← Quay lại trang sách

- VII - GIỮA LÒNG SA MẠC

1

VÀO tới Địa Trung Hải, tôi gặp mây thấp xuống bên mình. Phi cơ chìm xuống hai mươi thước. Mưa như thác đổ, đập vào mặt kính ngự phong và biển trào như bốc hơi ra khói. Tôi mở thao láo mắt, cố gắng nhìn thử có trông ra được tí gì, và khỏi phải đâm đầu vào cột buồm tàu biển.

Anh thợ máy, André Prévot, thắp thuốc cho tôi không ngớt.

- Cà phê đi…

Anh biến ra phía đuôi tàu và trở lại với chiếc te-mô. Tôi uống. Thỉnh thoảng tôi nhận ga, để cầm giữ hai nghìn một trăm vòng quay. Tôi đưa mắt lướt qua một lượt khắp các mặt kính chỉ dẫn: trăm họ ngoan ngoãn vâng lời, kim nào vị trí nấy. Tôi liếc nhìn xuống biển. Dưới trận mưa, mặt biển bốc hơi, như cuồn cuộn từng cơn trong một thùng nước sôi khổng lồ vậy. Nếu là bay trên thủy phi cơ, ắt tôi phải ngao ngán tiếc thầm, sao mà nó luôn tuồng rỗng tuếch. Nhưng tôi đang lái phi cơ thường. Thì dù rỗng hay không, cái lòng biển lên cơn ở dưới kia, hẳn không phải là chỗ dành cho tôi đậu xuống đuống hàng. Điều nhận định đó, chẳng rõ do đâu mà lại gây cho tôi một cảm giác bình yên phi lý. Biển thuộc một thế giới nào không phải của tôi. Hỏng máy, ở đây, không can hệ với tôi, cũng không hăm dọa tôi được: tôi nào có chuẩn bị lèo lái để vào cuộc chịu chơi với biển chi chút nào đâu.

Bay được một giờ rưỡi, thì mưa ngớt. Mây vẫn còn thấp lắm, nhưng ánh sáng nghiêng trời xuyên xuống, xỏ qua mây như một nụ cười dài rộng. Tôi êm đềm thưởng ngoạn cái cuộc soạn sửa diên trì nọ cho một cảnh trời tốt đẹp sẽ mở ra. Tôi đoán biết, trên đầu mình hiện có một lớp bông trắng phất phơ. Tôi lái chếch sang một bên để tránh một cơn giông: giờ không cần phải xuyên ngang giữa lòng mưa và bão nữa. Và đây, khỏang trời quang thứ nhất…

Tôi linh cảm đoán chừng thế thôi chứ không nhìn ra rõ, vì trước mặt mình, trên mặt biển, chỉ thoáng thấy một làn mỏng xanh rờn như đồng cỏ, một thứ màu cây trong sa mạc sắc lục rạng rỡ huy hoàng và thăm thẳm, tựa như màu lục những đồng lúa mạch ở miền Nam Maroc đã từng khiến tôi nao lòng rung động, lúc bay từ Sénégal về, sau ba nghìn cây số cát. Đây cũng vậy, tôi có cảm tưởng như đang ghé về một châu quận yên vui, và lòng thấy nhẹ nhàng du khoái. Tôi quay lại anh Prévot:

- Xong xuôi rồi, tốt thật!

- Vâng, tốt thật…

Tunis. Trong lúc ấy éc-xăng (essence=xăng), tôi ký vào các giấy tờ. Nhưng khi tôi rời bàn giấy, bỗng nghe một tiếng “rùm!”. Một thứ tiếng chói tai, không âm vang. Tôi chợt nhớ đã từng có nghe một thứ tiếng tương tự: tiếng nổ trong một gian nhà chứa. Hai người đã bỏ mạng giữa âm thanh khàn đục nổ ầm kia. Tôi quay nhìn về phía lộ dọc theo đường chạy của phi cơ: một ít bụi khói bốc lên, hai chiếc xe tốc hành choảng vào nhau và dừng sững lại, bất động như nằm trong băng đá. Người ta hối hả ùa tới, kẻ chạy về phía hai chiếc xe, kẻ chạy về phía chúng tôi:

