cái cây đập đập mấy cái lên cái chăn, thế là xong. Báo hại anh phải đích thân mang ra suối giặt cho nó. Thôi, bây giờ nó đã hết hệ lụy vì những cái lặt vặt ấy nữa rồi.

Trần quay lại Huyên và Loan:

– Nãy giờ anh kể chuyện nhiều rồi, chuyện anh buồn lắm, bây giờ hãy nói chuyện về Huyên và Loan đi. Em sắp đi đâu phải không Huyên?

– Vâng, em sắp vào Khu Năm để theo học một nghề chuyên môn, như nghề thuốc chẳng hạn.

– Đó là một điều hay, nhưng em có thấy đường đi nguy hiểm và xa quá không?

– Ở lại cũng không hơn gì anh ạ. Anh biết rồi đấy, loại con gái nhà khá giả như em ở lại quê mình không có chỗ dung thân, bị ghép vào thành phần cả mà anh. Loan cũng vậy, tuy hoàn cảnh có khác hơn em. Loan vừa bị biên chế ra khỏi cơ quan của Loan đang làm việc, bây giờ chưa biết về đâu, gia đình thì ở vùng địch, không muốn và cũng không dám về.

Trần thấy mình lại chạm phải một nỗi bất lực lớn lao, nó làm cho tim óc chàng nhức nhối, chàng cố gắng khỏa lấp, quay lại Huyên, vẻ điềm đạm:

– Sao em không nghĩ đến chuyện trở về với gia đình em ở trong thành phố? Em là con gái, về với gia đình là phải.

Huyên buồn rầu:

– Vâng, thì các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã về hết rồi đấy. Nhưng em chắc họ đang khổ tâm lắm.

Trần ngẫm nghĩ câu Huyên nói, Huyên có lý, làm sao mà vui cho được. Những người ra đi đã trở về với gia đình, với cánh én bị bão đánh rơi xuống đất không còn mong bay cao trên nền trời xanh quê hương nữa, với tâm hồn bị thương, với thân tàn ma dại, tuổi trẻ của họ vẫn còn, nhưng tình đời đã khép kín. Thân thể hao mòn kia còn có ngày bình phục, nhưng trái tim thanh xuân không bao giờ còn đập lại nhịp điệu hoang dã trong sáng của những tháng năm kiêu hùng nguyên vẹn xa xưa.

Thảng hoặc gặp lại nhau, họ nhìn nhau cười lặng lẽ, thời gian có lẽ còn quá mới mẻ chưa đủ cho họ nhắc nhớ với nhau những kỷ niệm. Mặc cảm của sự bỏ cuộc khiến cho họ ngượng ngập khi nhìn lại mặt nhau, bởi vì người nọ như một tấm gương trung thực phản chiếu khuôn mặt định mệnh khốn đốn của người kia; họ hờ hững nhìn nhau, rồi quay đi như người xa lạ. Như chưa bao giờ họ đã từng chia nhau từng miếng ăn kham khổ, như chưa bao giờ họ từng nằm sát bên nhau tìm hơi ấm trong những đêm dài mùa đông rét buốt. Họ đã quá mệt mỏi, họ muốn quên đi có lần họ đã cùng chung hoài bão, đã cùng hát chung một bản đồng ca. Giữa họ từ nay, đường ai nấy đi, nhà ai nấy ở, cuộc sống hạn hẹp thu gọn trong những chu kỳ buồn nản cố định, thích nghi với xã hội họ đang sống. Nhưng Trần tin rằng, cũng như chàng bây giờ, từ cõi sâu thẳm của tâm hồn, những gợn sóng ưu tư sẽ mãi mãi nhắc nhở họ niềm tiếc thương một mùa lý tưởng đã đi qua, chỉ còn lại những cơn ác mộng triền miên trong những đêm dài vô cùng vô tận.

