- VI - TRONG SA MẠC
NHỮNG êm dịu thế kia chúng tôi không được phép hưởng thụ. Hằng tuần, hằng tháng, hằng năm, làm thân phi công trên độ đường Sahara, chúng tôi hãm thân mình trong cát, di chuyển từ lũy này sang lũy kia không về. Sa mạc này tuyệt nhiên không có những bóng xanh tương tợ: vườn cây thiếu nữ, là chuyện hoang đường. Cố nhiên, phương trời xa, nơi chúng tôi sẽ quay về ngày sau, lúc xong phận sự, có hàng ngàn thiếu nữ chờ đón chúng tôi. Cố nhiên, nơi xa ấy, ngày ngày nó rỡn với chồn hôi hoặc đọc sách, những thiếu nữ đó đương kiên nhẫn sửa sang linh hồn cho dịu ngọt. Lẽ cố nhiên họ lộng lẫy thêm ra...
Nhưng tôi biết cảnh cô đơn. Ba năm lăn lộn trong sa mạc, té ra tôi đã quen mùi. Ở đây, ta không lo sợ tuổi xuân tàn tạ trong sa thạch khô khan. Ở đây ta lại thấy rằng ở xa ta, chính trần gian đương già cỗi. Cây cối đâm hoa kết trái, đất đai đã nảy nở lúa vàng, phụ nữ đã tới kỳ kiều diễm. Nhưng mùa chuyển nhanh, phải về vội vã... Nhưng mùa chuyển gấp, mà ta còn bận bịu nơi xa... Và những của quý trần gian cứ lọt qua kẽ tay như cát mịn cồn gò.
Thời gian trôi, trôi mãi, nhưng con người thường không lưu tâm nhận thấy. Họ sống trong yên bình tạm bợ. Nhưng bỗng nhiên chúng tôi nhận thấy điều đó một lần hạ cánh xuống trạm nghỉ, gặp trận gió tây liên miên thổi tới. Chúng tôi giống như người đi tàu lửa tốc hành, tai nghe ầm ầm tiếng bánh sắt nghiến trong đêm tối, mắt nhìn những ánh đèn loáng thoáng vung vải bên kia miếng kính cửa tàu nối đuôi nhau chạy giật lùi, mà hình dung những cánh đồng lai láng, những thôn xóm êm đềm, những cõi miền huyền ảo mà mình chẳng cầm giữ được chút gì, vì còn bận chuyến đi. Chúng tôi cũng vậy, lòng còn bận rộn, tai còn ù vì tiếng động lúc đang bay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy mình đang xê dịch trên dặm đường, mặc dù hiện đang đứng bình yên nơi trạm nghỉ. Chúng tôi cảm thấy mình cũng đương bị cuốn hút về một cõi tương lai vô định, xuyên qua ý gió, bởi nhịp động của máu tim.
Mối bất hòa ở vùng phiến loạn càng xui sa mạc heo hút thêm. Những đêm dài tại Cap Juby, cứ mười lăm phút lại nghe tiếng hú của bọn lính gác gọi nhau vọng từ điếm canh này sang điếm canh khác, khẩu hiệu cầm canh dóng dả từng hồi như chuông đồng hồ điểm. Pháo đài Tây Ban Nha ở Cap Juby nằm sâu trong vùng phiến loạn. Họ cần phải làm thế để phòng ngừa những hăm dọa vô hình, những hiểm nguy không phô khuôn mặt. Và chúng tôi, những du khách trên chuyến tàu mù tăm ấy, chúng tôi lắng nghe tiếng hú từ xa lại, lớn dần, lớn mãi, và vây bọc chúng tôi như đường vòng bay của hải điểu.
Tuy thế mặc dù, chúng tôi đã yêu sa mạc.
Nếu ban sơ sa mạc chỉ tà trống không và vắng lặng, ấy bởi vì nó không chịu hiến thân cho cuộc trăng gió một ngày. Một thôn làng đơn sơ ở xứ mình cũng đã ngại ngùng nép mặt. Nếu ta không vì nó mà từ bỏ những thứ khác bên ngoài, nếu ta không chịu vào trong thói nhà phỉ phong truyền thống nó, không chịu theo tập tục của nó, không chịu chia xẻ những cạnh tranh, những kháng cự giữ giàng gieo thoi của nó, chúng ta sẽ hoàn toàn chẳng biết chút gì về cái cõi quê hương mà thôn làng đó tạo lập riêng cho một vài người. Phải thế chăng? Cách ta vài bước, một kẻ sống ẩn thân trong tu viện, sống theo những quy tắc, lề lối xa lạ với ta, kẻ đó quả thật cách biệt ta hơn mười vạn hoang vắng quan san, trong một cõi xa xôi không phi cơ nào bay tới được. Ta tìm viếng thăm chi trong hang của họ. Nó rỗng không. Vũ trụ con người ta là vũ trụ nội tại. Sa mạc cũng vậy, sa mạc không phải chỉ là cát, chỉ là dân Touareg hoặc người Maure, cho dầu Maure có súng, cho dẫu Touareg có nông.
Nhưng chính bữa nay, chúng tôi vừa trải qua một trận khát. Và cái giếng chúng tôi đã từng biết từ lâu, chính bữa nay, riêng bữa nay thôi, chúng tôi mới thật khám phá thấy nó rạng tỏa mênh mông. Một người đàn bà vô hình cũng có thể gây man mác đầm ấm cho khắm một căn nhà. Một cái giếng cũng vang xa rào rạt, như tình yêu vậy.
Cát ban sơ vốn là hoang vắng. Rồi một ngày lo sợ một trận giặc cướp tới gần; chúng ta đọc trên cát những nếp gấp của tấm áo bao la mà hiểm họa đã tự phủ lên thân mình. Giặc cướp đã biến dạng cát.
Chúng tôi chấp thuận luật tắc của cuộc chơi. Cuộc chơi rèn luyện chúng tôi theo hình ảnh nó, Sa mạc, chính tại lòng ta là nơi nó biểu hiện. Ghé bờ sa mạc là gì? Không phải là vào viếng thăm ốc đảo. Ghé bờ sa mạc là: sùng mộ nguồn nước giếng như một tôn giáo thiêng liêng,
2
Ngay chuyến bay đầu tiên, tôi đã bén mùi sa mạc. Chúng tôi ba người, hai bạn Riguelle.
Guillaumet và tôi, rơi sát cạnh đồn binh Nouatchott. Cái đồn nhỏ này ở Mauritanie, thuở đó cô lập như một đảo nhỏ đơn chiếc lạc hồn trong dặm biển. Một người đội già sống biệt lập nơi đây với mười lăm bác da đen Sénégalais. Họ tiếp chúng tôi như tiếp sứ giả nhà trời.
— A! Được nói chuyện với các anh, thật đáng nên cái đời một cách! Cảm kích lắm. Cảm động, lắm.
Viên đội cảm động thật: ông ta khóc.
— Ròng rã sáu tháng nay, các anh là những người thứ nhất tới đây. Sáu tháng một lần, người ta tải lương thực tới cho tôi. Khi thì trung úy, khi thì đại úy. Lần sau cùng, chính là đại úy...
Chúng tôi thì còn đang bàng hoàng. Dakar còn cách hai giờ đường, bữa ăn trưa chờ chúng tôi tại đó, một cái trục long đi, và con người ta cũng đổi luôn định mệnh. Chúng tôi trở thành những thiên thần hiện xuống bên viên đội già đang khóc như mưa giông.
— Này! các anh uống đi chứ. Mời rượu các anh, lòng tôi vui quá. Các anh nghĩ xem! Lần đại úy tới đây, tôi chẳng có một giọt rượu nào để mời ngài xơi cả đó.
Tôi ghi chuyện này vào trong một cuốn sách nhưng là chuyện thực, chớ không phải chuyện tiểu thuyết. Viên đội già bảo chúng tôi:
-Lần đó tôi không nâng ly chạm cốc được…Tôi xấu hổ quá nên phải xin đổi đi nơi khác.
Chạm cốc! Chạm mạnh một cốc với một người kia từ trên lưng con lạc đà phóng xuống, nhễ nhại mồ hôi. Suốt sáu tháng tròn, sống là cốt đón chờ cái phút đó. Từ một tháng nay, người ta lau chùi võ khí, quét dọn sạch sẽ lũy hào. Và từ mấỵ hôm nay, bén mùi đánh hơi, biết là ngày vui sắp lại, người ta leo lên từng cao để trông chừng về cái phía chân trời, liên miên nhìn không biết mỏi, ngóng chờ xuất hiện cái đám bụi tung lên và cuộn tròn trong đó đội quân di động từ Atar phi về…
Nhưng rượu hết rồi. Hết rượu rồi thì người ta không thể đón mừng ngày hội. Người ta không chạm cốc. Người ta thấy mình mất hết thanh danh. Đời mà đến thế thời thôi. Giờ mong đợi cũng là giờ bỏ đi...