- Gọi điện thoại… Một bác sĩ… Cái đầu…

Lòng tôi se lại. Định mệnh vừa đánh trúng một đòn trong bóng chiều yên tĩnh. Một vẻ đẹp bị tàn phá, một bộ óc thông minh, một cuộc đời… Bọn cướp cũng từng tiến lên như vậy trong sa mạc, và không ai nghe được bước chân dẻo dai khinh khoái của họ lướt trên mặt cát bao giờ. Trong một trại đồn giữa sa mạc, cái tiếng xao xác ngắn ngủi do một trận cướp gây ra, cũng quả có dường như vậy. Rồi mọi sự chìm vào trong vắng lặng vàng hoe. Cũng một loại yên bình, cũng một loại vắng lặng… Một kẻ đứng gần tôi nói tới chuyện vỡ sọ. Tôi không muốn biết, tôi không muốn biết gì nữa cả, về cái trán cứng đờ đẫm máu kia, tôi quay lưng về phía lộ, và bước thẳng lại chiếc phi cơ. Nhưng giữ ở trong lòng một cảm tưởng gì về sự lăm le rập rình của tai họa. Cái tiếng ầm nọ, lát nữa tôi sẽ còn nghe và nhận ra trở lại. Lúc tôi còn bay cấp tốc hai trăm bảy mươi cây số một giờ, tôi sẽ cọ sát mép sườn dãy cao nguyên đen đủi của tôi, thì tôi sẽ nhận ra cũng cái tiếng khò khè khàn đục chói tai: cũng cái tiếng “ha!” của định mệnh, đương chờ ta tới địa điểm tao phùng.

Ha! Lên đường đi Benghaza vậy.

2

Lên đường. Chỉ còn hai giờ nữa thì ngày tàn. Tôi bỏ kính râm lúc bay tới địa phận Tripolitaine. Cát vàng óng ả. Hỡi ôi! Hành tinh của chúng ta sao mà hoang vắng! Một lần nữa, tôi lại thấy tại đây, trên mặt đất trần gian này, những sông dài, những bóng râm cây lá, những nhà của con người, chỉ là do những phối ngẫu dị thường của may rủi mà thôi. Còn bao nhiêu là cỗi cằn đá cát!

Nhưng mọi thứ đó đối với tôi giờ đây vẫn còn là xa lạ, tôi đương sống trong địa hạt phi hành. Tôi cảm thấy đêm tăm đương đi tới, ta sẽ chìm vào trong đó khép mình mất hút như trong một điện đài. Vào trong đó, ta khép mình trong vòng suy tưởng cô đơn, theo những nghi lễ cốt thiết u huyền, không chờ mong cõi ngoài cầu ứng. Toàn khối vũ trụ tục phàm đã lẩn bóng và tan đi. Toàn thể phong cảnh này vẫn còn được di dưỡng trong ánh sáng hồng vàng, nhưng có cái gì đã bốc hơi lẩn mất. Và tôi không biết, không biết gì nữa cả, ngoài cái giờ bất tuyệt phát tiết tinh anh. Kẻ nào hiểu tôi, kẻ đó hiểu tôi, là riêng ấy những ai đã từng chịu nhiếp phục bởi cái ân tình kỳ tuyệt, với đường bay rẽ gió mà đi. Tôi tạ từ thong dong, này trời cao, nắng rộng. Tôi tạ từ, này những vùng vàng óng bao la có thể cho tôi tỵ nạn trường hợp máy hư… Tôi tạ từ những mục tiêu hướng dẫn. Tôi tạ từ những bóng núi in hằn giữa thương khung, có thể giúp tôi tránh dễ dàng các mỏm đá. Tôi bước vào trong đêm tối. Tôi rẽ gió ngất tạnh mà đi. Tôi chỉ còn có ngàn sao mù khơi là bạn…

Cái chết kia của doanh hoàn đương từ từ “thành tựu”. Và từ từ, ánh sáng biệt ly tôi. Đất và trời cũng từ từ hòa vào nhau hợp một. Đất bay lên trời và tỏa rộng như khí sương. Những tinh tú đầu tiên run rẩy hình như ngại ngùng trong bầu nước lục. Còn phải chờ lâu nữa mới thấy chúng tôi biến dạng thành những hột kim cương cứng rắn như khuynh thành một thuở bỏ ra đi. Còn phải chờ lâu nữa mới mở mắt mơ màng mà chứng giám cuộc phiêu bồng sỏa lộng bóng sao băng. Ở giữa lòng một vài đêm thâu lục nhạt, tôi đã nhìn những tia lửa băng trời thành một đường rẽ vút như một làn gió dài dàn rộng giữa muôn sao.