Thôi thế cũng xong, Trần thở phào, cố ngăn giữ cho niềm vui mong manh vừa nhóm khỏi chóng tàn lụi trong tâm hồn. Chàng lại cười lớn:

– Thôi hay là anh đề nghị như thế này, anh em mình chung nhau mở một cái quán, chia ra làm hai gian, một bên hai cô bán bún bò Huế, còn một bên kia thì anh hớt tóc. Anh nghĩ đó là cách tốt nhất cho những người đi kháng chiến bị bỏ rơi như chúng mình. Hai cô nghĩ sao?

Loan cười buồn trong khi Huyên vui vẻ tán đồng:

– Chuyện có vẻ thú vị đấy anh ạ. Anh mà hớt tóc thì tuyệt quá còn gì, em nghe đâu Phạm Duy ở ngoài Liên khu Tư cũng bán phở đấy anh ạ.

Trần nhìn vẻ thích thú rạng ngời trong đôi mắt đẹp lạ lùng của Huyên, chàng cảm thấy lòng thanh thản lâng lâng một cách không ngờ, chàng chỉ tay về xóm nhà trước mặt:

– Đấy, nhà anh Đỉnh, bạn anh ở đấy.

Tuy là bạn Trần nhưng Đỉnh đã lớn tuổi, anh ta trạc ngoài bốn mươi, người cao gầy, khuôn mặt xương xương, đôi mắt sâu, vẻ người khô khan. Hương, vị hôn thê của Đỉnh cũng ngoài ba mươi, dáng người đài các, mảnh mai, khuôn mặt nàng làm Huyên nhớ lại câu thơ của Hàn Mặc Tử:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn mấy hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”

Huyên thầm nghĩ:

– Phải có khuôn mặt chữ điền như thế kia mới yêu thương chung thủy đến như vậy được.

Huyên bật cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình trong khi quan sát vẻ dịu hiền của chị Hương. Hương mang ra đủ thứ, nào mứt, bánh, nem chả tự tay nàng làm ở Huế mang ra. Huyên và Loan mê đi trước những miếng kim quất xanh biếc, mứt cam vàng tươi, mứt me trong veo, mứt gừng trắng muốt, những chiếc bánh đẹp đẽ, những miếng chả thơm lựng. Hai cô gái còn trẻ quá, lâu rồi họ không được thấy những bánh mứt như vậy, những thứ đó đối với miền kháng chiến như những hình ảnh lộng lẫy xa xôi trong thần thoại. Được sự khuyến khích của Hương, Huyên và Loan say mê tận hưởng mùi vị của những món quà ngày Tết đó. Huyên nghe tiếng Đỉnh bùi ngùi nói với Trần:

– Tôi vào đây mới nghe tin Huỳnh mất, tôi thật buồn và tiếc vô cùng.

Trần chua chát:

– Thế anh không nghĩ sao thằng Huỳnh chết đi mà thằng Trần còn sống đó làm gì à?

Huyên quay lại, thấy Đỉnh lắc đầu bất mãn, phân trần:

– Đừng, đừng, đừng nghĩ vậy về tôi chứ.

Trần cười lớn:

– Anh đừng quýnh lên như thế, lâu lắm tôi không có dịp nói đùa, nếu tôi nghĩ vậy thì đâu có tìm anh làm gì.

Đỉnh có giọng nói mau mắn gần như nói lắp:

– Phải rồi, phải rồi, phải như vậy chứ. Tất cả ở lại đây dùng cơm với chúng tôi luôn nhé.

– Vâng, vâng, tôi đang định xin ở lại với anh chị tối nay cho đến giao thừa mới đi cơ mà.

Đỉnh trợn mắt:

– Giao thừa rồi còn đi đâu?

Trần cười lặng lẽ:

– Đi thăm một người, đúng hơn là đi chúc Tết một người thân.

Đỉnh gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết:

– Cậu cũng chịu khó với chuyện Tết nhất đấy nhỉ.

– Vâng, lẽ sống bây giờ có lẽ chỉ còn vậy.

Giọng Trần xa xôi thoảng đến tai Huyên đang chăm chú nhấm nháp một miếng mứt gừng. Huyên quay lại khi nghe tiếng Trần gọi:

– Huyên này, năm ngoái cũng chiều ba mươi Tết như thế này, anh về nhà cô anh ở thôn Nhất, tối như thế này anh ngồi nói chuyện với cô anh và hai cô cháu gái như em và Loan bây giờ vậy.

Chị Hương dịu dàng nói:

– Cách đây chừng một tháng, tôi có đến thăm bác, gặp Thương và Thể My, cả nhà đều nhắc đến anh, không ai biết anh bị giam ở ngoài này, tôi cũng thế, ra đây mới biết. Bác khóc khi nhắc đến anh. Thương năm nay lớn hẳn, hoa khôi Đồng Khánh đấy, nhưng cũng nổi tiếng là lạnh lùng khép kín, không hề để ý đến những người theo đuổi mình.

Nói đến đấy chị Hương mỉm cười ý nhị nhìn Trần:

– Chắc điều đó thì chỉ mình anh Trần hiểu là tại sao thôi.

Trần buồn rầu:

– Đó là do lỗi tại mẹ tôi gieo vào trí óc non nớt của Thương những điều như vậy. Mẹ tôi muốn tôi và Thương sẽ thành thân sau này. Nhưng chị thấy đó, lẽ nào tôi lại mang cuộc đời rách nát của tôi làm u ám tương lai của một người con gái trong trắng hồn nhiên thế kia. Một người đàn bà thuần hậu đã chết vì tôi không đủ rồi sao.

Hương toan nói nhưng Đỉnh đưa mắt nhìn khiến nàng không nói nữa, nàng cười gượng đưa tay xếp lại mấy dĩa mứt trên bàn. Trần lại hỏi:

– Con bé Thể My chắc cao lắm chị nhỉ, cao hơn Thương chứ gì?

Hương ngẩng đầu vui vẻ:

– Vâng, cô ấy cao lớn lắm và vẫn liến thoắng đùa nghịch như trẻ con, cô thấy bà ngoại khóc, cô ấy bảo bà đừng có khóc, cậu Trần không bằng lòng đâu, cậu sắp về rồi đấy, chiến thắng đến nơi rồi, Tây nó sắp rút về nước hết, mình sửa soạn treo cờ kết hoa đón cậu Trần về thì vừa đấy bà ạ.

Hương chợt im bặt vì Trần cười cay đắng, chàng đưa tay vuốt mặt vẻ mệt mỏi. Không khí yên lặng nặng nề. Hương lặng lẽ rút lui xuống dưới nhà để làm cơm.

Tối ba mươi Tết qua đi khá đầm ấm, mọi người ngồi sưởi quanh bếp lửa. Đỉnh hỏi Trần:

– Anh bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

– Ngày mai tôi đúng hai mươi lăm tuổi rồi đấy, già quá phải không anh?

Đỉnh lắc đầu lẩm bẩm:

– Hai mươi lăm, hai mươi lăm, ồ, còn trẻ quá, quá trẻ là khác.

Trần nhún vai:

– Tôi thì thấy quá già, hai mươi lăm năm, quá đủ, thật quá đủ, hai mươi lăm năm sống trên quê hương này. Anh không thấy chúng ta đang có một quê hương kỳ lạ hơn hết mọi quê hương sao? Nó có những cái tuyệt đối mà không một vùng nào trên thế giới này có được. Tôi nghĩ rằng chỉ có chúng ta làm người Việt Nam mới biết đau khổ đến tận cùng, mới hưởng hạnh phúc đến ngất ngư. Này nhé, chúng ta đang quay cuồng trong một cuộc chiến tranh lạ lùng, ở đó, đói khát, lừa lọc, tham lam, bẩn thỉu, ti tiện, căm hờn, tàn bạo, cái gì cũng đạt đến mức tinh vi cả. Do đó chỉ có chúng ta mới biết thưởng thức đến tuyệt đỉnh hạnh phúc của tình yêu, của nước mắt, của lòng hy sinh, niềm chung thủy, và cả sự đau thương. Ồ, anh thấy không? Hai mươi lăm năm với tất cả những cái đó, đâu phải dễ dúng gì.

Đỉnh cúi xuống, giọng anh trầm trầm:

– Tôi hiểu, tôi hiểu điều anh muốn nói. Có điều tôi không biết nói sao, tuổi tôi gần gấp đôi tuổi anh, tôi cũng gian nan quá nửa đời người, nhưng tôi rất buồn mà nhận thấy anh già dặn hơn tôi, khổ sở hơn tôi nhiều quá.

Trần thản nhiên:

– Có gì lạ đâu anh, trong cơn mê này của nhân loại, mà quê hương ta là thí điểm, tôi nghĩ rằng những lớp trẻ sau tôi nữa, họ sẽ còn già dặn hơn gấp mấy lần anh và tôi nữa kia, bởi vì họ còn đau khổ hơn chúng mình nhiều. Có điều họ sẽ không biết mình già dặn, sẽ không ý thức được vì sao mà họ đau khổ. Bởi vì thế hệ của chúng ta từng đã nắm trong tay thật nhiều ảo vọng, chúng ta những tưởng rằng mình đã có thật nhiều, và chúng ta để rơi vãi trên con đường chúng ta đã đi qua. Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát. Còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả để mà ảo vọng. Và họ vẫn bị mất mát như thường, có lẽ họ sẽ mất ngay chính con người của họ, đó mới chính là điều khủng khiếp.

Trần cười thê thảm:

– Cho nên đúng ra tôi phải vui mới phải, vì con tôi nó từ chối không chịu chờ góp mặt với mọi người trên xứ sở này, trên cuộc đời này. Nó từ chối cuộc đời là phải.

Tiếng gió rít qua cánh đồng lùa đến vườn cây sau nhà làm những ngọn cây quất trong không khí nghe vun vút. Trần ngưng nói, lắng nghe đêm ngoài kia mênh mông rì rào muôn ngàn âm vang bất tuyệt, đôi mắt chàng bỗng sáng lên, đầy mộng mị, đôi môi tươi đỏ của chàng chợt mấp máy, rồi ngừng lại phảng phất một nụ cười đắm đuối. Chàng đứng dậy, nhìn quanh mọi người một lượt, tay chàng đưa lên phác một cử chỉ vẫy chào:

– Thôi, tôi đi đây, xin chào tất cả mọi người. Chúc năm mới tốt đẹp.

Trước khi khuất sau cánh cửa, Trần quay lại nhìn Huyên:

– Huyên và Loan ở lại đấy, chờ anh về, anh em mình sẽ mở quán nghe. Anh sẽ về trước sáng mai.

Không ai nói một lời, tất cả như bị thôi miên bởi giọng nói huyền hoặc trầm ấm du dương của Trần, bởi một nỗi đau thương lạc loài khủng khiếp vang dậy trong tiếng gió ngoài kia.

Khi Trần đã khuất sau cánh cửa gỗ, khuôn mặt đẹp đẽ của chàng còn sáng lòa trên ngọn lửa của đêm trừ tịch.

Như sực tỉnh, Huyên hốt hoảng:

– Anh Đỉnh, xin anh gọi anh Trần lại, đừng để anh ấy đi, anh ấy định bơi qua sông thăm mộ chị Hiếu đấy.

Đỉnh tái mặt:

– Thật à, sao em không nói trước?

Đỉnh đứng dậy, chạy ra cửa, Hương, Huyên và Loan cùng chạy ra theo, ngoài sân vắng ngắt, làng xóm lặng trang. Đỉnh quay lại nói với Hương: “Anh chạy theo gọi Trần lại nhé.”

Hương gật đầu, Đỉnh vội vàng đi thẳng ra cổng.

Ba người đàn bà đứng lại trước hiên, chờ đợi, khắc khoải. Một lát sau, Đỉnh trở về một mình, anh buồn bã:

– Anh ra đến tận cánh đồng, đêm tối quá, chẳng nhìn thấy gì hết, anh gọi Trần khản cả cổ, nhưng chắc ngược gió nên Trần chẳng nghe được gì. Quái lạ, mới đó mà sao đi nhanh thế không biết. Thôi, chúng ta đành thức chờ Trần về vậy.

Hương nép vào Đỉnh, thì thào:

– Lạy Trờ,i lạy Phật xin phù hộ cho Trần.

Huyên ngước nhìn bầu trời tối đen như mực, có một vì sao lẻ loi ở cuối góc trời đang cúi xuống nhỏ một giọt sáng long lanh trên cánh đồng mịt mùng hiu quạnh. Giọt sáng tan đi nhòa nhạt vào bóng sương khuya trắng xóa mù khơi.

Mọi người trở vào nhà, không khí tẻ nhạt u buồn, bếp lửa đã gần tàn, không ai buồn nhóm lại.

Có tiếng chuông đổ hồi từ phía nhà thờ bên kia sông vọng lại, tiếng chuông ngân nga, lướt qua giòng sông khuya, lửng lơ trên cánh đồng, đậu trên từng đám cây ngọn cỏ, rồi tan loãng vào hư không.

Cùng lúc ấy, một tiếng nổ vang rền từ bên kia sông dội lại. Cả bốn người cùng giật mình, nhìn nhau, không ai dám nói ra ý nghĩ của mình, nhưng họ cũng biết là họ đang nghĩ giống nhau. Tiếp đó vài tiếng súng lẻ tẻ vu vơ về phía đồn làng Nguyệt.

Đỉnh lên tiếng giải thích, cố tránh những ý nghĩ đen tối đang vây quanh mọi người:

– A, giao thừa rồi đó, chắc tụi lính bên đồn làng Nguyệt nổ mừng năm mới đó.

Tiếng nói của anh vang lên lạc lõng, giữa tiếng chuông báo hiệu giờ trừ tịch vang vang mơ hồ trong không gian.

Trần không trở lại đêm đó.

Và những ngày sau nữa.

Chàng sẽ không bao giờ trở lại.

Ngày mồng ba Tết, Huyên bắt gặp những hàng chữ sau đây trên một tờ báo thông tin của kháng chiến tỉnh Thừa Thiên, tờ báo có những tin chiến sự trên những chiến trường toàn quốc, những tin tức thắng lợi về những đợt tố khổ của chiến dịch cải cách ruộng đất, những bài thơ ca tụng những anh hùng dân công, những anh hùng giết giặc, cả trăm thứ anh hùng được hoan hô không dứt.

Dưới những bài báo đó, trong mục linh tinh, tin về cái chết của Trần như thế này:

“Thông cáo chính thức của Tỉnh bộ Thừa Thiên

Nguyễn Trần, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân, trước đây đã có hành động phản cách mạng, phản nhân dân, vừa được chính phủ khoan hồng phóng thích ra khỏi trại Cải hối Tây Hạ sau thời gian học tập cải huấn.

Đêm giao thừa rạng ngày mồng một Tết, tên Nguyễn Trần đã bỏ mạng trên cánh đồng làng Nguyệt vì dẫm phải mìn trong khi y đang tìm đường đi đến đồn Pháp gần đó để toan đầu hàng giặc.”

Đầu óc Huyên trống rỗng, không có cảm giác vui buồn gì cả sau khi đọc bản tin kia.

Một tuần sau, Huyên lên đường về phương Nam, hành trang nàng không mang theo chi nhiều. Trên đường đi, nàng vẫn còn nghe vang vang tiếng nói của Trần trước khi đi vào cõi chết:

– Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát, còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả, và họ vẫn bị mất mát như thường…

Huyên đi về phương Nam, dọc đường nàng nghe nói ở Việt Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ đang mở màn, Tổ quốc Việt Nam sắp rẽ qua một khúc quanh lịch sử.

Và trên khúc quanh đó, những xác chết của người kháng chiến Việt Nam chồng chất trên quê hương này đang đi dần vào sự lãng quên của mặt trời mỗi ngày hiện lên lộng lẫy từ phương Đông để rồi lặn xuống âm thầm sau dãy núi phương Tây.

Viết xong tại Đà lạt ngày 27 tháng 5 năm 1971.

NGUYỄN-THỊ-THANH-SÂM .

HẾT