— Tôi nóng lòng chờ đại úy trở lại: Tôi nóng lòng chờ...
— Ông ta hiện đang ở đâu, thầy đội?
Viên đội đưa tay chỉ vào trong cát rộng:
— Làm sao mà biết. Đại úy thì ở khắp nơi.
Đêm hôm ấy cũng là đêm thật, cái đêm chúng tôi nằm khoèo trên chóp lũy mà bàn chuyện ngàn sao. Không còn trông với đám bụi nữa. Ngàn sao ở đó, đầy đủ sa số hăng hà, như lúc lái phi cơ, nhưng bây giờ đứng im mà vằng vặc.
Ngồi trên phi cơ những đêm trời đẹp quá, người ta lơ đãng bỏ rơi tay lái, và chiếc phi cơ nghiêng dần về phía tả. Tưởng nó vẫn ngay ngắn như thưòng lệ bay đi, bỗng nhiên người ta chợt ngó thấy một khu làng khang tịnh, khinh khiêu ở dưới cánh phi cơ phía tay phải. Nhưng trong sa mạc không có khu làng. Ắt phải là khu vực của đoàn tàu đánh cá dặm khơi. Dặm khơi nào? Vây bọc Sahara, không có khu vực đoàn tàu dặm khơi chài cá. Vậy thì? Vậy thì người ta đành mỉm cười chuyện nhầm lẫn lộn xộn. Và dịu dàng, xin sửa lại đường bay. Và khu làng ban sơ lại trở về đúng nguyên vị trí. Hồng nhan được trả lại gốc phần. Ta giao lại cho nền trời, chòm sao ta vừa để cho rụng xuống.
Khu làng ư? Vâng. Khu làng khang tịnh ạ. Khu làng tinh tú, xóm tịnh ngàn sao. Nhưng trên chóp đồn nhỏ, trông lên chỉ còn như một sa mạc giá băng, như tê cóng, như những đợt sóng cát im lìm. Những chòm sao gắn chặt ở vòm trời. Viên đội già bảo:
— Này nhé! Tôi thạo phương hướng lắm. Nhắm thẳng theo vì sao này, là thẳng tiến tới Tunis.
— Thầy quê ở Tunis chắc?
— Không. Cô em họ tôi ở đấy.
Im lặng kéo dài rất lâu. Nhưng viên đội không dám dấu chúng tôi một diều gì cả:
— Rồi thế nào cũng có ngày tôi đi Tunis.
Vâng, đi Tunis bằng một con đường khác chứ không phải nhắm thẳng lên vì sao kia. Trừ phi, trong một cuộc hành trình nào đó, một nguồn giếng cạn không bất ngờ xô ông vào cõi mộng bấn loạn của tình điên. Tới lúc đó, thì cả ngôi sao, và cô em họ, và phố Tunis, sẽ hòa chung một trận. Tới khi đó là khởi đầu cuộc viễn du lai láng thần và tiên, mà người phàm vốn tưởng là đau xót.
— Đã có lần tôi xin Đại úy cho phép về Tunis. Thăm ngườị em họ gái. Nhưng đại úy trả lời rằng...
— Trả lời rằng sao?
— Trả lời rằng: ‘‘Trong thế gian còn chứa đầy biết bao là cô em họ gái’’. Rồi vì muốn chỉ vẽ lối gần, đại úy cho tôi đi Dakar.
— Cô ấy đẹp chứ? cô em họ thầy?
— Cô em họ ở Tunis? Quyết nhiên là đẹp. Cô ta tóc vàng lơ.
— Cô ở Dakar hẳn là chịu sút?
Thầy đội ơi, tôi chỉ muốn ôm hôn thầy vì câu trả lời nửa sầu nửa hận.
— Cô ấy vốn người da đen... chiêm bao bờ cỏ...
Sa mạc của thầy rồi? phải thế ru? Hay cũng một Thần Linh thiên thu về gọi? Hay cũng là nguồn dịu ngọt trong suối tóc hồng vàng và đìu hiu thân thể của cô em họ xa vời, dặm nghìn nước thẳm ở cách thầy năm nghìn cây số sa mạc bên kia?
Còn sa mạc chúng tôi? Là nhưng gì nảy nở ở trong tôi. Những gì chúng tôi hiểu biết về chính chúng tôi. Trong đêm ấy bọn chúng tôi cũng tha thiết yêu thầm một người em họ gái và một vị quan ba.
3
Ở sát bờ những vùng phiến loạn, Port-Étienne không phải là một thành phố. Một cái lũy, một căn nhà chứa phi cơ, và một cái trại bằng ván gỗ làm nơi tạm trú cho bọn phi công chúng tôi. Sa mạc ở chung quanh trùng điệp điệp, vì vậy cho nên mặc dù Port Étienne không dồi dào quân khí, nó vẫn là một địa điểm rất khó tranh cường mà thủ thắng. Muốn tấn công nó phải vượt qua một dãi cát và lửa bát ngát, cho nên bọn loạn quân tiến vào tới nơi thì đã kiệt lực, sau khi đã cạn sạch hết bao nhiêu lương thực và nước súc trữ. Tuy nhiên từ các vùng phương Bắc lại, thường vẫn có một đội loạn quân tiến về phía Port Étienne. Mỗi lần vị đại úy toàn quyền tới thăm chúng tôi và uống một tuần trà, ông mở địa đồ ra và vạch cho chúng tôi nhìn xem con đường tiến tới của bon loạn quân, như kể chúng tôi nghe chuyện một Công Chúa nào xưa trong cổ tích. Nhưng đám loạn quân không bao giờ tới đích, họ bị cát ăn mòn hút cạn như hút nước một giòng sông, và chúng tôi gọi họ là loạn quân ma. Mớ đạn nhà cầm quyền cho chúng tôi mỗi đêm vẫn nằm yên ổn ở dưới chân giường, trong thùng chứa. Và chúng tôi chẳng có địch thủ nào để đấu chọi, ngoài sự chiến đấu với vắng vẻ. Chúng tôi chẳng có gì che chở ngoài sự che chở bảo đảm nhất, là nỗi cùng khốn của mình. Và Lucas, chỉ huy sân bay, chỉ biết có ngày đêm liên miên vặn máy hát. Và vì ở xa vắng quá đối với cuộc đời, máy hát phát những âm thanh nghe chừng như ngôn ngữ lạ, và gây một mối sầu vô cớ, sao lại giống lạ lùng mối u sầu những khi khát nước dưới trời xanh.
Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong lũy, vị đại úy toàn quyền mời chúng tôi thưởng ngoạn thửa vườn ông. Ông đã nhận được từ Pháp gửi sang, ba thùng đất đã vượt bốn nghìn cây số để tới đây. Trên đám đất ấy bây giờ đã mọc ba chiếc lá xanh, chúng tôi đưa ngón tay mân mê như mân mê những hòn ngọc. Nói tới đó, vị đại úy bảo: ‘‘Thửa vườn của tôi đó’’. Và mỗi khi gió cát thổi qua, thổi cháy hết vạn vật, thì người ta mang thửa vườn đi dấu kỹ ở dưới hầm.
Chúng tôi ở cách pháo đài một cây số, lúc ăn xong, chúng tôi quay trở về, đi dưới bóng trăng. Dưới bóng trăng, cát điểm màu hồng. Chúng tôi cảm thấy mình xác xơ, nhưng cát điểm màu hồng. Nhưng một tiếng gọi của lính canh bỗng xô bi thống vào giữa cõi miền. Đó là toàn bãi Sahara đang rùng mình nhìn thấy bóng chúng tôi, Và lên tiếng hỏi, và một đám loạn quân cũng đương tiến về.
Trong tiếng kêu của người lính canh, tất cả mọi thanh âm của sa mạc vang dội về một lúc. Sa mạc không còn là một ngôi nhà vắng: một đoàn người Maure truyền từ khí cho đêm trường.
Chúng tôi có thể tưởng mình được yên lành. Thế nhưng! Bệnh tật, tai nạn, loạn quân, bao nhiêu hăm dọa đương lò dò bước tới! Con người là cái đích trên mặt đất để cho những cung tên ẩn kín bắn tới. Và người lính canh da đen vừa nhắc lại điều đó, như một tiên tri.
Chúng tôi đáp: ‘‘Chúng tôi người Pháp!’’ và bước qua trước các vị thiên thần da đen. Và hô hấp dễ chịu hơn. Mối hăm dọa kia đem lại cho chúng tôi một niềm cao nhã. Ô còn xa lắm lắm, chẳng cấp bách gì, còn bị ngăn chặn hòa hoãn bởi cát bãi mênh mông ; nhưng thế giới không còn như trước. Sa mạc đã trở thành lộng lẫy xiết bao. Một đội loạn quân cất bước đi đâu đó, dẫu không bao giờ tới được tại đây, đã đem về cho sa mạc một thần tính thiêng liêng.
Bây giờ đã mười một giờ đêm. Lucas từ máy vô tuyến đến cho tôi hay là phi cơ Dakar sẽ tới lúc nửa đêm. Trên tàu vô sự. Mười hai giờ mười, thư từ trên tàu đó sẽ chuyển sang xong xuôi tại tàu tôi,và tôi sẽ cất cánh về phương Bắc. Trước tấm gương sứt mẻ, tôi chăm chú cạo râu. Thỉnh thoảng, giữ nguyên khăn choàng cổ, tôi bước lại bên cửa nhìn ra mặt cát bên ngoài. Trời tốt nhưng gió đã ngừng thổi. Tôi trở lại bên tấm gương Tôi suy nghĩ mông lung. Một thứ gió thổi, thổi cho hằng tháng, nếu bỗng dưng mà ngừng, ắt phải làm rộn cả thinh không, Bây giờ, tôi đeo vào người: các thứ đèn cứu cấp đeo vào nịt lưng, máy đo độ cao, bút chì. Tôi đi tìm Néri, anh bạn vô tuyến tối nay trên tàu. Anh cũng đương cạo râu. Tôi hỏi. ‘‘Không sao?’’ Lúc này, vâng, mọi sự không sao. Công việc soạn sửa này là công việc ít khó nhọc nhất của chuyến bay. Nhưng tôi nghe một tiếng sè sè, một con chuồn chuồn sa mạnh vào chiếc đèn bấm ở nịt lưng. Không hiểu sao, nó làm tôi nao dạ.
Tôi ra ngoài nhìn: cánh vạt trong suốt. Một mô đất bọc sân bay nổi bật trên nền trời, như giữa ban ngày vậy. Trên sa mạc, bầu không khí vắng vẻ yên tịnh bao trùm, Nhưng khi đó, hai con chuồn chuồn và một con bướm lục chạm đầu vào đèn bấm của tôi. Một lần nữa, tôi cảm thấy nao lòng, một nỗi gì khó hiểu, có lẽ là niềm vui, có lẽ là lo sợ từ đáy thẳm trổi dậy, còn rất mơ hồ, nhưng khe khẽ báo hiệu. Kẻ nào từ xa lắm đang nói gì với tôi. Phải là linh tính chăng. Tôi lại bước ra: gió vẫn ngừng hẳn. Trời vẫn mát dịu. Nhưng tôi đã đón nhận lời khuyến cáo. Tôi đoán chừng, tôi tưởng đoán ra điều tôi chờ đợi, đúng chăng ru? Cả bầu trời, cả mặt cát, cùng không cho tôi dấu hiệu gì. Nhưng hai con chuồn chuồn đã lên lời, và một con bướm lục.
Tôi trèo lên một đụn cát, và ngồi hướng mắt về phía Đông. Nếu tôi đoán không lầm, thì ‘‘cái đó’’ chẳng còn chậm mấy đâu. Hai con chuồn chuồn kia tới đây tìm gì? Từ những cụm cây xanh giữa sa mạc, vượt hàng trăm cây số, tới đây tìm gì?
Những mảnh nhỏ dạt vào bờ biển, báo cho biết rằng bão tố đương nổi cơn cuồng nộ ngoài khơi. Thì mấy con côn trùng này cũng nói cho tôi biết rằng một trận bão cát đương lên đường; một trận bão cát dậy từ phương Đông, đã xô đuổi ra khỏi những bãi kè bao nhiêu đời bướm lục ;Bọt bèo của giông bão đã bay tới chạm vào tôi và, trầm trọng vô cùng vì đó là hăm dọa lớn lao. Và trầm trọng vô cùng vì nó chứa trong mình một cơn bão tố. Gió Đông đang giậy đây rồi. Cơn gió xa xôi, tôi ở đây đón chút hơi thở nhẹ. Sóng động nghìn trùng, tôi ở đây là điểm tận đợt sóng trào qua. Hai mươi thước phía sau tôi, không một sợi tơ nào run rẩy. Hơi nồng trận gió quyện lấy tôi một lần thôi, thoáng qua như chừng đã tắt. Nhưng tôi biết rằng phút giây sắp tới, Sahara sẽ giậy cơn lần nữa, và thở đợt thứ hai. Không tới ba phút nữa, thì con diều gió trên nóc mà chứa sẽ động mình phe phẩy. Và mười phút nữa, cát bãi sẽ tung trời. Chốc nữa tôi sẽ cất cánh trong biển lửa này, lửa này, lửa sa mạc sắp trở về thiêu nướng.
Nhưng đó không phải là điều kích động tôi. Điều xui tôi hứng thú tràn trào trong niềm vui man dại, ấy là đã thấu hiểu một ngôn ngữ bí mật qua một vài tiếng ngập ngừng, ấy là đã đánh hơi đuổi theo được một dấu vết, không khác chi con người thái cổ chỉ nghe qua những tiếng động âm thầm cũng đoán được cả tương lai đương báo hiệu, ấy là tôi đã đọc được cơn thịnh nộ của trời đất trong đôi cánh đập của một con chuồn chuồn.
4
Ở đó, chúng tôi đã từng liên lạc với những người Maures nghịch loạn. Từ những miền sâu sâu căm địa, họ mò ra những miền chúng tôi đã vượt qua bằng phi cơ; họ lần mò men tới tận lũy Juby hoặc Cisneros để mua bánh mì, đường hoặc chè uống, rồi quay trở về chìm trong bí mật của mình. Những lúc gặp họ chúng tôi có thử gắng cảm hóa một vài người.
Nếu là thủ lĩnh có ảnh hưởng quan hệ, đôi lúc chúng tôi chở họ lên phi cơ để chỉ cho họ xem cảnh tượng thế giới. Cũng là để đánh chìm lòng kiêu ngạo của họ. Bởi vi chúng tôi biết sở dĩ họ giết hại tù nhân, ấy không phải vì căm hờn, mà do lòng khinh bỉ. Gặp chúng tôi ở quanh quẩn đồn lũy, họ cũng chả thèm chưởi rủa. Họ chỉ quay mặt đi, và khạc nhổ. Lòng kiêu hãnh đó chính do ảo tưởng mình mạnh mà ra. Bao nhiêu người trong bọn họ, từng tổ chức được những đội quân ba trăm tay súng, đã nhiều lần bảo chúng tôi: ‘‘Nước Pháp các anh tốt phúc lắm vì ở xa chúng tôi hơn một trăm ngày đường’’.
Chúng tôi chở họ đi ngoạn cảnh, và thế là lần hồi đã có ba người sang viếng nước Pháp xa xôi. Họ thuộc dòng giống những kẻ một lần theo tôi sang Sénégal, đã khóc ầm như mưa lúc được nhìn cây cối lần đầu tiên trong đời.
Lúc gặp lại họ trong những căn lều vải, họ ca tụng mãi những rạp ca vũ với những đàn bà khỏa thân nhảy múa giữa hoa tươi, Đó là những người chưa bao giờ nhìn thấy một gốc cây, một cái lá cỏ, một mạch nước giếng, một đóa hồng, họ chỉ biết, qua kinh thánh Coran, là có những khu vườn và khe suối chảy, đó là tên họ gọi cảnh Thiên Đường. Thiên Đường ấy và những nàng Tiên diễm lệ trong đó, sẽ mở cửa đón mời người ta, người ta sẽ nhận phần thưởng đó bằng cái chết xót xa trên cát quạnh do phát đạn của người ngoại đạo, sáu ba mươi năm gian khổ khốn cùng. Nhưng Thượng Đế cho người Pháp hưởng mọi hoan lạc kia mà chẳng đòi hỏi gì hết ; không cần phải trả bằng đói khát, không cần phải trả bằng cái chết điêu linh. Thế nên chỉ bây giờ họ mơ tưởng, họ mơ tưởng mãi, những tù trưởng già... Thế nên chi bây giờ nhìn ra bốn xung quanh căn lều vải, thấy sa mạc điệp trùng, họ ngao ngán nghĩ rằng cho tới mãn đời mình, giải Sahara chỉ hứa hẹn những lạc thú quá mong manh, họ ngậm ngùi thả cái linh hồn buông ra câu tâm sự.
— Này này... Thượng Đế của người Pháp... Thượng Đế của người Pháp rộng rãi với người Pháp hơn là Thượng Đế của người Maure đối với người Maures!