Prévot đang thử những đèn thường và những đèn phòng khi cấp cứu. Chúng tôi bọc bóng điện bằng giấy đỏ hồng.

- Thêm một lớp nữa…

Anh bọc thêm một lớp nữa, và bật đèn. Ánh đèn vẫn còn sáng quá. Mờ hơn tí nữa, nó sẽ vây mờ pha đậm cho đàn hương, che phủ bóng hình của thế giới bên ngoài nhợt nhạt. Nó sẽ hủy tan đi cái chất nhờn phơn phớt còn bám vào cảnh vật trong đêm tăm. Đêm đã vây tràn. Nhưng chưa phải là sống thực. Một cung vàng trăng mới, vẫn lân la. Prévot quay ra phía sau, chạy trở về với bánh bèo nhận hột. Tôi gậm nhấm một chùm nho. Tôi không đói, cũng chẳng khát. Cũng không mỏi chút nào, chỉ cảm thấy thân phiêu bồng như cánh bằng tiện gió, nếu Trời Phật vui lòng cho phép, con xin rằng sẽ lái máy bay như thế này lai láng mãi suốt trăm năm.

Vầng trăng đã chết.

Tới Benghazi trong đêm đen u sầu như mực, Benghazi nằm trong đáy thẳm một bóng đêm dằng dặc không một vầng sáng gợn. Tôi đã nhìn thoáng thấy thành phố, lúc tôi tới nơi. Tôi còn lượn một vòng phi cơ để tìm sân bay, thì hỏa tiêu rực đỏ. Ánh lửa vạch một vòng chữ nhật đen. Tôi xoay phi cơ trở lại. Ánh sáng ngọn đèn pha hướng lên trời, vút thẳng như tia hồng một trận hỏa hoạn, xoay tròn vạch một đường vàng óng trên sân bay. Dụng cụ ban đêm ở sân bay này thật là chỉnh bị. Tôi hãm máy và khởi sự lao xuống như lao vào nước đen ngòm.

Tôi hạ cánh lúc mười một giờ đêm. Cho phi cơ chạy về phía ngọn đèn pha. Những sĩ quan và lính tráng nhã nhặn hết mực, theo tia sáng chớp của ngọn đèn pha mà ẩn hiện, lúc mờ lúc tỏ, lúc thấy lúc không, người ta thu giấy tờ của tôi, người ta bắt đầu cho xăng vào máy. Công việc sẽ xong xuôi trong hai mươi phút.

- Ông thử quay phi cơ một vòng, và bay ngang trên chúng tôi, kẻo chúng tôi không rõ ông cất cánh được chưa.

-Lên đường.

Tôi cho phi cơ lăn trên con đường vàng óng, trên một lối không chướng ngại. Phi cơ tôi, loại “Simoun” cất cánh nhẹm lạ, trước khi chạy hết khoảng đường dành sẵn. Ngọn đèn chiếu cứ dọi theo tôi, làm vướng mắt tôi lúc tôi muốn quay chuyển lại. Rồi nó chợt tránh lìa ra, người ta đã hiểu rằng nó làm tôi quáng mắt. Tôi vừa quày ngược vừa cho phi cơ lên chiều thẳng đứng, thì chợt ngọn đèn chiếu, lần nữa lại đập thẳng vào giữa mặt tôi, nhưng vừa chớm chạm, lại vừa chợt buông “chưởng lực”, vừa tung thẳng vào mình đã vội vàng chia ly ra nẻo khác, và hướng vào thinh không mà trút ngậm cơn óng ả bùi ngùi. Qua những mối ân cần tương nhượng kia, tôi nhận ra niềm hòa nhã cao vời. “Hồng lưu tỷ sơn hải nhi câu trường, hạc phát quý tri thù chi mạc bổ…”. Tạ từ nhau, giờ lại xin xoay chiều về Sa Mạc.

Những ban khí tượng tại Paris, Tunis và Benghazi có cho tôi biết có một cơn gió thuận chiều thổi theo đuôi, tốc độ từ ba mươi tới bốn mươi cây số một giờ. Tàu của tôi tốc độ ba trăm cây số một giờ. Cậy vào đó, tôi nhắm thẳng vào khoảng giữa đoạn đường nối liền Alexandrie và Le Caire. Như vậy, tôi sẽ tránh được những khu cấm địa ven bờ biển, và cho dẫu mình có sẽ chịu những cơn phiêu hốt không ngờ của phi cơ trên dặm bay, thì trên đường hàng không tôi vẫn còn có thể bám vào những tiêu điểm, hoặc về phía tả, nơi những ánh lửa của một trong hai thành phố kia, hoặc nói chung, tựa vào những ánh lửa trong lưu vực sông Nil. Tôi sẽ bay suốt ba giờ hai mươi phút, nếu gió không yếu bớt. Và tôi bắt đầu heo hút vượt một ngàn năm mươi cây số sa mạc.

Không còn trăng. Một chất nhờn như dầu thạch não tối sầm, một màu đen như mực loãng ra, tỏa lên tới ngàn sao. Tôi sẽ không nhìn thấy một đốm lửa, không đón được một điểm tiêu mốc để dẫn đường, thiếu vô tuyến tôi sẽ không nhận được một dấu hiệu nào của con người trước khi vào lưu vực sông Nil. Tôi cũng chả thử gắng quan sát gì khác, ngoài cái địa bàn và cái máy Sperry. Tôi chẳng còn chú tâm vào một cái gì nữa cả, ngoài cái tiết nhịp hô hấp lững lờ chậm chạm của một đường quang tuyến lăn tăn trên mặt kính mờ mờ của cái máy. Lúc nào Prévot rục rịch dời chỗ, tôi dìu dịu sửa sai cho những biến thiên của định tâm điểm. Tôi đưa phi cơ lên độ cao hai ngàn thước, nơi người ta đã báo cho biết là gió sẽ thuận chiều. Lâu lâu tôi bấm đèn một cái, để xem xét các mặt kính động cơ, không phải cái nào cũng có dạ quang chiếu dọi, nhưng thường thường phần lớn thì giờ, tôi thu hình kín trong bóng tối, giữa những chòm sao tí hon của mình đương đề huề gieo ánh sáng, cũng một thứ ánh sáng khoáng hóa u mờ như tinh tú dạ du, cũng thứ ánh sáng ẩn mật, không mòn hao; và cũng như tinh tú trên trời, những chùm sao của tôi cũng nói chung một phiêu bồng ngôn ngữ. Tôi cũng không khác chi nhà thiên văn học ngó trời, tôi cũng đang đọc một quyển sách về chuyển vận cơ học ngàn sao. Ngoại vật thảy đều chìm tắt hết. Chỉ còn có anh Prévot đương ngủ, sau mấy phen gượng chống không lại con ma “miên”, thì tôi, tôi chỉ còn tôi cô độc, một mình càng thưởng ngoạn êm ái mối cô đơn. Chỉ còn có tiếng ù ù dịu dịu của động cơ quay, và trước mặt tôi, trên tấm bảng yên bình, là bao nhiêu sao vàng yên tĩnh… ‘‘Lư hương vừa ngún chiên đàn…’’

Tuy nhiên tôi gẫm lại… Chúng tôi không thụ hưởng chút gì của vầng trăng, mà lại thiếu luôn máy vô tính. Trông cậy vào gì bây giờ. Không chút liên lạc nhỏ buộc vào với đời, với cõi thế dưới kia, cho tới lúc chạm vào với tấm băng ánh sáng sông Nil. Chúng tôi đứng ngoài vòng mọi thứ, chỉ duy còn có cái động cơ này là cầm giữ chúng tôi và giúp chúng tôi gìn mình trong cái hồ nhựa đen như mực. Chúng tôi đang lần mò dò dẫm vượt qua cái hang sâu thung lũng tối mò của những chuyện thần tiên kinh dị, là cái vùng thung lũng tục tĩu ầm ỷ chầy chầy. Đây, không hòng mong ai giải cứu. Đây, không hòng ngóng đợi độ lượng bao dung. Lỡ lầm là chết. Phó mặc phận mình cho Trời Đất phó mặc trở cơn. