← Quay lại trang sách

Ba Đại tá về hưu

Mỗi người về hưu đều buồn theo một cách khác nhau!

Năm 1993, sáu mươi tám tuổi, sức lực còn tràn trề nhưng chờ mỏi đợi mòn không thấy cái lon thiếu tướng đâu, Hai Sài Gòn đành ngậm một khối tủi hờn xin về hưu. Thật là toi công phấn đấu!

Hai Sài Gòn đã nhịn nhục đủ thứ tính từ ngày được phong quân hàm đại tá: nhịn… em út, nhịn nói. Ông đã tu dưỡng đạo đức cách mạng thật sự. Không một cô gái nào quyến rũ được ông nữa! Nói thiệt lòng, trong công việc hàng ngày, đám đàn em thường mời Hòa đi nhậu, gọi là đi thâm nhập thực tế để có kinh nghiệm, đủ bản lãnh trong cuộc chiến đấu chống bọn tham nhũng, thấy gái tơ cứ xoắn lấy, ông thèm phát cuồng. Một đôi lần, ông cũng chặc lưỡi để làm đại một cái! Tất nhiên, những cú xé rào như rứa, ông đều căn dặn đàn em phải rất cẩn trọng không để lộ! Nghề mình gây ân oán nhiều, sơ hở là chết tươi, ô nhục cả gia đình, dòng họ! Thời buổi này bọn tham nhũng sẵn sàng vu oan giá họa, sẵn sàng gài bẫy hại nhau kia mà! Mừng là đệ tử của Hòa rất giỏi trong chuyện này!

Từ ngày Sài Gòn nở rộ dịch vụ bia gác tay, karaôkê có tiếp viên kiêm ca sỹ… Hòa thấy khỏe! Ông ít ăn cơm nhà, ngày nào bà Lịch cũng nhận được cú điện thoại trước bữa ăn tối: Anh bận họp, bận tiếp khách, đang làm việc căng lắm… Cứ ăn cơm đi, khỏi chờ!

Nhưng không phải ông Hòa chỉ thư giãn bằng mấy em tiếp viên, cave. Ông là dân sành điệu trong tình trường mà. Ở đời, hào hoa đa tình quá cũng khổ! Nhiều em cứ lao vào Hòa mà em nào cũng ngon mới mệt chớ! Bản tánh thương chị em, Hai Sài Gòn đâu nỡ từ chối, tội nghiệp chết! Nhưng ông ra điều kiện, tất nhiên là phải giao kèo đàng hoàng: Em mê anh, anh mê em thì ta chiều nhau. Xong việc là dông, không có thì thụt lê nhê chi nữa! Nói cho cùng, ông cũng lớn tuổi rồi, ông muốn giữ thanh danh mình, gia đình mình, nhất là ông nghĩ đến con, đến cháu, tu tâm tích đức cho con cho cháu. Ông đã bao giờ sống bạt mạng đâu! Rồi đến chuyện phát ngôn, ông cũng kiềm chế nhiều, không phải cứ muốn bày tỏ quan điểm, chính kiến là xổ ra. Ông hiểu ra rồi: Những thằng bạn cùng trang lứa với ông, chúng nó leo cao, thăng nhanh không phải vì tài cán chi đâu. Chúng nó dốt vô cùng nhưng lại lên vèo vèo chỉ vì biết nín nhịn. Thảo nào các cụ dạy: Một điều nhịn chín điều lành!

Ô trời, thấm thoắt mà mười lăm năm đại tá rồi! Té ra cái sự nhịn yêu nhịn nói của ông là công cốc sao? Dẹp, mơ tưởng chi cho mau già, đến chết là hết sạch bách! Tướng cũng như anh binh nhì, ra đất ráo trọi! Thế là Hòa đệ đơn xin hưu. Vả lại, cái công việc đang làm xem ra ân oán quá nhiều, ông không muốn lút sâu mãi trong đó. Từ ngày được biệt phái sang đảm đương chức ấy, ông chẳng thể ngủ ngon được dù chỉ một đêm. Tham nhũng là bệnh của người có quyền có chức. Dân thì làm sao tham nhũng! Như thế chống tham nhũng là chống ngay trong… bộ máy Nhà nước, nghĩa là toàn đánh vào đồng chí, thường là có quyền, có trách nhiệm cao! Tránh sao khỏi ân oán về sau!

Đơn xin nghỉ của Hòa chưa được giải quyết! Trên bảo muốn nghỉ, Hòa phải đào tạo hoặc giới thiệu người kế cận. Nghĩa là ông còn phải làm việc thêm một thời gian nữa! Chứng tỏ cấp trên vẫn tín nhiệm Hòa.

Vậy mà tại sao cấp trên lại ki bo cái lon thiếu tướng với ông? Kỳ quá, chịu, Hòa không hiểu nổi! Ông làm đến cuối năm 1994 thì lại đệ đơn xin hưu. Thôi, âu cũng là cái số. Khí chất anh Hai Nam Bộ khiến ông quyết định xin nghỉ bằng mọi giá.

Nộp đơn rồi, tự dưng ông lâm bệnh, chứng bệnh kỳ cục, nó làm ông một trận kinh hồn! Từ thuở bé đến giờ, chưa bao giờ ông phải đi bệnh viện ngoại trừ một lần phải phẫu thuật cắt ruột dư bị bục tại Khe Sanh tháng giêng năm 1969, và năm lần bị thương. Cả sáu lần nằm bệnh viện thời chiến tranh, ông đều được các nữ y sỹ và bác sỹ chăm sóc hết lòng; đáp lại, họ đều nhận được từ ông những giây phút thần tiên… Những người đàn bà đã đi qua đời ông, ông không thể nhớ hết. Ngay cả cô bác sỹ xinh đẹp người Hà Nội đã cắt ruột dư cho ông tại Khe Sanh, người đã tự nguyện dâng cái trinh trắng mỹ miều cho ông, ông cũng không biết giờ này ở đâu, chồng con thế nào! Đôi khi ông tự sỉ vả mình: Phải chăng mi phóng túng quá xá nên Trời phạt mi, bắt con gái mi phải trắc trở tình duyên, nếu không thì cũng ế chồng?!

Trận bệnh dai dẳng khiến ông nằm liệt trong Quân y viện 175 tròn một tháng. Miệng không muốn ăn, mắt thèm ngủ mà không ngủ nổi. Mặt mày xơ xác như vườn trầu chết khô vì hạn kéo dài, Hòa sút gần chục ký! Thế là sao? Chẳng lẽ lại bị AIDS? Không đời nào! Về chuyện ấy, ông vốn không ăn tạp, đã chuộng sự thơm tho sạch sẽ lại vô cùng cẩn trọng… Cả tá bác sỹ hội chẩn, không tìm ra bệnh. Rồi họ khuyên ông nên đi dưỡng sức ở miền biển. Thế là ông đi. Mới ra biển được một tuần, ông khỏe hẳn. Thì ra ông mắc căn bệnh buồn… phải về hưu. Ông buồn mà sinh bệnh. Buồn vì không được thăng quân hàm. Nếu được lên tướng, không bao giờ ông phải hưu. Nghĩa là cứ làm việc đến khi nào không làm được nữa thì mới nghỉ! Bên cạnh đó, biết bao chính sách từ nhà, đất, đến xe ôtô riêng, đi nước ngoài, khi chết, ma chay cũng hơn người! Còn bổng lộc thì khỏi nói, bao la!

Không xin được cho thằng nghịch tặc vào chỗ đó thì xin chỗ khác. Ông Hòa đi gõ cửa cánh nhà binh của ông vậy. May mắn quá sá! Đúng là quân ta với nhau có khác. Giám đốc nhà máy Z007 nghe giọng ông qua điện thoại, la rầm trời:

- Ủa, anh Hai Sài Gòn hả! Trời đất! Khỏe hông anh Hai? Ghé em nhậu chơi. Ờ, ờ em nghe rồi, hiểu rồi, chuyện xíu xìu xiu ấy mà, nhằm nhò gì! Năm trước anh Hai giúp em một bàn quá đẹp, em còn chưa nghĩ ra cách trả ơn anh Hai. Nay anh Hai cứ ẵm thằng nhỏ tới, em lo hớt, chu đáo, phải, lo hớt, anh Hai à!

Bất đắc dĩ lắm lắm Hai Sài Gòn mới nhờ vả trong quân đội, vì ông không muốn mang tiếng một lần nữa. Hồi cái thằng rách giời rơi xuống mới mười sáu tuổi, nó đua xe cán chết người ta, ông đã phải nhờ đến phái nhà binh của ông rồi. Vụ ấy tai tiếng dữ! Ông ân hận. Cái vụ thiếu tướng trật lất có lẽ một phần bởi chuyện đó. Còn thằng Tươm, giám đốc Z007 nhắc tới ơn huệ năm trước, quả thật ông nào có nhớ. Nhiệm vụ của ông là phải phân định rõ trắng đen, công tội. Thằng Tươm bị tố cáo trốn thuế hơn một tỷ đồng, bán xe tăng theo giá chỉ bằng một phần ba giá sắt vụn mà nhà máy thép đang thu mua, chia đất công cho mình và cho con cháu, dòng họ để bán kiếm chênh lệch… Sự vụ lẽ ra phải đưa ra Tòa án Quân khu. Vậy mà ông Hòa đã cứu Tươm thoát nạn. Số thuế hơn một tỷ đồng chưa nộp là có thật, nhưng không phải Z007 cố ý trốn, mà đang xin miễn. Năm chiếc xe tăng của Mỹ bị ta tiêu diệt rải rác trong rừng Tây Nguyên, tốn bao nhiêu tiền mới kéo về Sài Gòn, để tại nhà máy suốt mười hai năm trời, để làm gì? Nó thật sự là sắt vụn kia mà. Còn bán nó, phải bán theo giá thỏa thuận chứ làm sao mà bảo đắt rẻ! Còn chuyện đất đai, những người được cấp toàn là sỹ quan từ thiếu úy trở lên. Họ là họ hàng bà con với Tươm, nhưng nếu không phải Tươm thì ai làm giám đốc họ cũng được cấp kia mà! Rách chuyện! Đúng là ghen ăn tức ở mới thế!

Thực ra, trong số mười tám người nhà của Tươm được cấp đất, chỉ có một nửa là sỹ quan hiện hành, còn lại là những thanh niên đang học ở đại học quân sự! Nhưng trước sau gì họ cũng về phục vụ quân đội. Cái lý là ở đó.

Thằng Thăng được nhận vào phòng vật tư - vận tải của nhà máy. Nói nôm na nó khuân vác những thứ cần bốc dỡ trên xe ôtô tải xuống nhập vô kho, và ngược lại, từ kho bốc lên ôtô tải. Việc này cần sức khỏe và sự chịu khổ. Sức khỏe thì nó không thiếu, chỉ thiếu sự chịu cực. Vả lại, nó không thể nào quen với hình ảnh nó là một gã cửu vạn! Nó là con liệt sỹ, là cháu nội của ông đại tá lừng danh một thời, là cháu nội của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng chứ có phải cục c…t đâu mà rẻ rúng nó đến vậy! Đã đến nước này, nó sẽ cho mọi người vài vố tức ói máu chơi!

Tuần lễ đầu tiên, nó làm rớt một thùng hàng vào mui chiếc Mercedes đời mới toanh, chạy chưa hết kỳ rôđa, của một khách hàng đang thương thảo với Giám đốc Tươm hợp đồng sản xuất máy đảo nước cho vuông tôm. Thùng hàng ấy nặng tới năm chục ký, bao bì là gỗ có đai sắt, cho nên cái sự bẹp mui xe khá là sâu, có tút kiểu nào thì cũng như cô gái đa tình bị bỏng axít phải cắt da mông lên vá mặt. Tuần thứ hai, người ta phát hiện nó với thủ kho Hái, cháu ruột của Giám đốc Tươm, mới được chú đưa từ Thanh Hóa vào, đang đóng phim con heo ở trong kho chứa thảm len. Giám đốc Tươm hay tin nổi trận lôi đình, bợp cho con Hái ba bợp hộc máu mũi. Nó cắn răng không khóc! Hái sinh ra ở một làng quê nghèo bên bờ sông Chu, nhà luôn đói mà vóc dáng nó lại mỏng mày hay hạt, ngon lành như người mẫu! Nó học hết lớp bảy trường làng thì bỏ học theo bà cô đi buôn chuyến trên tuyến xe khách Thanh Hóa - Hà Nội. Đến khi đủ tuổi, nó được tuyển vào làm công nhân nhà máy thuốc lá. Từ ngày tập tễnh theo bà cô đi buôn, nó rất khoái ăn diện. Đã biết bao lần, nhìn mấy cô gái từ vũ trường Hà Nội bước ra, nó thèm rỏ rãi! Lương công nhân làm sao cung ứng đủ khát khao của nó. Thành ra nó phải đi làm… thêm ở mấy quán bia ôm. Sau vài đêm đi làm thêm, Hái mệt bã, vào nhà máy trễ giờ lia chia, thế là bị kỷ luật. Nó cóc cần, mới mười tám cái xuân xanh, nó giã từ không chút luyến tiếc việc khuân vác lá thuốc để trở thành cave chuyên nghiệp. Nó bỏ việc khuân vác lá thuốc được một tuần thì gia đình mới hay tin. Thầy bu nó viết thư cầu cứu ông anh cả. Tươm đón cháu vào vừa đúng lúc ông thủ kho lâm bệnh ung thư phải nghỉ. Thế là nó vồ được chân thủ kho ngon lành. Ngày đầu gặp mặt thằng Thăng, con mắt Hái đã đong đưa lúng liếng rồi. Quả như lời đồn: Gái Thanh Hóa khóa lô can! Ngày thứ hai, thằng Thăng nháy mắt ra hiệu, bắt được tín hiệu ấy, nó nán lại sau giờ làm việc buổi chiều. Thế là, sau vài phút thăm dò đưa đẩy, hai đứa lao vào hùng hục quần thảo nhau trên tấm thảm len trong nhà kho.

Tưởng nó chừa thói dâm đãng sau mấy cái bạt tai của ông bác, ai dè ba ngày sau, người ta lại thấy nó quỳ trước chân thằng Thăng, thằng Thăng đứng dạng háng, cái quần jean tụt xuống quá đầu gối. Con Hái úp mặt vào chỗ ấy của thằng con trai mà…! Giám đốc Tươm điên tiết! Đến cuối tuần thứ ba thì thằng Thăng đánh gãy be sườn của binh nhất Thỉ. Thỉ đang đi tuần thì nghe có tiếng rên rỉ ở trong toa lét. Binh nhất quát hỏi nhưng không thấy tiếng trả lời, bèn xô cửa vào. Lúc đó Thỉ thấy Hái đang chống tay vào bồn cầu, mông chổng lên cho thằng Thăng khoan vào cái ấy. Đang đê mê trên miền cực lạc mà bị phá thối, thằng Thăng lao vào dạy cho binh nhất Thỉ bài học vì tội xía vào công việc của người khác. Tất nhiên là Thỉ đánh trả. Thế là choảng nhau to.

Những năm mới về ở với ông bà nội, học tiểu học, thằng Thăng còn lành lắm. Thấy thế, cố nội nó, tức cụ Nguyễn bèn truyền cho nó mấy thế võ. Đến khi ra đàn đúm ở sân tennis Tri Âm, thằng Thăng học thêm được mấy chiêu Taekwondo. Binh nhất Thỉ đánh không lại, bị thằng Thăng tung độc chiêu vào be sườn, gục xuống. Lúc đó Hái đang co rúm người ở góc toa lét. Nó nhìn thấy sự dũng mãnh của người yêu của nó. Nó đang đói, rất đói tình! Đối thủ của người yêu gục xuống, máu mồm ộc ra vậy mà cái cột buồm của người yêu vẫn cứng đanh. Thằng Thăng cảm được ánh mắt của con Hái. Nó nhào tới, tiếp tục cuộc hành trình dang dở! Khi cả hai đạt tới tột đỉnh, chúng rửa ráy và rút êm. Binh nhất Thỉ tỉnh lại, rên la rầm trời, nhưng khu nhà văn phòng vắng tanh vắng ngắt. Thỉ cố lết ra ngoài kêu cứu.

Binh nhất Thỉ nhập viện, thằng Thăng bị buộc thôi việc, còn bà Lịch và ông Hòa phải đến bệnh viện năn nỉ để được người lính nghèo Cung Tích Thỉ nhận khoản bồi thường…

Sài Gòn đang trong cơn sốt nhà đất, nhiều người tay trắng bỗng chốc trở thành triệu phú! Đúng là trời cho. Sốt nhà đất muôn năm!

Trước khi rời đơn vị pháo binh về làm quan thanh tra, đại tá Hòa được cấp một lô đất ở đường Ba Tháng Hai, vốn là khu đất quân sự cũ. Lô đất mặt tiền rộng mười mét, sâu ba chục mét, tiêu chuẩn sỹ quan hai thời kháng chiến mà! Ba Hòa đang chưa biết làm gì, thì đệ tử của ông gạ:

- Thủ trưởng bán cả, em trả hai triệu một mét vuông, vị chi sáu trăm triệu đồng, tức một trăm hai chục cây vàng.

Ông Hòa trợn tròn mắt nhìn đệ tử. Trời đất! Hơn một trăm cây vàng, từ trên trời khi không rớt vô túi! A! Thì ra Trời có mắt, thương phận mình lận đận, cả đời đi làm cách mạng, mong mãi cái lon thiếu tướng không được, bèn ban cho một đống vàng! Không phải hai cây như hồi đi tập kết vợ dúi cho, mà là một trăm hai chục cây! Thời ấy, con gái miền Bắc ở nông thôn quá nghèo đói, dấy lên thành một cao trào lấy chồng miền Nam tập kết, là vì anh cán bộ hay bộ đội miền Nam nào khi ra Bắc cũng lận trong người chí ít vài chỉ đến vài cây, tay mang đồng hồ Thụy Sỹ, ngón tay đeo nhẫn vàng chóe, răng nhiều chàng cũng bịt vàng khi cười lóa cả mắt, quần áo toàn vải xịn. Chỉ riêng những thứ đó đã khiến con gái lao vào như ruồi nhào vô hũ mật, huống hồ Hòa còn bô trai, lại có học, giỏi tiếng Tây! Tất cả những thứ đó cộng với số đào hoa đã đầy đọa Hòa lâm vào hết cuộc tình này đến cuộc tình khác. Gọi là cuộc tình cho nó oách chứ thực ra con gái nhà quê thật thà lắm! Người ta dâng cho anh, ngủ với anh là thật lòng. Nếu anh cưới người ta là nhất, bằng không cũng chẳng sao. Tự nguyện mà! Những năm đó Hòa đi làm công tác cải cách ruộng đất ở miệt Kiến An, rồi Hải Phòng. Chỗ nào anh cũng hào phóng ban phát nụ cười đẹp và sinh lực mạnh như cọp. Có đến hơn trăm chứ bỡn! Trời cũng hổng nhớ nổi! Đến sau này, khi gặp Hải Yến thì trong người Hai Sài Gòn không còn một chỉ. Chiếc nhẫn cưới cũng bay, còn độc cái nòng pháo bên dưới và hàm răng trắng bên trên! Không hề chi. Yến yêu Hòa đâu phải vì vàng, mà vì mê cái tinh thần trong trẻo và sức lực dũng mãnh của Hòa! Ấy là lời cô ấy thốt ra lúc sung sướng trong vòng tay Hòa trên đê Yên Phụ…

Ngôi nhà ở Hàm Nghi quá rộng, miếng đất vừa được cấp không bán thì để làm gì. Thế là Hòa bàn với vợ, bà Lịch nói:

- Thủng thẳng rồi tính. Làm chi vội vàng quá sá vậy? Để em hỏi cháu Tâm đã. Nó đang là đại gia ở Sài Gòn về bất động sản đó!

- Cái gì? Thằng Tâm nhà mình mà đại gia sao?

Trời đất thánh thần ơi! Ông cứ như trên trời rớt xuống vậy. Tối ngày đọc báo, đọc sách, hội họp, kiểm điểm, học Nghị quyết… mà chẳng hiểu thời cuộc ra sao!

Nguyễn Hùng Tâm là con út, là trai duy nhất của Nguyễn Kỳ Khoa, em ruột ông Hòa. Nó ngang tàng, ham chơi, tính tình thẳng băng ruột ngựa, hào phóng, khi cần thì cái miệng dẻo quẹo như một nhà ngoại giao nhưng thường thì nó nói năng bặm trợn, ngoa ngoắt, bỗ bã đậm chất anh hai Nam Bộ. Kỳ Khoa ở với ông bà ngoại từ sau khi má chết. Ông ngoại vốn là y sỹ của nhà thương Sài Gòn. Khoa học giỏi, được học bổng đi Paris học bác sỹ. Năm 1958 Khoa về nước, làm việc ở Quân y viện Cộng Hòa. Kỳ Khoa lấy vợ, con gái một viên tướng. Năm Bảy mươi sáu, Khoa đi học tập cải tạo năm năm thì mãn hạn. Tám năm sau, hai vợ chồng cùng đứa con gái vừa tốt nghiệp đại học, đi định cư ở Hoa Kỳ theo diện H.O. Riêng thằng con trai Hùng Tâm ngang ngạnh không chịu xuất ngoại:

- Ba má dây với chế độ cũ nên ghét chế độ mới, hoặc không được chế độ mới tin dùng, thì cứ đi. Còn con, việc gì con phải đi đâu! Sài Gòn là quê hương bản quán của con! Ba má chẳng dạy con từ nhỏ là phải biết yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc, yêu cha mẹ ông bà đó sao! Cả nhà đi hết thì ai chăm ông nội? Bác Ba Hòa còn trong quân ngũ, chị Nam, cháu Thăng thì lo học hành, chỉ còn mỗi bác Lịch phục dịch cả nhà! Con không đi đâu hết. Chỗ của con là Sài Gòn, dù nó có bị cộng sản đưa về thời kỳ đồ đá thì con vẫn đeo bám thành phố này…

Ba má Tâm nghe con trai nói ngượng chín mặt. Ông Khoa cúi gằm tránh ánh mắt soi mói rỉa rói của con, còn bà Thái Hằng thì năn nỉ:

- Con có bạn gái phải không? Má biết. Má không phản đối con. Con dẫn về cho má coi, rồi làm lễ hỏi. Con cứ sang Hoa Kỳ rồi ba má sẽ làm thủ tục bảo lãnh cho vợ con!

- Cả khiêng má ơi, làm sao đám hỏi với cả chục cô, cô nào cũng đạt điểm chín, mười, làm sao má bảo lãnh hết bồ của con! Mới mười tám tuổi, vợ con chi cho mệt! - Chợt Tâm hạ giọng, Tâm rất thương cha mẹ, nhất là má - Má! Con không đi vì không thể xa Sài Gòn. Không biết vì sao nữa! Một tháng nay, cứ nghĩ đến chuyện nay mai mình rời xa căn nhà trên đường Nguyễn Du thơ mộng này, rời bỏ thành phố này sang Mỹ làm dân ngụ cư là con mất ngủ, ăn cũng không ngon nữa! Hỏi vì sao thì con không trả lời nổi. Nhưng dường như Sài Gòn đã hút chặt đời con rồi!

Tâm ở một mình trong ngôi nhà ba má để lại, gần nhà ông nội. Sáng nào nó cũng ghé thăm ông nội, mua phở cho ông nội ăn. Ham chơi, biếng học, thi cử rớt lên rớt xuống, năm Chín mươi mốt, Tâm hai mươi lăm tuổi mới học xong đại học. Tâm không đi làm Nhà nước, cứ ở nhà đi đây đi đó. Ông Hòa, bà Lịch và cả cụ Nguyễn không ai biết rằng đó chính là thời gian Tâm lục lạo mua bán nhà, đất. Mua một căn nhà hai chục cây, vài ngày sau bán đi có lời gấp đôi. Mua một căn nhà bẹp trên đường Võ Thị Sáu, ủi đi, san thành bình địa, đang tính xây cất thì có người đến ấn vào tay số tiền gấp ba số vốn! Có lần Tâm mới trả một phần tiền cho chủ để nhận nhà, hẹn năm ngày sau trả nốt thì ngay sáng hôm sau, có người đến trả gấp đôi giá tiền Tâm mua. Ông bà Khoa viết thư bảo gửi vé máy bay về cho Tâm qua Mỹ chơi. Tâm không chịu, bảo nếu cho tiền thì gửi về để thêm vào mua xe xịn. Với số tiền năm ngàn đôla, anh không mua xe xịn mà mua đất. Rồi đất đẻ ra tiền… Năm Chín mươi ba, khi bà Lịch đem chuyện miếng đất được cấp ra hỏi Tâm thì Tâm đã có tài sản trị giá hàng triệu đôla rồi!

- Hai bác nói sao? Mặt tiền Ba Tháng Hai mà một trăm hai chục cây? Nó lừa hai bác rồi! Cả đời đi theo cách mạng, có cái lon thiếu tướng trầy trật mãi không được, nay họ cho bác Ba miếng đất bằng cái lưỡi mèo để an ủi, vậy mà có thằng tính ăn quỵt, tính phỗng tay trên của bác sao? Hỗn! Ăn bẩn, ăn dơ là đồ chó!… - Tâm kìm lại kịp thời khi thấy ông Hòa nhìn mình vẻ khó chịu - Nếu hai bác đồng ý, cháu sẽ xây lên trên lô đất đó hai căn nhà đúc ba lầu, chung tường, giống hệt nhau. Xây xong, bác một căn, cháu một căn. Chi phí xây dựng coi như tiền cháu mua một nửa lô đất. Ngoài ra, cháu còn đưa cho hai bác hai chục cây nữa để xài cho vui!

- Nghĩa là… - Ông Hòa đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ông tính nói gì nhưng lại không biết nói gì. Lãnh vực này với ông xa lạ quá. Ông mù tịt. Thấy mặt chồng cứ nghệt ra, bà Lịch lên tiếng:

- Nghĩa là cháu mua chỉ một nửa lô đất mà cũng hơn giá người ta trả?

- Dạ phải! Cháu xây lên để bán kiếm lời lớn hơn! Thời buổi này không gì lời nhanh bằng mua bán nhà đất. Đây là cơ hội vàng, mấy thập kỷ mới có một lần sốt đất! Cơn sốt đất đai thường diễn ra sau những thay đổi lớn về chính trị, thời cuộc biến động. Không nắm bắt cơ hội này thì muôn đời nghèo khó! Hai bác biết không, có nhiều ông giám đốc lấy vốn lưu động của doanh nghiệp mua đất. Có ông liều mạng hơn, vay vốn ngân hàng để hiện đại hóa dây chuyền công nghệ, phát triển sản xuất, bịp bợm cỡ tay tổ! Thực ra là để mua đất. Họ chỉ cần một hai tuần là quay vòng vốn, thu lời gấp ba gấp bốn lần. Có phi vụ lời gấp chục lần. Siêu lợi nhuận đó, thưa hai bác! Cháu biết và quen khoảng ba chục ông đày tớ của dân, mỗi người đang có năm sáu hécta đất và nhiều biệt thự, nhà phố! Quá sá kinh khủng! Thời chế độ cũ, chả thấy ai bạo phát lẹ như mấy ông đày tớ của dân bây giờ! Hai bác biết không, căn nhà ông nội và hai bác đang ở, ngay hôm nay nếu bán đi, sẽ không dưới một ngàn cây. Nhưng tháng sau mới bán thì hai ngàn cây không chừng!

Ông Hòa trừng mắt:

- Này, tôi cấm anh nói đến chuyện mua bán căn nhà này!

- Dạ, cháu ví dụ thôi mà. Đời nào có chuyện bán! Nếu hai bác có bán thì cháu cũng không để nó rơi vào tay người khác. Cháu đề nghị hai bác lưu giữ ngôi nhà này mãi mãi, đến muôn đời. Cháu thành tâm mong như thế!

Hai vợ chồng Ba Hòa nghĩ rồi bàn, bàn rồi nghĩ, hai ngày hai đêm sau mới quyết: đồng ý để cháu Tâm xây nhà trên lô đất được cấp, bác một căn, cháu một căn. Xây xong, Tâm mời hai bác lên coi nhà mới. Ông bà Hòa Lịch hết lời khen ngợi cháu mình. Tâm chả nói chả rằng, xì ngay ra lời đề nghị mới:

- Thưa hai bác, chả mấy nữa là đến ngày ông nội tròn trăm tuổi. Đây là đại hồng phúc của gia đình ta. Cháu xin hai bác một điều: cho phép cháu được nâng cấp ngôi nhà ở Hàm Nghi cho đẹp hơn, kiên cố hơn. Nếu cháu nhớ không lầm thì ông nội nói rằng ngôi nhà ấy xây từ trước năm 1895, nghĩa là hơn tuổi nội! Nó cần phải được xây thành tòa nhà đúc, ít nhất phải ba lầu!

- Tiền đâu cháu? Lương hưu của bác chỉ đủ bác uống bia. Mọi chi tiêu trong nhà vẫn trông vào cái tiệm tạp hóa của bác Lịch. - Ba Hòa nhìn Tâm, nhìn vợ, giọng ấm áp, thân thiết, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.

Ba bác cháu đang đứng trên sân thượng ngôi nhà mới. Ông Hòa nhìn về phía công viên Kỳ Hòa, nơi đó xưa kia là Đại đồn Kỳ Hòa. Ông nội của Hòa đã chiến đấu bảo vệ Đại đồn. Cha Hòa đặt tên cho con là Kỳ Hòa là để nhớ đến sự kiện lịch sử ấy.

Thấy hai bác mình đang vui, Tâm nói:

- Cháu xin nói ngay: Căn nhà mới này của bác là toàn quyền bác sử dụng. Riêng căn của cháu, cháu sẽ gọi bán. Chắc chắn sẽ lời rất lớn. Toàn bộ số tiền lời đó, cháu xin phép được góp vào việc làm mới nhà Hàm Nghi, đón lễ đại thượng thọ trăm tuổi ông nội. Hai bác đồng ý thì cho cháu biết ý kiến!

Vợ chồng ông Hòa đồng ý làm mới căn nhà cổ. Nhưng cụ Nguyễn thì không! Ngôi nhà này đã trở thành máu thịt của cụ. Ông Hòa kiên trì thuyết phục. Lễ đại thượng thọ một trăm tuổi của cụ Nguyễn đang tới gần. Cuối cùng, cụ Nguyễn xiêu lòng vì nể con, vì ngôi nhà cổ đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó - đó là lời ông Hòa thuyết phục cha mình! - nó đã quá ọp ẹp, cái gác cây không biết sập lúc nào!

Mãi đến đầu năm Chín mươi tư, được phép của cha, Hòa quyết định giao cho cháu Tâm đứng ra xây dựng nhà Hàm Nghi.

Khi xin được việc cho thằng Thăng thì nhà Hàm Nghi xây xong. Tuyệt đẹp! Hiện đại và vô cùng tiện nghi. Gia đình ông Hòa từ căn nhà ở Ba Tháng Hai dọn về ngôi nhà mới xây gồm một phòng khách, sáu phòng ngủ, đầy đủ tiện nghi như khách sạn quốc tế, một phòng dành cho việc thờ cúng Tổ tiên, ngoài ra còn hầm làm ga ra, nhà bếp… Nhà sâu ba chục mét, được thiết kế giếng trời ở một phần ba phía cuối cho nên đầy gió và ánh sáng!

Hòa cứ đi ra đi vô ngắm vuốt, lòng rưng rưng. Ngồi xuống sàn hành lang ngửa mặt nhìn mặt trời đang lên từ phía sông Sài Gòn, ông nói với vợ:

- Tôi chịu bọn trẻ bây giờ. Chúng nó giỏi quá, đầu óc tân tiến quá! Mới ngày nào thằng Tâm còn lêu lổng, ham chơi, mà nay chững chạc quá trời! Ước gì thằng Thăng được một góc thằng Tâm! Nó nói là làm, làm việc gì cũng tính đến cái tối ưu, hoàn hảo! Bà nghĩ coi, ngôi nhà cổ lợp ngói ống với cái gác cây kiểu chú Hỏa hơn một trăm năm trước, nay biến thành ngôi nhà đúc kiên cố, kiểu dáng hiện đại, một trệt ba lầu… Nào, đưa rượu Hennessy con gái Phương Nam mới mua ra đây, tôi với bà mang lên mời cha nghe!

Từ ngày thằng Thăng lộ rõ bản chất nghịch tặc, cụ Nguyễn buồn quá hóa bệnh, rồi sau cơn bệnh thì điếc đặc tai bên trái. Ai muốn thưa chuyện với cụ, phải nói thật lớn.

Vợ chồng ông Hòa lên lầu một rót rượu mời cha, cụ Nguyễn cầm ly rượu hít một hơi thật sâu, thơm bỏng mũi, rồi nhẩn nha uống từng chút, từng chút. Con trai hỏi:

- Ba à, ba hài lòng với ngôi nhà mới chứ?

- Hả?

- Ba thấy nhà mình thế nào?

- Anh nói sao, thằng Thăng lại làm chuyện bậy bạ chi đây?

Bà Lịch đến bên cụ Nguyễn, nói từng tiếng chậm rãi, và cụ Nguyễn hiểu ra câu hỏi của Hòa.

Cụ nhìn xung quanh căn phòng riêng của mình, nhìn cách bài trí trong phòng, gật gật đầu.

- Ai dè cái thằng ngật ngà ngật ngưỡng chán học ham chơi mà chí thú lạ! - Cụ đang nói về Hùng Tâm, cháu nội, con thằng út của mình - Nó là đứa có hiếu!

Cụ Nguyễn rất hài lòng. Căn nhà cổ trước đây suốt ngày phải mở đèn, nếu không thì tối om như hũ nút, nay trở thành một tòa nhà đúc, thuộc loại đẹp nhất đường Hàm Nghi, trong hàng nhà phố. Ngày ngôi nhà cũ bị đập phá, cụ Nguyễn thức trắng đêm. Cụ nhớ lại thời trai trẻ, hai vợ chồng hết lòng thương yêu chiều chuộng nhau và chiều chuộng các con. Ngôi nhà cổ trở nên một phần đời của cụ! Nó từng là nơi cụ dạy chữ, dạy làm người cho hàng trăm học trò. Nó từng là cơ sở liên lạc của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Nó tiếp tục là cơ sở của cách mạng những năm kháng chiến chín năm và kháng chiến chống Mỹ. Con trai trưởng hy sinh như một anh hùng trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Con trai kế là đại tá. Lẽ ra nó phải lên tướng từ lâu rồi kia. Bị cái nó đào hoa tưng bừng! Tiếng thế chứ cụ biết đại tá Hòa con cụ rất thương vợ thương con, nó đâu phải loại đàn ông không nhân cách! Hai cháu nội của cụ là liệt sỹ. Con dâu của cụ là Mẹ Việt Nam Anh hùng. Con trai út của cụ là bác sỹ ngoại khoa danh tiếng nhất Sài Gòn, đang làm việc ở một bệnh viện lớn của Hoa Kỳ. Cụ vui, thiệt vui! Tứ đại đồng đường! Cháu nội cụ: hai đứa Trung, Thành đã xả thân vì nước! Cháu Hùng Tâm, cháu gái Phương Nam đều thông minh, hiền thảo, học thành tài. Cụ vô cùng biết ơn Tổ tiên, Trời Phật đã cho cụ đại gia đình tuyệt vời và cho cụ sức khỏe phi thường! Cụ thọ chín mươi chín tuổi, da đỏ au, râu tóc trắng như tuyết, ăn uống ngon miệng, đi đứng thẳng thớm, không bệnh tật gì ngoại trừ cái tai cụ bị ù, nói nhỏ không nghe rõ. Cụ vẫn thả bộ mỗi buổi sáng từ nhà mình ra bến Bạch Đằng để nhìn ngắm cuộc đời, nhìn ngắm thành phố đang đổi thay rất lẹ… Sáng nào cụ cũng đi bộ trên đường Hàm Nghi ra bến Bạch Đằng tập thể dục một tiếng, từ năm giờ đến sáu giờ. Tối thì tập nửa tiếng, cũng bên bờ sông Sài Gòn. Ngày nào cũng thế.

Người sống qua ba thế kỷ như cụ là quá hiếm. Sống thanh thản và hạnh phúc như cụ lại càng hiếm hoi.

Mùa Xuân năm 1995, sau Tết Nguyên đán mười ngày là tới ngày mà một trăm năm trước cụ Nguyễn Quang Minh cất tiếng khóc oa oa chào đời. Gia đình ông Hòa tổ chức lễ đại thượng thọ mừng cụ Nguyễn tròn trăm tuổi.

Cụ Nguyễn hồng hào trong bộ quần áo thượng thọ bằng lụa đỏ. Ngôi nhà đầy bông: bông hồng, bông cúc, bông lan… quá trời bông! Có lẵng hoa của Chủ tịch thành phố; lẵng hoa của Mặt trận Tổ quốc thành phố. Có lẵng hoa của Hội người cao tuổi Việt Nam. Có lẵng hoa của Bộ Tư lệnh thành. Có một đài hoa kết từ một trăm bông hồng Đà Lạt, cao tới hai mét. Đó là đài hoa của cháu gái Nguyễn Phương Nam tặng ông nội. Từ sáng sớm, bạn bè của các con, các cháu thi nhau chụp ảnh, quay phim. Phương Nam trong chiếc áo dài trắng, giản dị mà đẹp mê hồn. Cô hướng dẫn khách lên phòng khách ở lầu một để chúc thọ cụ Nguyễn. Phòng khách này được thiết kế đặc biệt sang trọng, rộng tới sáu chục mét vuông, mang dáng vẻ hiện đại nhưng vẫn in đậm hồn Việt! Phần nghi lễ chúc thọ cụ Nguyễn diễn ra tại phòng khách này. Bữa tiệc mừng thọ tiếp một trăm rưởi thực khách được chia làm hai nơi: tại phòng khách có sáu bàn tiệc, dành cho các vị khách từ trung niên trở lên. Trên sân thượng có mái che thiết kế rất điệu, được xây dựng thành một sàn nhảy hiện đại, kê hai dãy bàn làm tiệc đứng, dành cho lớp trẻ. Thực đơn của bữa tiệc là cả một câu chuyện dài. Xin tóm tắt như sau: Ông Hòa bảo đón khách chúc thọ xong thì mời quý khách sang nhà hàng ở kế nhà mình, thực đơn ra sao thì tùy, nhưng phương châm là không xa hoa, không lãng phí, phải tiết kiệm kẻo người ta cười cho! Đồng bào vùng lũ lụt đang đói nhăn răng mà mình hoang phí là có tội! Phương Nam nhìn cha, thầm nghĩ: Đúng là phương pháp tư duy của một sỹ quan quân đội! Bà Thanh Lịch thì nói:

- Phải làm cho xôm tụ, nhưng làm tại nhà. Tôi sẽ kêu bà Tư Mắm là người nấu tiệc cưới nổi tiếng Sài Gòn hiện giờ, mang đồ ăn, bàn ghế chén dĩa đến phục vụ tại nhà! Chỉ hai trăm ngàn một bàn mười hai người, chưa kể đồ uống! Rẻ rề!

Phương Nam nghe má nói, rùng mình nhớ đến những bữa tiệc cưới mà tuần nào cô cũng phải đi dự, mở đầu thế nào cũng có món gỏi: đầu heo luộc làm từ sớm, chua lòm, tôm với thịt gà Mỹ thì nhũn nhùn nhùn, ăn vào đau bụng, kế đó là món xúp lõng bõng không biết nấu bằng thứ gì, cua hay là giả cua? Rồi gà công nghiệp hấp cải bẹ xanh ăn với bánh bao, hoặc là vịt hầm nấm, rồi cá lóc nướng cuốn bánh tráng, và kết thúc là cái lẩu tả pí lù ăn với bún xì xà xì xụp! Cả bữa ăn, bói không ra một chén nước mắm ngon, rặt nước tương y hệt người Tiều, người Quảng. Nghĩ đến là hết muốn ăn rồi! Hùng Tâm nhìn chị Nam đang rợn mình nổi da gà, liền lên tiếng:

- Thưa ba bác! - Giọng Tâm oang oang, nhưng ấm áp.

Từ ngày mới giải phóng, ông Hòa đã luôn coi thằng cháu Tâm như con đẻ. Khi ba má nó xuất ngoại, nó không đi mà ở lại vì yêu Sài Gòn, ông Hòa và cụ Nguyễn bảo đúng là con dòng cháu giống! Truyền thống yêu nước thương nòi của gia đình cụ Nguyễn xem ra truyền từ đời này sang đời khác. Bà Lịch cũng yêu quý cháu Tâm như con, nhất là khi các con trai bà lần lượt bỏ bà mà đi… Bà thấy mình bớt cô độc giữa cuộc đời khi nhìn trước nhìn sau còn có cháu Thăng là đích tôn, Tâm là cháu kêu bằng bác, và, tất nhiên là con gái Phương Nam. Chuyện thằng Thăng hư đốn là bi kịch thường xuyên của gia đình, nó khiến vợ chồng bà nhiều phen căng thẳng, tưởng muốn xa nhau. Chuyện ghen tuông với bà hai xứ Kinh Bắc ngày mới giải phóng cũng không đến nỗi khiến bà Lịch căng thẳng với chồng như thế. Chồng bà đẹp trai, tài ba, số đào hoa, năm thê bảy thiếp là đương nhiên, ổng có một bà Yến là giỏi quá trời, là thương bà hết sảy rồi, ghen tuông là dại dột, là hổng biết điều! Vả lại, việc ổng lấy vợ hai là vấn đề của lịch sử, hoàn cảnh lịch sử nó buộc như thế chứ thực ra ổng vẫn rất nhớ thương mình! Ảnh đã sống trong cảnh ngày Bắc đêm Nam từ khi tập kết đến tận năm 1965 kia mà. Nếu không được hung tin vợ bị bắt rồi mất tích thì đâu đến nỗi! Bà Lịch tự an ủi mình như thế!

- Theo cháu, - Tâm sôi nổi, gương mặt chữ điền, cằm bạnh, đôi mắt thì không thể lẫn đi đâu được, y hệt ông nội và bác ba Hòa! - như ý của bác Ba là trúng! Gia đình ta phải quán triệt ý kiến chỉ đạo của bác Ba (Tâm bắt chước giọng nói của ông Hòa) là tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí! Nghĩa là làm món gì thì khách ăn phải thấy ngon miệng và ăn kỳ hết, không dư! Thế mới là hiếu khách và thật sự tiết kiệm…

Nhìn khắp lượt, biết mọi người chú ý nghe mình nói, Tâm rút trong túi quần ra tờ giấy in từ computer. Nhìn tờ giấy A4 trong tay Tâm, ông Hòa, bà Lịch và bà Yến đều cùng nghĩ như nhau: À, thì ra cháu mình nó chuẩn bị sẵn cả rồi! Bọn trẻ bây giờ chu đáo quá trời!

- Lễ đại thượng thọ ông nội tròn trăm tuổi là dịp cực kỳ quan trọng, nó là phúc đức của gia đình và dòng họ ta! Đồng thời, đây cũng là dịp mừng tân gia nữa! Và… nếu con không lầm thì từ ngày nghỉ hưu đến giờ, mấy tháng rồi, bác Ba chưa có dịp tiếp bạn bè cũ để hàn huyên! Vậy, con đề nghị bữa tiệc hôm nay phải quán triệt tinh thần tiết kiệm, nhưng phải lịch sự, ngon miệng, đồng thời phải đậm đà bản sắc dân tộc! Con nhấn mạnh: phải thật lịch sự và ngon miệng, phải làm sao để khách ăn hết tất cả các món ăn, ăn rồi về nhà rồi cứ tấm tắc khen hoài, đi bất cứ bữa tiệc nào cũng cứ phải nhớ đến, nhắc đến bữa tiệc này! Nào, chị gái xinh đẹp, – Tâm đưa tờ giấy cho Phương Nam - xin chị đọc lớn lên cho cả nhà nghe!

Phương Nam thoáng ngạc nhiên nhận tờ thực đơn, hắng giọng rồi đọc:

Món đầu tiên: Gà ác tiềm thuốc Bắc. Yêu cầu: Đúng là thuốc Bắc chính hiệu Tàu, phải tiềm trong thố, cách thủy, dọn ăn cho mỗi người một thố. Món này bổ và sang, khai vị bằng món này có sức thuyết phục rất lớn! Thứ hai: Xôi vò, thịt gà mái dầu luộc. Xôi vò nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng miền Bắc, đậu xanh miền Bắc. Thịt gà mái dầu luộc, phải đúng gà mái dầu, mới rớt tám hột. Gà tơ chưa đẻ thì thịt nhão, không ngọt. Gà đẻ hai ba lứa thì là gà già. Phải là gà đã đẻ tám trứng, mới thơm, vừa đủ mềm mà dai, ngọt, ngon số dách, đúng là nhất hạng thế giới gà! Hai món trên, thực ra là ba món, vừa rất bổ dưỡng, vừa rất là bản sắc dân tộc! Ăn hết ba món này, bụng lưng lửng rồi, mời quý khách tiếp tục cụng ly, uống rượu, trò chuyện trong khi chờ món thứ tư. Tiệc có nhiều món, cho nên mỗi món dọn ra với dung lượng vừa phải, để quý khách không bỏ sót những món sau! Món thứ tư thì mời quý khách thưởng thức bằng mắt trước: thịt nai ướp các loại gia vị đặc biệt, phải ướp đủ hai tiếng đồng hồ, nướng xèo xèo trên hỏa lò than đước rừng U Minh, nướng ở bàn bên cạnh, không làm nóng và khói không ảm vào tóc tai quần áo quý khách! Món này ăn với bánh tráng cuốn rau sống và thảo hương. Rau sống, thảo hương (tức rau thơm) phải là rau sạch gồm đúng mười một loại: ba trái, tám lá! Đó là dưa leo, chuối xanh, khế không chua quá (xắt thiệt mỏng), xà lách, rau húng quế, rau húng cay, rau húng dũi, rau dấp cá, rau kinh giới, rau tía tô và ngò gai (miền Bắc kêu bằng mùi tàu). Bánh tráng phải là bánh Trảng Bàng phơi sương (tối kỵ loại bánh tráng như giấy pơ luya rất dởm!). Món thứ năm là chả cá Lã Vọng, phải làm bằng cá lăng tươi, đúng cách Lã Vọng cổ điển là phải nướng trên hỏa lò chứ không xào. Món này là số dách, ai cũng thèm. Cuối cùng, có một món ăn mà đố ai kêu ngán! Món này gồm bốn năm thứ sánh vai nhau, gắn khăng khít với nhau: cơm trắng nấu bằng nàng thơm chợ Đào hoặc tám thơm miền Bắc, cá rô mề kho tộ kèm dưa cải chua, canh chua cá bông lau (dành cho người thích ăn món Nam), canh cua đồng rau đay mồng tơi mướp, cà pháo mắm tôm (dành cho người thích ăn món Bắc). Yêu cầu của tổ hợp món ăn này là phải nóng, canh cua đồng phải là cua giã bằng chày, cối đá chứ không được dùng cua xay máy, cua xay máy còn dính nhiều bùn, lại chưa lột yếm, lấy phổi, hoi và dơ bẩn lắm, không đúng kiểu! Tráng miệng gồm bưởi Năm Roi, vải Thiều Thanh Hà. Đồ uống (con đã có mối sẵn, là bạn con chuyên kinh doanh rượu Tây, giá phải chăng và đúng rượu thứ thiệt) sẽ dọn đủ sáu loại ly: ly uống sâm banh, ly uống vang đỏ, ai thích uống vang trắng thì tùy nghi, ly uống Cognac Hennessy, ly uống Whisky Scotch loại đầu bảng là Chivas Regal, cuối cùng là ly uống bia Heineken và ly uống nước ngọt. Về chi phí, lẽ ra con không kê ra, nhưng biết rằng thế nào các bác cũng hỏi nên con xin trình bày: Toàn bộ chi phí cho bữa tiệc nói trên, tưởng là mắc hóa ra không mắc nếu so với đặt tiệc tại nhà hàng. Bình quân mỗi bàn mười người chỉ hết bảy trăm ngàn đồng. Dạ, chỉ bảy trăm ngàn đồng là nhòe*! Phải tạo ra không khí gia đình ấm cúng trong bữa tiệc. Chén bát đĩa, ly tách phải là đồ sứ Minh Long, sứ cao cấp, có kiểu dáng và hoa văn mang đậm hồn Việt, đã và đang danh tiếng trên thế giới. Phục vụ phải là nam thanh niên, trẻ khỏe, đồng phục sơ mi trắng tay cài măng sét, thắt cà vạt, quần tây, đi giày da đen, vớ đen. Con đề nghị bác Lịch mời nhà nấu đến thương thảo, nếu đáp ứng mọi nhu cầu trên thì đặt, bằng không thì chỉ đặt những món Nam, còn những món Bắc, để con nhờ đệ tử trong công ty con, quen thân với nhà nấu từ Hà Nội vô làm ăn tại Sài Gòn đã hai năm nay rồi, đông khách tưng bừng!

Nhòe, tiếng lóng xuất hiện ở các tỉnh phía Bắc, từ thập niên 1990 của thế kỷ 20 trở lại đây, ý nói là say mèm, nhìn vật gì cũng nhòe, không rõ nét nữa!

Giọng trong vắt, diễn cảm của Phương Nam vừa dứt, ông Hòa nhìn bà Lịch, bà Lịch nhìn bà Yến, bà Yến nhìn chồng. Họ không còn biết nói gì! Đúng lúc đó Phương Nam lên tiếng:

- Con ủng hộ đề án của Tâm! Đó là một đề án hết sảy! Nếu Tâm đồng ý, Nam sẽ công bố đề án này là Luận án tiến sỹ văn hóa ẩm thực, với các món ăn đậm đà bản sắc Việt Nam!

Bà Lịch mắng yêu:

- Nói chuyện ăn nhậu thì chị em bay hạp nhau như cá lóc hấp cuốn bánh tráng chấm mắm nêm còn gì! Quả là em hát chị khen hay! - Nói rồi quay sang bà Yến – Mẹ Yến tính sao? Con nó vẽ rồng vẽ rắn như vầy, tôi thấy khó mà quán triệt tinh thần của ba nó là tiết kiệm…

Nói rồi, bà Lịch nhìn chồng cười rất duyên. Phải thừa nhận rằng bà Lịch không thua chồng về cái nụ cười… chết người! Năm xưa, cậu học sinh trường Petrus Ký đeo dính bà Lịch như sam chính là vì nụ cười và mái tóc của bà. Bà Lịch năm nay sáu mươi bảy tuổi nhưng da mặt vẫn đầy đặn, đôi mắt vẫn đen và tinh anh, nụ cười rất tươi. Nhìn vào gương mặt bà, thấy ngời ngời nhân hậu. Trong khi bà Lịch nói, bà Yến rót nước mời chồng và mời chị Lịch, mặt rạng ngời, miệng tủm tỉm cười, không biết nói gì!

Ông Hòa nhìn cả nhà vui vẻ, mà lòng ông xót xa khi nhớ tới thằng Thăng hư đốn, giờ này nó đang quậy phá nơi nào. Từ ngày bị đuổi khỏi Z007, nó rất ít khi ăn cơm nhà, nó tránh mặt mọi người trong nhà. Đêm khuya thật khuya nó mới mò về, leo lên phòng riêng để nguyên quần áo giày vớ mà ngủ như thằng chết rồi. Hòa miên man suy nghĩ, quên phắt mất rằng hai vợ và các con đang chờ ông quyết.

Tâm ơi, cháu có ý chí, thông minh, chu đáo, sắc sảo, hiếu thảo đến thế. Còn thằng Thăng, nó được cả nhà chăm bẵm dạy dỗ từng ly từng tí, lại thành phá gia chi tử là sao? Bố giỏi giang, anh hùng mà con thì lêu lổng, chỉ quen hưởng lạc, là sao hả Trời? Người ta bảo, nhà nào cũng phải có một đứa lạc loài. Thằng Thăng kể như trái độc!

Thấy chồng không nói gì, đôi mắt nhìn như vô định, bà Lịch nhắc:

- Kìa, ba quyết đi chớ!

- Vậy sao? Tôi phải quyết sao? Thôi, tôi già rồi, lạc hậu rồi, từ ngày xây nhà mới đến giờ, tôi thấy con cháu khôn ngoan, trưởng thành, tôi vui lắm lắm, hai bà biết không? - Ông Hòa đưa hai bàn tay đặt lên vai hai người vợ hiền của mình - Thôi để chị em Tâm, Nam quyết chuyện này, hai bà nghĩ sao?

- Em nhất trí!

Vẫn giọng bà Lịch, còn bà Yến chỉ cười, cười rất tươi. Gương mặt của người đàn bà xứ Kinh Bắc đẹp một cách nền nã, hiền thảo, khiến bà Lịch cứ muốn ngó hoài!

Ông Hòa tuồng như không biết hai bà vợ của mình đang trò chuyện gì sau đó, ông chìm vào luồng suy tư về những đứa con của mình. Nguyễn Anh Trung và Nguyễn Trung Thành, con gái rượu Nguyễn Phương Nam xinh đẹp nết na, và thằng cháu Hùng Tâm tẩm ngẩm mà thương ông thương bác sâu nặng… Cha con ông, tức cụ Nguyễn và ông rất tự hào. Con hơn cha là nhà có phúc! Cha ơi! Cha sống trăm tuổi, thấy các con các cháu thành đạt, chắc chắn cha sẽ thọ nhiều hơn nữa, nếu như gia đình ta không gặp quả đắng, thằng Thăng!

Cuối năm 1994, Hai Sài Gòn về hưu, việc đầu tiên ông đã làm được là lo việc làm cho thằng Thăng. Ông chưa kịp tự thưởng cho mình về thành công ấy thì thằng Thăng đánh nhân viên bảo vệ gãy be sườn, bị đuổi khỏi nhà máy, phải bồi thường cho nạn nhân để xin bãi nại. Chưa đầy hai tháng sau, thằng Thăng lại đua xe gây tai nạn nghiêm trọng. Một thanh niên đang trên đường chở người yêu đi gửi thiệp mời đám cưới, bị xe của thằng Thăng đụng chính diện, xe của băng Rồng Xanh từ phía sau cán tiếp. Chàng trai gãy cả hai chân, còn cô gái thì bị chấn thương sọ não! Hai chục cây vàng Hùng Tâm đưa cho bác, thế là nướng cả vào chuyện bồi thường, chăm sóc cho nạn nhân. Tai tiếng rần rần trên mặt báo, trong cuộc họp giao ban của Ban nội chính thành phố, người ta đòi nghiêm trị những tên đua xe gây rối, gây tội ác.

Thà cứ cho nó ngồi tù lại đỡ đau lòng hơn, đỡ xấu hổ với bạn bè đồng chí!

Ông Hòa nghĩ vậy, cho nên khi bà Lịch cãi ông, tự ý chạy chọt cho thằng Thăng, hai người thề không bao giờ nhìn nhau!

Nhưng lần này thằng Thăng phải ngồi tù thật! Nó đã hết tuổi vị thành niên, mười tám tuổi, phải lãnh án ba năm tù ở. Bà Lịch lại chạy chọt, mãi mới giảm được án xuống còn một năm. Tóc ông Hòa gần như bạc trắng, tóc bà Lịch thì trắng xóa từ lâu rồi. Cú này, ông Hòa mâu thuẫn vô cùng gay gắt với bà Lịch. Trước vụ này, ngay sau khi thằng Thăng bị đuổi khỏi nhà máy, ông Hòa đã quyết định cho cái thằng trời gầm đi trại cải tạo lần thứ hai, nhập trại ở miền Bắc, nhưng bà Lịch không nghe! Bà thương cháu côi cút, vẫn lén ông Hòa cung phụng tiền bạc cho nó. Ông Hòa phát hiện ra. Quả là con hư tại mẹ, cháu hư tại bà! Các cụ nói có bao giờ sai. Vợ chồng ông Hòa cãi nhau, không thèm nhìn mặt nhau, không thèm ngồi ăn chung bàn. Mẹ thằng Thăng, sau cú sốc này phải đi nằm viện, lâm bệnh ung thư buồng trứng. Còn đại tá Hòa, sau một trận cãi cọ nảy lửa với bà Lịch, bay ra Hà Nội ở lỳ ngoài đó suốt hai tháng, đến khi con gái út bay ra năn nỉ mãi ông mới trở lại Sài Gòn để tổ chức lễ đại thượng thọ cho cha!

Sống trên cõi nhân gian này, phần đông con người ta lạc vô cõi mê chứ có mấy ai thường xuyên tỉnh táo nhìn lại những bước đi của mình? Chỉ khi nào anh phải vô nhà thương điều trị vài tháng, hoặc bị bồ đá, hoặc là khi gia đình lủng củng, cơm không lành canh không ngọt, thì lúc ấy, anh mới chịu nhìn lại mình.

Hai tháng trời ở Hà Nội, ông Hòa đi đây đi đó gặp lại nhiều cố nhân, vui nhiều, nhưng đêm về, ông nhìn lại những năm đã qua…

Khi Nguyễn Kỳ Hòa tham gia Thanh niên Tiền phong, khởi nghĩa giành chính quyền trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945 tại Sài Gòn thì cũng là lúc Trần Thanh Lịch đang học những ngày đầu tiên của trường Gia Long. Khí thế cách mạng sôi sục, cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa quân cách mạng đang còn trứng nước với thực dân Pháp dẫn đến việc quân ta lần lượt rút ra khỏi thành phố. Cha mẹ Lịch hy sinh cùng một ngày! Thanh Lịch mới mười bảy tuổi, chôn cất cha mẹ xong, nén đau thương đi tiếp tế cho Việt Minh. Lịch gặp Kỳ Hòa bô trai, phong trần… đúng là típ người mà các nữ sinh thành phố mong ước. Còn Thanh Lịch, mang đặc trưng người gốc Hà Nội, da trắng tóc dài, mặt trứng ngỗng, mũi cao, gương mặt toát lên vẻ dịu dàng đôn hậu, nhìn vào là thấy tin tưởng. Tình yêu nảy nở vô cùng lãng mạn…

Năm 1947, họ thành vợ chồng. Thằng Trung, thằng Thành lần lượt chào đời. Đầu năm 1955, Hòa đi tập kết, tháng Chạp năm Ất Mùi, Thanh Lịch sinh con trai thứ ba, ông nội đặt tên Nguyễn Ngọc Bảo. Hai thằng lớn giống cả cha lẫn mẹ, duy có thằng út giống mẹ nhiều hơn, không cao lớn như cha, chỉ giống cha ở đôi mắt và cái miệng. Số nó vắn, chỉ sống được hơn một năm thì qua đời! Cha con không biết mặt nhau! Khi ông Hòa tập kết ra Bắc, cấp trên cho phép mang một đứa con đi cùng. Thằng Trung không chịu đi, nó bảo để nó ở Sài Gòn chăm ông nội và phụ giúp má. Thế là thằng Thành đi tập kết. Chủ nhật nào Hòa cũng cho con ra hồ Hoàn Kiếm ăn kem. Thằng Thành có thể ăn hết một lúc cả chục cây kem. Nó có thể ăn kem trừ cơm, ngày nào ăn cũng được! Năm 1964, vì thường đi công tác xa, Hòa gửi con vào nội trú ở trường học sinh miền Nam. Thành mê học và học rất giỏi. Được tin vợ bị giết hại trong tù, đến năm 1965, ông mới tục huyền cùng cô gái xứ Kinh Bắc tên là Hải Yến.

… Hai Sài Gòn xếp hàng mua bia hơi. Hàng người dài quá mà bia hơi chỉ có vài bom. Còn năm sáu người nữa mới tới lượt Hòa thì từ trong quầy hàng vang lên giọng nói ngọt như mía lùi:

- Xin quý khách thông cảm, đã hết bia rồi ạ!

Khát nước rát cả họng nhưng nghe giọng nói của cô nhân viên, tự nhiên Hòa thấy người khác hẳn. Hòa tiến đến quầy, sát liền cô gái, chỉ cách một vách ngăn thấp bằng lưới mắt cáo sơn xanh. Đó là một khuôn mặt lạ lùng: không trang điểm gì mà má hồng môi đỏ, mắt đen lay láy, cười rất tinh nghịch. Chiếc quần phíp đen cộc hẫng cộc hờ vì chủ của nó cao tới một mét sáu mươi sáu. Cái quần phíp cộc giúp Hòa nhận ra bàn chân thon, đầy đặn, mu bàn chân dày, cái gót chân hồng trên đôi guốc nhọn gót. Hết bia, Hòa mua một ly cà phê đá. Hai bàn tay cô gái trắng nõn nà thoăn thoắt đập đá và quậy cà phê cho sủi bọt lên như bọt bia. Nụ cười thật tươi, hàm răng thật đều, cổ cao ba ngấn, và… chao ôi bộ ngực gọn, căng tròn như chỉ chực bứt tung ra khỏi chiếc áo vải phin trắng cổ lá sen, cũng cộc hững cộc hờ như chiếc quần đen! Cái eo nhỏ quá!

- Em ơi, em tên chi dzậy em? – Giọng Nam Bộ, trầm và ấm như rót vô tai cô gái trẻ.

Cô gái ngước đôi mắt bồ câu đen nhánh lên nhìn người đàn ông, cười rất tươi:

- Anh đã nhìn tên em thêu trên ngực áo mà còn hỏi!

Cái cằm chẻ khiến khi nói, miệng cô gái cuốn hút người nghe bởi cái duyên ngầm và giọng nói trong trẻo, ngọt ngào.

- Em có mái tóc đẹp quá!

- Anh quá khen! Em gọi anh thế nào? Cà phê em pha có ngon không?

- Ngon, rất thơm và đậm đà! Anh là Nguyễn Kỳ Hòa, Ba Hòa, Hai Sài Gòn, em kêu tên nào cũng được! Anh Hai của anh hy sinh rồi nên trong đơn vị mọi người cho anh cái biệt danh: Hai Sài Gòn.

- Kỳ Hòa? Tên lạ nhỉ! Em đoán anh là bộ đội tập kết. Quê anh ở đâu?

- Nhà anh ở đường Hàm Nghi, trung tâm Sài Gòn.

- Chắc anh Hòa nhớ vợ con lắm nhỉ!

Mắt Hòa chợt như có đám mây xám kéo đến, nỗi buồn dâng lên ngập lòng. Nhận ra vẻ mặt buồn rười rượi của người đối diện, cô gái tên Yến hạ giọng như muốn nói riêng cho anh nghe:

- Anh buồn thế? Em xin lỗi, chắc là gia đình anh…

- Vợ anh chết trong tù rồi, chỉ còn cha anh và hai đứa con trai ở trỏng.

- Cho hai cốc cà phê đá đây! – Giọng ồm ồm của một khách hàng cắt ngang câu chuyện của hai người.

Sau lần đầu tiên gặp Hải Yến, Kỳ Hòa như bị cô hút hồn. Ngay ngày hôm sau, Hòa ra Thủy tạ và được Yến nhận lời: Sau giờ làm việc tối nay, anh đưa Yến đi dạo.

Hòa đã chở Yến lên đê Yên Phụ. Độ ấy, sông Hồng đầy ắp nước đang đe dọa những đoạn đê xung yếu. Đêm ấy họ cuồng nhiệt hòa quyện vào nhau! Tình yêu sét đánh là thế! Từ đó, Hòa thường xuyên ra nhà hàng Thủy tạ, anh không còn phải xếp hàng nữa! Một bên là mặt hồ long lanh mây trời, in hình tháp Bút, đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, một bên là… Hải Yến, ngực bánh dầy mông dưa hấu, cổ cao ba ngấn trắng ngần, cằm chẻ và giọng ngọt trong, như có men làm say lòng Hòa. Hòa thường ưa ngồi ở sân lộ thiên, bên chiếc bàn con sát mép tường ngăn với hồ. Hòa ngồi đó, lặng lẽ ngắm em thoăn thoắt phục vụ khách hàng, chiếc quần phíp ống nhỏ, cộc hẫng cộc hờ khi em bước đi, hai gót chân như có cánh, phô ra cặp giò dài và thẳng, mông tròn và cong… Hòa lặng lẽ chiêm ngưỡng cho đến khi nhà hàng đóng cửa, anh đưa Yến lên đê Yên Phụ hoặc ra công viên hồ Bảy Mẫu… Có nhiều đêm đang yêu nhau thì trời đổ mưa rào, mưa ngoài Bắc dai như đỉa. Cả hai ướt như chuột lột cứ sùng sục trong chiếc áo mưa nhà binh. Kệ. Càng lạnh yêu nhau càng đậm đà, càng thú vị… Sáng chủ nhật, Hòa tới điểm hẹn, đèo Yến trên chiếc xe đạp Điamăng do Đông Đức sản xuất. Thời ấy, sỹ quan quân đội từ thiếu tá trở lên, còn cấp úy thì ưu tiên miền Nam tập kết, mới được phân phối loại xe này! Họ đi ăn phở, phở ngon và rẻ: ba hào một bát, rồi tới công viên Thống Nhất ngồi bên nhau, nhâm nhi cái kẹo dồi* và kể cho nhau nghe chuyện miền Nam, chuyện hát quan họ, hội Lim… Một cuộc tình đầy thơ mộng trong không khí sục sôi chống Mỹ, mỗi người làm việc bằng hai chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Kẹo dồi: Một loại kẹo gồm mạch nha và lạc (đậu phộng) cuốn tròn như khúc dồi (lòng), bên ngoài bao một lớp áo mỏng bằng bột nếp, nhai giòn tan và thơm ngon, rất hợp với nước trà móc câu Đại Từ Thái Nguyên.

Đơn vị đứng ra làm đám cưới cho hai người. Họ có con trai đầu lòng. Hòa đi B, Yến sanh Phương Nam năm Kỷ Dậu, một mình nuôi con, chờ chồng…

… Tiếng là ra Hà Nội nhưng thực ra ông Hòa chỉ ở bên bà Yến được đúng năm ngày. Thời gian còn lại ông đi đâu, làm gì? Ở Sài Gòn, bà Lịch vừa giận ông, vừa đau đáu nhớ thương ông, và tất nhiên, máu Hoạn Thư tưởng như đã tắt từ thuở nào nay lại trỗi dậy vô cùng dữ dội. Thế rồi, chính bà Yến chứ không phải ai khác đã thường xuyên thông tin cho bà Lịch về chương trình đi thăm thú các nơi của ông đại tá. Bà Lịch chả còn cớ gì để ghen khi mà cứ đi tới đâu, ông Hòa lại điện thoại về nói chuyện với cụ Nguyễn và với con gái rượu! Từ Sài Gòn bay ra Hà Nội, ông Hòa ở nhà hai ngày để… ngủ! Ông ngủ như chết, bà Yến lay gọi cách nào ông cũng không thể mở mắt. Suốt cả tháng trời, vì thằng cháu mất dạy, ông đã trắng đêm. Mắt thâm quầng, má hóp, da tái xám, ông mà vác cái mặt như vầy đi đây đi đó để bạn bè họ cười cho thối mũi chứ chơi à. Ở trên máy bay ông nghĩ thế và ông đã quyết định là phải ngủ liền tù tì một tuần cho lại sức rồi thì đi ngao du sơn thủy cho nó thanh cái tâm. Bà Yến nấu cháo cá quả thì là cho ông ăn. Nồi cháo hâm đi hâm lại ba lần, ông vẫn ngủ vùi. Rồi cháo tim gan, tôm he hấp bia, rồi canh cua rau đay mồng tơi mướp ăn với cà pháo chấm mắm tôm, rồi ốc thả lá gừng, ốc hấp thuốc bắc, chả cá Lã Vọng, cá song hấp nấm, gừng… tùm lum đồ ăn ngon, khoái khẩu một thời của đại tá Hòa. Vậy mà ông ngủ li bì đúng hai ngày hai đêm. Đến mười giờ sáng ngày thứ ba ông thức dậy, và ông ăn. Có lẽ chưa bao giờ ông đói ngấu và ăn khỏe như hùm beo vậy! Ông ăn gì cũng thấy ngon! Ông ăn suốt ngày hôm đó, vừa ăn vừa kể cho bà Yến nghe chuyện thằng Thăng, chuyện cãi cọ với bà Lịch, chuyện bán đất mà có nhà, rồi chuyện xây lại nhà Hàm Nghi, chuẩn bị làm lễ đại thượng thọ cho cha… Ông không để cho bà Yến kịp hỏi, kịp nói câu nào. Bà Yến chỉ có việc đi chợ, nấu ăn, nhìn ông ăn, và nghe ông nói. Ngủ đêm thứ ba ở Hà Nội, sáng sớm ngày thứ tư, một ông đại tá đang làm ở Bộ Tổng Tham mưu đưa ông đi Hải Dương thăm đền Kiếp Bạc, Côn Sơn. Kế đó ông đi Hải Phòng và lên Yên Tử, rồi xuống Hạ Long. Ông nghỉ ở Bãi Cháy ba đêm, đi thăm các đảo vùng Đông Bắc. Ông ra Móng Cái, tắm biển Mũi Ngọc, sang Đông Hưng (Trung Quốc) chơi một ngày, ngủ một đêm, rồi từ Móng Cái đi theo đường biên ngược lên Cao Bằng, về Lạng Sơn, lại tạt sang Bằng Tường (Trung Quốc) chơi hai ngày. Về lại Lạng Sơn, ông đi Sa Pa, lên Điện Biên Phủ, phóc sang Vân Nam. Xuôi Hà Nội, ông không về với bà Yến mà đi thẳng lên Hòa Bình, coi cái thủy điện Sông Đà nó ra răng mà người ta ca nó nhiều rứa. Ông ngủ một đêm với mấy ông bạn ở tỉnh đội Hòa Bình, uống rượu cần tại một bản Mường dưới chân dốc Cun, uống thâu đêm, uống chay, vừa uống vừa dán mắt vào ngực và mông mấy cô gái Mường làm du lịch… Từ Hòa Bình, ông về Hà Tây đi một loạt chùa: chùa Đậu, chùa Trầm, chùa Trăm Gian, chùa Thầy, chùa Tây Phương. Từ Hà Đ?