Vài tuần trước đấy, họ đã được đưa đi viếng vùng Savoie. Người dẫn đường đưa họ tới trước một thác nước mạnh, đổ xuống xoáy tít ì ầm.
Người ta bảo họ:
— Các ông uống thử đi.
Và thấy là nước ngọt. Nước! Tại quê hương họ, muốn tìm tới một cái giếng gần nhất, phải tốn bao nhiêu ngày đường, và nếu tìm ra, còn phải mất bao nhiêu thì giờ đào cho xong lớp cát lấp ngang miệng giếng, mới bắt gặp mớ bùn lầy pha lẫn nước tiểu lạc đà! Nước! Ở Cap Juby, ở Cisneros, ở Port-Étienne, bọn trẻ con người Maure không xin tiền bạc, chúng chìa hộp thiếc ra đề xin chút nước:
— Cho xin chút nước, cho xin...
— Nếu mày ngoan.
Nước quý hơn vàng, mỗi giọt tí hon cũng đủ làm nảy lên tia lóe xanh lục của ngọn cỏ giữa bãi cát khô khan. Mỗi khi có trận mưa đâu đó, người ta đổ xô nhau tìm tới. Sa mạc rộn ràng. Từng bộ lạc kéo nhau đi tìm ngọn cỏ sẽ mọc nơi nào, cách chừng ba trăm cây số xa kia.. Thứ nước đó hiếm hoi là thế, hẹp lượng vô cùng, từ mười năm nay chưa rơi một giọt xuống Port-Étienne, thứ nước đó bỗng ầm ỹ tuôn trào tại xứ xa kia, nghe như chừng bao nhiêu kho nước quý của trần gian bỗng tuôn ra từ một thùng nước vỡ.
— Ta đi xem nơi khác! Người dẫn đường bảo:
Nhưng họ không nhúc nhích.
— Cho chúng tôi nán lại chút nữa...
Họ yên lặng, đăm chiêu, không lời, không tiếng, trước cảnh bí mật trang nghiêm đang phơi bày cuồn cuộn. Cái thứ của lạ này, từ trong lòng núi ồ ạt đổ ra, đó là sự sống, đó là máu huyết con người. Chảy một giây thôi, cũng đủ cứu sống hàng bao nhiêu đoàn người đi trong sa mạc, khát nước như điên cuồng, liên miên đi mãi, lao mình vào giữa vô tận của những hồ nước muối và những chập chờn ảo tưởng mà thôi. Tại nơi đây, Thượng Đế hiển hiện: không lẽ gì ta đành quay lưng đi cho được. Thượng Đế mở rộng các bờ đập của ngài và tỏ rõ quyền uy cho thiên hạ thấy: ba người Maure đờ đẫn đứng im lìm.
— Các ông còn muốn xem chi nữa? Đi thôi...
— Phải chờ đã.
— Chờ gì?
— Chờ xong.
Họ muốn chờ cái lúc Thượng Đế mỏi, không còn hoang phí nữa. Thượng Để vốn người hà tiện, ngài mau ân hận lắm.
— Nhưng thác nước này chảy tự nghìn năm!...
Thế cho nên tối nay họ không muốn bàn bạc nhiều về thác nước. Vì có những phép lạ, mình nên tránh nói tới là hơn. Cũng nên tránh suy nghĩ tới quá nhiều, nếu suy nghĩ nhiều thì chẳng còn biết hiểu ra cái làm sao nữa. Suy nghĩ nhiều, e phải hoài nghi Thượng Đế mất thôi...
— Thượng Đế của người Pháp, anh thấy đó...
Nhưng tôi hiểu họ vô cùng, những bạn man di kia. Họ ngồi đấy, bàng hoàn trong niềm tin dao động, họ bối rối ngổn ngang, và từ đây nao núng sắp chịu quy phục rồi. Họ ước mơ được quân lương bộ Pháp tiếp tế lúa mạch cho, và được quân đội Pháp ở Sahara bảo đảm an ninh cho. Và một phen chịu quy thuận rồi, thế nào họ cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi vật chất.
Nhưng cả ba người đều thuộc dòng dõi El Mammoun, tù trưởng bọn Trarza. (Tôi e mình lầm lẫn tên ông).
Tôi có biết ông này thưở ông còn thần phục chúng ta. Ông được đặc biệt trọng đãì vì những ông trạng lập nên, ông trở nên giàu có vì được các vị thống đốc nâng đỡ, các bộ lạc kính nể ông những của cái thế gian dường như ông không thiếu một thức nào cả. Nhưng một đêm kia, không ai ngờ được, không một dấu hiệu gì báo trước, bỗng nhiên ông tàn sát các sĩ quan cùng đi với ông vào sa mạc, cướp hết lạc đà, súng ống, rồi chạy về tái hội với những bộ lạc chưa quy hàng.
Người ta gọi những sự nổi loạn thình lình như vậy là phản trắc-những cuộc đào vong vừa oanh liệt vừa tuyệt vọng, của một tù trưởng từ nay chịu lưu đày trong sa mạc; người ta gọi là phản trắc, chút vinh quang ngắn ngủi kia, nó sắp chìm tắt mất rồi như một đốm lửa tàn, lúc chạm phải đội quân di động từ Atar về. Và người ta ngạc nhiên trước những hành động điên rồ nọ.
Tuy nhiên câu chuyện của El Mammoun cũng là câu chuyện của nhiều người Ả Rập khác. Mỗi ngày người ta mỗi già thêm. Và khi trở về già, người ta suy gẫm. Rồi một đêm u buồn, chợt thấy mình đã phản bội chúa Hồi giáo, chợt thấy mình đã làm chuyện đê hèn, đã làm hoen ố bàn tay mình trong bàn tay người Thiên chúa giáo, lúc đưa tay ký kết bản đính ước một cuộc đổi trao, trong đó mình chịu thiệt thòi toàn diện.
Vì gẫm ra cho kỹ, lúa mì và hòa bình đối với ông nào có nghĩa lý gì... Chiến sĩ sa cơ biến thành mục phu lây lất, chợt não nùng hồi tưởng lại và nhớ ra xưa kia đã từng sống trong một giải Sahara bát ngát, mà mỗi một nếp cát mỗi chứa chan những hăm dọa ẩn dấu trong mình, mỗi một đồn quân đóng trại trong đêm sâu mỗi rập rình quân nhạc, lẩn quất những chòi với lính gác tuân phòng, nơi chốn của những tin đi, tín lại, tin về cấp báo những điều động của địch quân, nơi chốn của những quả tim nhảy phập phồng chung nhịp, quanh những ngọn lửa hồng đó rạng ban đêm. Đó là cái hương vị trùng khơi biển rộng, làm sao ai quên được, nếu một lần đã có nếm qua.
Chợt ngó lại bây giờ tấm thân lơ láo lạc loài, bước quẩn quanh trong một vùng yên định không còn một chút uy phong. Chính bây giờ, chỉ bây giờ thôi, giãi Sahara mới thật là sa mạc
Những sĩ quan mà ông sẽ giết, có lẽ ông vẫn tôn sùng. Nhưng tình thương Allah trên hết.
— Chúc ông ngon giấc, El Maminoun.
— Thượng Đế phù hộ cho ngài.
Những sĩ quan cuộn tròn trong chăn nệm, duỗi dài thân trên cát như trên một chiếc bè, ngửa mặt lên trời sao. Ngàn sao chầm chậm quay tròn, một vòm trời đương điểm giờ, trên đó... Đây vừng nguyệt chênh chênh trên cát bãi, được dìu về hư không do Chân Như dẫn dắt. Những người Thiên Chúa giáo sắp ngủ say rồi. Vài phút nữa thôi, trên vòm kia chỉ còn lại ngàn sao lấp lánh. Thì lúc đó muốn cho các cuộc chạy thi gan rượt đuổi cùng một lúc giấy lên cho tưng bừng cát bãi, thôi chỉ cần một chút xíu đưa tay thôi, chỉ cần cái tiếng kêu yêu ớt của những người Thiên chúa giáo bị bóp nghẹt hơi thở, bị nhận chìm hồn phách trong giấc ngủ của họ mê man... Chỉ vài giây nữa thôi, và từ sự vụ bất khả vãn hồi kia, một vũ trụ tân kỳ sẽ xuất hiện.
Và từ đó, những sĩ quan lộng lẫy ngủ ngon kia bị sát hại.
5
Hôm nay tại Juby, hai anh em Kemal và Mouyane mời tôi dự một tuần trà trong căn lều của họ. Mouyane lặng lẽ nhìn tôi: tấm mạng xanh kéo trùm kín miệng, Mouyane giữ một thái độ dè dặt man di. Chỉ Kemal ân cần tiếp chuyện, chén tạc chén thù:
— Lều vải, lạc đà, các vợ tôi và nữ tỳ của tôi đều là của ông cả đấy,
Mouyane mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi, nghiêng mình về phía anh hắn, ghé môi thì thầm vài tiếng rồi nín lặng,
— Anh ấy nói gì thế?
— Hắn bảo: ‘‘ Bonnafous đã cướp mất một nghìn con lạc đà của bọn R’ Gueibat’’.
Đại úy Bonnafous, sĩ quan lạc -đà-binh trong đội quân đóng tại Atar, tôi không quen biết ông ấy. Nhưng được biết tăm tiếng lỗi lạc của ông chấn động trong đám người Maure. Người Maure nói về ông với một niềm phẫn nộ, nhưng lại xem ông như một loại thần linh. Sự hiện diện của ông làm cho cát sa mạc trở thành ‘‘có hạng’’. Hôm nay ông lại vừa xuất hiện lần nữa, chẳng ai rõ bằng cách nào, mà lại đánh tập hậu bọn loạn quân đang tiến về phía Nam, và cướp mất hằng trăm con lạc đà của họ, buộc họ phải quay lưng chống trả, hầu có giải cứu những kho tàng từng được phòng giữ rất nghiêm, tưởng không lọt vào tay ai được, Và bây giờ khi đã giải cứu Atar bằng cách đột ngột xuất hiện của thiên thần thượng đẳng, khi đã đóng yên quân trên một gò đá vôi cao rộng, ông ngang nhiên đứng lầm lì trên đó, như khiêu khích thiên hạ bốn bề có giỏi thì tới ăn thua chơi, và hào quang ông chiếu tỏa tới độ nào mà thu hút các bộ lạc đua nhau kéo tới rùng rùng chịu chơi trước ngọn đoản kiếm của ông.
Monyane nhìn tôi khắc nghiệt hơn và nói nữa.
- Anh ấy nói gì?
Hắn bảo: ‘‘ Chúng tôi sáng mai sẽ đi đánh Bonnafous. Ba trăm cây súng’’
Tôi cũng đã đoán chừng ắt phải có chuyện chi đây. Từ ba hôm nay, những lạc đà được giắt tới giếng, từ ba hôm nay, những bàn tán gần xa, dằng dai chuyện vãn, những phấn khích nhiệt tình... Như soạn sữa sắp đặt lèo lái cho một chiếc thuyền vô hình nào đương rục rịch ra khơi. Và gió biển đã lên, đã rì rào bốn ngả, cơn gió nồng sắp dìu dập thổi căng buồm xô thuyền rẽ sóng ra đi. Chính bởi có Bonnafous mà mỗi bước tiến về Nam là mỗi bước lừng vang oanh liệt. Và tôi không còn biết biện biệt thế nào là yêu đương hay thù hận chứa chất trong những cuộc lên đường chinh phạt nhau kia.
Có một kẻ thù lộng lẫy dường ấy ở giữa trần gian để mà sát hại – còn gì tráng lệ cho bằng. Nơi nào y xuất hiện đột ngột là nơi đó các bộ lạc gần gũi vội vã tháo lều xếp gió, tập trung lạc đà phăng phăng chạy trốn, để tránh cuộc đối diện không lành, nhưng những bộ lạc ở xa thì lại choáng váng ngây ngất như ngất ngây trong cơn tình ái vậy. Người ta giũ áo lên đường, lìa bỏ đời sống yên vui trong lều vải, từ khước lạc thú ôm ấp vợ nồng da mịn lá, từ bỏ giấc ngủ tê mê, vì người ta chợt thấy: không có gì ở trần gian đáng giá cho bằng cái việc: sau hai tháng trời liên miên đi mãi, đi kiệt sức về Nam, chịu đói, chịu khát, chịu dừng chân thu hình lăn lóc chờ mong giữa gió cát lên cơn, rồi bất thình lình một sớm tinh sương được chạm trán với đội quân di dộng Atar và tại đó, nếu Trời Phật giúp cho, sẽ lấy đầu tên đại úy Bonafous một mẻ.
— Bonnafous mạnh tợn. Kemal thú thật với tôi.
Bây giờ tôi biết niềm riêng bí ẩn của họ rồi
Những gã đàn ông ao ước đàn bà, một diễm kiều phụ nữ, thôi thì liên miên mơ tưởng tới gót ngọc hờ hững dạ du, rồi thêu hoa dệt bướm, canh trường thao thức trằn qua trở lại, đau đớn xót xa, máu tim cháy bỏng từng cơn, nhịp theo gót chân đi hờ hửng, và hởi ôi! gót về hờ hững dội mãi vào cơn mộng mà hửng hờ tiếp tục đi mãi gót dạ du... Thì theo lối đó, bước chân xa xôi của Bonnafous cũng đang dày vò tâm linh họ. Đi bọc hậu những toán kiêu binh tới tấn công mình, cái vị chỉ huy theo Thiên Chúa giáo kia, ăn mặc theo lối người Maure cầm đầu hai trăm tên cướp người Maure, đã vào sâu trong nội địa của loạn quân, nơi mà tên thuộc hạ hạng tồi nhất của ông cũng rất có thể động cơn dấy loạn, trút bỏ nghiệp tôi đòi, mà không tội lỗi gì cả, vì đã thoát mọi ràng buộc của luật tắc người Pháp, nơi mà bọn bộ hạ rất có thể lén cắm vào lưng ông một nhát dao, hy sinh ông để tế Thần Linh của mình trước bàn thờ bằng đá, vâng ở chính nơi đó, chỉ tiếng uy phong của ông là kiềm chế họ, và ngay cả nhược điểm của ông cũng xui họ kinh hoàng. Và đêm nay, đi giữa giấc ngủ bọn họ với những cơn ngáy khò, ông vẫn hững hờ bước qua bước lại, và tiếng chân ông vang dội vào tới tận giữa lòng sa mạc hoang liêu.
Mouyane ngẫm nghĩ, trầm ngâm ở cuối căn lều, im lìm như một pho tượng bằng đá lục hoa cương. Chỉ hai con mắt là long lanh sòng sọc, và mũi dao bạc không còn là một thứ đồ chơi. Anh đã thay đổi xiết bao, kể từ ngày gia nhập kiêu binh! Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cao cả của mình như bửa hôm nay, anh nhìn tôi như muốn ép giập tôi dưới làn nhãn quan chứa đầy khinh bỉ; bởi vì anh sắp tìm tới Bonnafous để đọ tài, bình minh hôm sau anh sẽ lên đường, thôi thúc bởi một mối căm hờn mang đủ đầy những dấu hiệu yêu đương.
Một lần nữa, anh ghé vào tai người anh thì thầm, và đưa mắt ngó tôi.
— Anh ấy nói gì?
— Nó bảo sẽ bắn ông một phát, nếu gặp ông ở xa đồn lũy.
— Vì sao vậy?
— Nó bảo: ‘‘Ông có phi cơ, ông có vô tuyến, ông có Bonnafous nhưng ông không có chân lý’’.
Mouyane im lìm trong mớ khăn xanh trùm phủ, không nhúc nhích giữa những nếp gấp bất động như những lằn trên xiêm áo tượng đá, Mouyane đã phán xét tội trạng tôi:
— Hắn bảo: ‘‘Ông ăn rau hau háu giống như Dê Cái ăn rau, ông ăn thịt heo ngốn ngấu như heo nái ăn thịt heo Đàn bà xứ ông không biết xấu hổ, sỗ sàng phơi cái mặt mo ra’’: hắn có gặp cái loại đàn bà đó. Hắn bảo: ‘‘ Ông không cầu nguyện bao giờ’’, Hắn bảo ; ‘‘ Phi cơ của ông, vô tuyến của ông
Bonnafous của ông, có giúp ông nên cái tích sự gì nếu ông không có cái chân lý?’’
Và tôi phải chịu phục anh chàng Maure này. Anh không bảo vệ tự do anh, vì trong sa mạc bao giờ người ta cũng tự do, anh không bảo vệ những của cải, những kho tàng hữu hình nào cả, bởi vì sa mạc nó trống không, anh chỉ bảo vệ một sơn hà bí ẩn. Trong cỏi tịch liêu sóng cát, Bonnafous điều động đội quân mình như một tên hải tặc lịch duyệt, và nhờ gã đó mà chốn dừng chân đóng trại tại Cap Juby này bỗng dưng không còn là cõi cư trú cho bọn chăn nuôi nhàn rỗi. Giông bão Bonnafous xô về, đè nặng một bên hông, vì Bonnafous mà người ta phải thu hẹp lều vải mỗi đêm hôm. Vắng lặng cõi trời Nam. Ôi não lòng làm sao là cơn vắng lặng. Vắng lặng Bonnafous; do linh hồn Bonnafous thao túng! Và liệp hộ Mouyane, thiệp liệp giang hồ, đương im lìm lắng nghe Bonnafous dấn gót chân dội vào lòng gió.
Ngày sau Bonnafous sẽ trở về đất Pháp, thì quân thù của ông sẽ chẳng lấy thế làm mừng. Họ sẽ khóc: Ông bỏ đi đâu, ông đi rồi, thì sa mạc mất đi một từ-cực hấp dẫn, cuộc tồn sinh kẻ ở lại sẽ mất đi một sắc uy phong. Họ sẽ bảo tôi:
— Chớ bởi mần răng mà Bonnafous lại bỏ mà đi như rứa.
— Tôi đâu có biết đâu nào...
Ông đã đem cuộc tử sinh của mình ra liều giữa trận tiền tử sinh của họ, đằng đẳng bao năm. Đem luật tắc tồn sinh của họ làm luật tắc tồn sinh cho mình. Ông đã nằm ngủ nơi dây, gối đầu mình trên đá khô đất họ Trong cuộc triền miên đuổi bắt nhau dìu dặt, ông cũng như họ từng đã biết những đêm trường Kinh Thánh gồm toàn cát với gió với sao. Thế mà bỗng dưng ông dứt áo ra đi, như bảo chúng tôi biết rằng từ đấy tới nay ông không chơi một cuộc chơi cốt yếu. Ông ngẩt ngưởng rời bàn, vươn vai bỏ cuộc. Và những người Mure ở lại u buồn, cô đơn trong cuộc chơi dang dở, mất lòng tin ở một lẽ sống không còn đòi hỏi con người dấn thân tới kiệt tận máu xương mình. Nhưng họ vẫn muốn còn hoài vọng:
— Lão Bonnafous của ông ; lão sẽ còn trở lại.
— Tôi đâu có biết.
Lão sẽ còn trở lại, người Maure tin như thế. Những trò chơi của Âu Châu làm sao mà vừa lòng lão được. Những trò chơi của Âu Châu, những cuộc đánh bài lây lất, những quan giai lần lần, những đàn bà vỏ hến... không, không… những thứ đó không thể cầm chân lão ta mãi. Lão sẽ còn trở lại đây, cuộc sống hiên ngang vùng vẫy mất đi sẽ còn ám ảnh lão, nơi đây mỗi bước chân đi là mỗi khua động linh hồn, giục buồng tim nhảy, mỗi bước chân đi trên cát là mỗi bước chân về xứ sở của yêu đương. Lão ta tưởng nơi đây chỉ sống điệu lai rai phiêu bạt trăng gió vật vờ, lão ta tưởng về lại xứ kia mới là cõi bờ cốt yếu của tinh thể mờ mòng về để lọt mắt xanh, nhưng lão sẽ ngao ngán nhận thấy rằng những của quý chân chính, riêng chốn này là chỗ đã cung cấp hết cho lão ta, riêng sa mạc này là nơi lão ta đã sở hữu những kho tàng vô giá: cát bãi oai hùng, trời đêm hoang vắng, quê hương của gió; tổ quốc của ngày sao. Và nếu Bonnafous sẽ trở lại một ngày nào, thì tin tức kia, ngay đêm đầu tiên, sẽ tràn đi khắp nơi suốt vùng phiến loạn, Người Maure khắp mặt sẽ kháo với nhau rằng lão ta hiện đương nằm ngủ ngon giữa hai trăm tên cướp thuộc hạ, ở một nơi nào đâu đó trong bãi Sahara. Lão ta đương ngủ.. Tức thời thiên hạ sẽ khơi sự lặng thinh giắt lạc đà lại giếng Thiên hạ sẽ soạn sữa lương thực. Thiên hạ sẽ xem xét cẩn thận họng súng. Thôi thúc bởi cuồng nộ câm hờn kia, hoặc thiết tha ân tình nọ.
6
— Hãy lén chở tôi lên một chiếc phi cơ đi Marrakech... ‘‘Cho tôi thoáng cảm mùi nhang. Hình dung xa vắng cung đàn rồi thôi’’ — Hồ Dzếnh.
Hằng đêm tại Juby tên nô lệ người Maure kia vẫn nhắc nhở tôi lời khẩn cầu nọ. Sau đó, khi đã cố hết mình để được sống, lão ngồi xuống xếp bằng tròn và pha trà cho tôi. Thế là kể từ đó, lão thanh thản được trong một ngày, vì theo lão nghĩ; mình đã phó thác mình cho vị thầy thuốc duy nhất có thể chữa lành mình, đã khẩn cầu vị thần linh duy nhất có thể giải cứu mình. Từ đó nghiêng thân trên ấm nước, lão nghiền ngẫm lại những hình ảnh đơn giản của đời mình, những đồng đất đen miền Marrakech, những ngôi nhà hồng tươi, những của cải giản đơn mà lão đã bị người ta tước đoạt mất.
Tôi im lặng, lão không lấy thế làm phiền, lão không oán hận tôi sao lại trễ tràng không ban ngay đời sống cho gã; lão nghĩ rằng tôi không phải một người giống lão, mà ấy là một sức mạnh để thúc giục lên đường, để dịch sử tiến tới, một cái gì giống như một trận gió lành, sẽ thổi giậy một ngày, hiền hòa đưa đẩy định mệnh của Ião đi xuôi thuận.
Nhưng tôi, một phi công trơn trụi, tạm thời vài tháng làm chỉ huy sân bay tại Cap Juby, tất cả tài sản chỉ thu gọn trong một căn lều lơ láo tựa lưng vào thành lũy Tây Ban Nha, với một cái thau, một bình nước mặn, một cái giường quá hẹp bề dài, quá ngắn bề ngang, thì tôi lại không có chút ảo tưởng nào về quyền hành của mình mấy tỉ:
— Lão Bark ơi, việc ấy, rồi sẽ bàn tới sau.
Mọi người nô lê cùng mang tên Bark; vậy lão cũng tên là Bark. Nhưng mặc dù bị bắt đã bốn năm rồi, lão vẫn chưa đành chấp thuận lão nhớ rằng xưa kia mình đã từng là chúa.
— Hồi ở Marrakech lão làm chi?
Ở Marrakech, chắc vợ con lão bây giờ còn sống, lão đã từng làm cái nghề thật huy hoàng:
— Tôi chăm súc vật từng bầy, và tên tôi là Mohammed.
Các quan tổng trấn tại đó vẫn thường cho lính vời lão tới:
— Ta có một bầy bò muốn bán; Mohammed ạ. Lão vào trong núi lùa chúng ra đây.
Hoặc:
— Ta có một nghìn con cừu ở ngoài cánh đồng kia đó, lão còn mạnh giò thì đưa chúng lên đồi cao gặm cỏ.
Hoặc:
— Ta có một trăm con dê cái. Lão hãy đi tìm hộ con dê đực hoa cà về mà thả vào chuồng nọ cho ta.
Hoặc:
— Bầy cừu của ta hôm nay u buồn quá đổi. Như tuồng chúng nhung nhớ non thẳm rừng sâu. Lão hãy liều liệu lùa chúng lên dãy Nga My một chuyến luôn tiện lão cũng gặp dịp đổi gió một phen.
Và Bark, tay cầm một nhánh ô liêu như quân quyền vương trượng, uy nghiêm lên đường, thung dung điều khiển đàn súc vật, như một đấng anh tài có toàn quyền tiện nghi bát tiểu, việc ngoài đồng nhung... một mình đảm đương trọng trách việc cai quản cả trăm họ cừu xinh, sao cho chỉnh tề hàng ngũ, gò bớt bước chân con nào đi nhanh quá trớn làm nhọc bạn đồng hành phải yếu đương mang nặng và sắp đẻ đau, hoặc thôi thúc bước chân những con nào biếng nhác... Lão bước đi giữa trăm ngàn quả tim súc vật tòng phục tin yêu. Một mình lão định đoạt hành trình; một mình lão biết sẽ hướng về ‘‘ đất hứa’’ nơi nào; một mình, lão đóan ra bước đi trên dặm đường lúc đăm chiêu đọc hồng vàng tinh tú, thông trải ngọn ngành một khoa học tế vi, đâu có truyền thụ ra cho con cừu thiên quyên nào được ; một mình, quyết định lúc dừng chân, giờ nghỉ ngơi khu giải khát, thể theo niềm duyệt lịnh của mình. Và đêm về, một mình đứng nguy nga giữa đàn cừu yên ngủ, lão âu yếm nhìn, động lòng lân ái trước bao nổi khờ khạo, yếu đuối thơ ngây, lão im lìm, lông len ngập tới đầu gối, lão biến thành vị thầy, thuốc thời đại bách khoa, tiên tri hiền thánh, vương chúa uy quyền, đương nguyện cầu cho họ cù nguyễn ngủ ngon...
Một hôm, gặp bọn người Ả-Rập tới bảo;
— Theo chúng ta đi tìm súc vật phương Nam.
Người ta dắt lão đi thật lâu, và sau ba ngày, mò vào sâu trong một con đường núi hẽm ở sát cách vùng phiến loạn, người ta đơn sơ giơ bàn tay ra nắm lấy vai lão đổi tên lão ra Bark, và bán đứng lão đi trong cuộc cờ lác đác.
Tôi cũng quen biết nhiều người nô lệ khác.
Hằng ngày tôi tới uống trà trong những căn lều. Chân trần nằm duỗi dọc thân ra, trên một tấm thảm bằng len thượng hạng, đó là món xa xỉ của người du mục lưu ly. Nằm trên đó vài giờ cũng gọi là thiết lập cõị nhà cư lưu một buổi, nằm trên đó tôi lặng nghe ngày trời chuyển dịch. Trong sa mạc ta nhận ra cái dặt dìu trôi chảy của thời gian. Dưới cơn thiêu nướng cửa mặt trời, người ta cũng nghe mình đương bước tới chiều hôm, bước tới cõi gió xanh sẽ thổi, sẽ tắm gội hình hài và gội rửa mồ hôi. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, thú vật và người ta cùng rủ nhau một nhịp tiến về cái hồ giải khát lớn rộng đó của hóa công, tiến về đó cũng chắc chắn vững bền như tiến về cõi chết. Và như vậy, sự nhàn rỗi không bao giờ là nhàn rỗi uổng công. Nhàn rỗi là tỉ mỉ êm đềm bước đi bên ngày đẹp, và bất cứ ngày nào lại chả đẹp, như những con đường kiều diễm đưa tới bối rối trùng dương... Lân la tìm thú bên sông? Mầng lòng nghe nói sương đồng trở cơn.
Tôi quen biết họ, những người nô lệ ấy. Họ bước vào căn lều lúc thấy chủ mang từ trong hòm của cải ra nào lò, nào ấm nào ly cốc... từ trong cái hòm chứa đầy những ổ khóa vắng chìa, những chậu hoa, mà hoa nào đâu thấy bóng, những tấm gương ba xu, những binh khí củ kỹ, những thứ gì gì lạc lõng tới đây lửng lơ nhìn cát, kể thật cũng như dường những thứ của phá gia, chút oan gia bọt bèo thuyền đắm trôi giạt cập bờ.
Người nô lệ lặng yên cho củi khô cành héo vào lò, đổ nước vào ấm, phồng má thổi vào lửa nhúm nhen, chịu chơi một cách! Đem sức voi hùm di sơn dịch hải, để làm cái công việc của một gái choai choai, Đem gân cốt đại bàng lướt gió mà vin cành thùy liễu gợn tiểu khê. Chàng, vẫn giữ cơn yên vui tịch mịch. Chàng ta đâm ra bị cuốn hút trong làn du khoái cuộc chơi: pha trò, chăm sóc lạc đà, ăn cơm vào trong miệng. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, cứ đều đặn bước đi về chiều tối ; và dưới cơn băng giá của ngàn sao trơn trụi cứ mơ màng hoài vọng cái trận nướng của mặt trời thiêu. Hỡi những xứ miền phương Bắc! Các ngươi sướngg vô ngần đó, các ngươi biết chăng rủ. Trời của các ngươi là trời vần xoay tiết điệu, với nhịp mùa tuần tự kết liên mà tác thành cho ngày hè một hoang đường chiêm bao tuyết bạch, mà tác tựu cho đêm tàn đông lạnh một rộng rỡ mộng trời xanh! Mà tẻ sao là nhiệt đới! Nằm trong một lò hấp ngột chẳng thay qua, đổi lại chi nhiều. Mà sướng thay là vẫn giãi Sahara nầy với ngày đêm không ngớt, với đêm ngày cứ liên tục đơn sơ mà đánh nhịp đặt dùi cho hồn ai trở cơn lên xuống, tự hoài vọng nọ tới ước mong kia.
Đôi phen người da đen nô lệ, ngồi khoanh chân trên khoeo trước cửa, phơi linh hồn phiểu điểu trong làn gió hây hây. Hoàng hôn êm ái như ru. Lặng nghe dễ khiến thân tù tội mê. Nặng sao vòng hãm tư bề. Làn xanh kỷ niệm không về bãi hoang. Chỉ nghe hiu hắt đôi hàng. Phút giây ngày cũ pha càn. đòn đau. Kêu xin, nài nỉ nơi nào. Bàn tay ai đẩy tôi vào chốn đây? Từ đó tới nay? Kể từ những cú đấm túi bụi vào mình, quật mình nhào lăn vào trong đêm âm u hiện tại, kể từ giờ phút đó tới nay, anh chàng chìm thân trong giấc ngủ dị thường, mê sảng mơn man như phá mù hai mắt, đâu còn nhìn ra hình bóng những sông dài chậm chảy xứ Sénégal, đâu còn nhìn thấy màu trắng xóa của những phố thị Maroc phương Nam, mê sảng triền miên như tai ù, tai điếc, đâu còn nghe nữa những giọng nói quen thân. Anh bạn da đen, anh không đau khổ, khốn đốn, anh chỉ như tật nguyền. Một phen nhảy lọt vào vòng tồn sinh động hoạt của người du mục, kết chặt chẽ thân mình vào trong những cuộc xê dịch lưu ly, suốt đời cột da xương mình vào bàn chân vạch ngang vẽ dọc, xoay tròn, của bọn người kia hoạch định trên mặt cát, anh còn giữ lại được chi nữa những liên lạc từ nay với quá khứ, với gia đình, với một cô vợ và mấy đứa con, đối với anh giờ đây, mọi thứ kia đã chết không khác chi những người đã chết.
Có những kẻ lâu ngày sống trong tinh yêu lớn rộng, rồi chợt mất đi, bỗng đôi lúc chán chường niềm cô đơn cao nhã. Họ lai rai ghé lại bên đời, kiếm một tình yêu tầm thường, đem cọ vào làm hạnh phúc. Họ cảm thấy khoan khoái trong cuộc đầu hàng, quân vương xin thoái vị nhường ngồi, làm thân ty tiện, man mác làm sao là cái phận phiêu bồng bèo bọt, cơn gió vàng đưa đẩy cái mặn mà cát lũy vào trong vòng tĩnh mịch cỏ nội hoa hèn. Nô lệ hãnh kiêu bằng giàu sang của chủ. Hồn thục nữ bốc hơi nồng bên lượng cả bao dong, dẫu bao dong dẫn dắt về một Châu Thai buôn bán.
— Này này, uống đi, cho mày đấy. Thỉnh thoảng chủ bảo tớ như thế.
Đó lá cái giờ chủ ân cần với tớ, nhân vi sự nhọc mệt đã qua cơn, nhân vì trận nóng nướng thiêu đã tan dịu, nhân vì tớ thầy sát cánh bên nhau bước vào cõi trời chiều mát gió. Và chủ ban cho tớ một ngụm trà trong tách đẹp tay nâng. Và kẻ tội đồ đón lấy ly trà lưu ly từng giọt, lệ lưng tròng vì thâm tạ tri ân chĩu nặng, sẽ quỳ xuống mà hôn vào đầu gối hai chân của chủ. Kẻ nô lệ chẳng bao giờ bị đọa đày trong xiềng xích. Cần chi thế chứ! Hắn trung thành một cách! Hắn ngoan ngoãn cái cõi lòng hớn hở, khước bỏ trong thân phận mình một vua da đen mất ngôi là thế thế: hắn hài lòng vô hạn với cái phận bây giờ là một tên nô lệ lờ lững vui sướng xiết bao. Chiên đàng đốt tạng chiêm bao. Diệu Hoa lầu các đêm nào hóa sinh…
Tuy nhiên một ngày kia người ta sẽ phóng thích hắn. Ấy là lúc đã quá già, sức may mà xứng áo xứng cơm, thôi thì thôi cũng chì lòng, cho mày vô hạn một vòng bước ra. Một chân trời bát ngát tự do! Suốt ba ngày ròng, hắn lần mò từ lều này qua lều nọ, luống công van xin được gửi thân tôi đòi, mỗi ngày mỗi yếu thêm đi, cho đến cuối ngày thứ ba sức kiệt, lực cùng, nhưng luôn luôn vẫn là ngoan ngoãn, hắn nằm duỗi dài trên mặt cát, hai mắt mở to. Tôi có thấy những người như thế tại Juby, nằm chết trần truồng. Người Maure đi bên cạnh trong giờ họ hấp hối, hấp hối kéo dài, người Maure chạm vào họ nhưng không tàn nhẫn chi, và bọn trẻ con người Maure nô rỡn bên cạnh tấm thân tàn u ám ấy, và mỗi bình minh chạy tới thăm chơi, coi chừng có còn cựa quậy, nhưng không cười cợt kẻ tớ già. Đó chỉ chuyện tự nhiên lẽ thường. Không chi lạ. Cũng như bảo ‘‘Anh đã làm việc giỏi, anh đáng được ngủ rồi, thôi thì hãy ngũ đi’’. Lão vẫn nằm dài, cảm thấy đói, cái đói gây cơn choáng váng, nhưng không cảm thấy nỗi bất công tàn ác nào đày đọa mình. Lão hòa thân dần dần vào với đất. Mặt trời thiêu đốt, cõi đất đón vào lòng. Ba mươi năm vất vả, rồi cái quyền được ngủ yên, cái quyền về với đất.
Người nô lệ đầu tiên tôi gặp, tôi không nghe than van gì: ấy bởi rằng không có ai để trách. Tôi đoán nghe trong hồn gã chút niềm gì như chấp thuận phiêu diêu mơ hồ man mác, đó nỗi lòng như của một sơn nhân lạc rừng, kiệt lực, nằm duỗi chân trên tuyết, cho phiêu bồng tuyết phủ, cho mộng tưởng về vây. Cái xui tui bức rứt, không phải là sự đau khổ của y. Tôi không tin điều đó. Nhưng trong cái chết của y, cả một vũ trụ cũng đã chết theo, và tôi tự hỏi những hình ảnh nào đã chìm theo thân họ. Những đồn điền, những cây lá nào của xứ Sénégal, những thành phố trắng vôi, bạc vách miền Nam Maroc đã lần hồi tắt ngấm trong lãng quên. Tôi không biết, không thể nào biết được, trong khối hình hài đen đủi nọ, có lẽ nào chỉ tắt lịm là những khốn cùng khổ nhọc thôi sao; những tầm thường lo lắng trà pha, súc vật lùa tới giếng... tôi không biết... chỉ một linh hồn nô lệ ngủ thôi, hay ấy một con người, chợt hồi sinh trong triều dâng kỷ niệm, đã huy hoàng vĩnh biệt cõi đời, trong viễn tượng nguy nga. Mảnh xương sọ cứng, tôi thấy giống cái rương cũ chứa những kho tàng. Kho tàng gì? Tôi không rõ những gấm vóc nào sặc sỡ, nhưng hình ảnh nào tưng bừng yến tiệc, những dấu tích nào quá cổ hủ giữa khung cảnh nơi này, quá vô ích, quá hảo huyền giữa sa mạc này, vẫn còn nguyên trong đó, thoát khỏi vùng chìm đắm điêu linh. Tôi không biết, không biết gì hết cả. Cái hòm rương vẫn còn nằm tại đó, khóa kín, nặng nề. Tôi không biết cái phần nào của cuộc thế đương tan rã trong con người suốt giấc ngủ khổng lồ của những ngày chung cục đã tàn rụng trong mảnh tâm linh và thể xác nọ đương lần hồi biến thể để trở thành đêm tối và rễ cây.
— Xưa tôi là kẻ mục tử lùa giắt dê cừu, xưa tên tôi là Mohammed...
Bark là người nô lệ da đen đầu tiên tôi gặp đã cưỡng kháng, không chịu buông xuôi. Cái việc bị người Maure tước đoạt tự do, xâm phạm quyền lợi, làm cho lão hoàn toàn trơn trụi trên mặt đất, việc đó chẳng hề gì. Có những bão tố Thượng Đế gây ra, tàn phá trong một giờ bao nhiêu mùa màng công khó của người ta. Nhưng người Maure còn gây điêu linh cho một cách trầm trọng hơn nhiều: sâu xa hơn cái việc xâm phạm quyền lợi, tự do, của cải, người Maure đã làm tổn thương tới chính cái con người của lão, người Maure hăm dọa lão ngay trong trung tâm nhân vật củạ lão ta. Và Bark quyết không chịu đầu hàng, trong khi bao nhiêu nô lệ khác đã không bận lòng thắc mắc, cứ để yên cho chết hẳn trong thân mình cái hình hài một gã chăn cừu lao khổ quanh năm kiếm cơm nuôi sống.
Bark không nằm yên ổn trong vòng nô lệ như người ta nằm yên trong một hạnh phúc tầm thường sau khi đã mòn mỏi chờ đợi. Lão không muốn nhận lấy những thi ân độ lượng của chủ nô lệ làm nên hạnh phúc yên vui của đời nô lệ mình. Lão giữ nguyên cho gã Mohammed vắng biệt, cái ngôi nhà xưa cũ mà y từng đã ở, ngay trong lồng phổi mình. Cái ngôi nhà quạnh hiu vì vắng chủ, nhưng không một kẻ nào khác được phép bước vào. Bark giống như người đầy tớ canh gác một ngôi nhà, tới ngày bạc tóc, nằm giữa cỏ cây vây bọc những lối đi nẻo về, giữa quạnh quẽ ngậm ngùi, đành chết đi trong niềm chung thủy.
Lão không nói: ‘‘ Tôi là Mohammed ben El Haoussin’’ mà bảo: ‘‘ Xưa kia tôi tên là Mohammed’’ vì mơ mộng tới một ngày nào đó, nhân vật bị lãng quên kia sẽ hồi sinh, và riêng với cuộc hồi sinh nọ, sẽ xua đuổi xa lìa dáng dấp nô lệ ngày nay. Đôi lần, giữa vắng lặng đêm tăm, bao nhiêu kỷ niêm bỗng ùa về một lúc, dào dạt tràn đầy như một điệu hát tuổi thơ.
Viên thông ngôn người Maure kể lại với chúng tôi rằng: ‘‘.Nửa đêm, giữa canh khuya, lão nhắc tới thành Marrakech rồi lão khóc’’. Ai tránh được những ngậm ngùi hồi tưởng đó, lúc cô đơn! Con người cũ bỗng trở giấc ở trong mình, không báo trước cho hay. Con người cũ thức giậy, vươn vai duỗi dài tay chân trong tứ chi của lão, mò mẫm tìm cái vú tròn trịa thơm tho của con vợ nằm bên hông, giữa sa mạc này không bao giờ có đàn bà tròn xinh bén mảng; Bark lắng nghe tiếng suối chảy ở nơi này là chốn không bao giờ có suối trôi. Và Bark mắt nhắm nghiền, tưởng mình nằm ở trong một ngôi nhà trắng xóa, đêm đêm ngồi dưới một ngôi sao quen thuộc, chính bây giờ đương ở chỗ thiên hạ cư trú trong những căn lều vải len thô và đuổi theo hồn gió. Mang nặng trong lòng những ân tình thân ái đó, những niềm yêu dấu cũ càng đương bí mật rạt rào lên tiếng như gần gũi đâu đây, Bark tới tìm tôi, Bark muốn bảo với tôi rằng lão đã sẵn sàng rằng những niềm thân ái của lão cũng đã sẵn sàng, và lão chỉ còn có đi trở về tới quê là đem ra phân phát. Chỉ cần một dấu hiệu của tôi là đủ. Rồi Bark mỉm cười, vẽ cho tôi một cái chước, hẳn là tôi chưa có nghĩ ra:
— Mai sẽ có tàu… Ông dấu tôi trong máy bay đi Agakir …
— Tội nghiệp lão quá!
Vì chúng tôi đương sống trong vùng phiến loạn lộn xộn vô cùng làm sao giúp lão trốn cho êm? Người Maure ngày sau, sẽ rửa hận như thế nào, có trời mà biết rõ. Cướp bóc và làm nhục nhau như thế, thì chỉ còn có cái nước phải chịu tàn sát kinh hồn. Tôi đã cố tìm cách chuộc lão nhờ sự môi giới của anh em thợ mổáy ở đây, Laubergue, Marchal, Abgrall, nhưng người Maure vốn ít khi gặp những người da trắng đi tìm mua nô lệ da đen, họ nhân cơ hội hiếm hoi này mà đòi hỏi quá đáng.
— Đủ hai vạn quan tiền mới được.
— Anh đùa chơi đó chớ?
— Coi này, những cánh tay lực lưỡng của lão ta, coi này … Coi này, những bàn chân chữ bát đi vạm vỡ, coi này... coi này!
Và hàng tháng dài ‘‘ coi này’’ d?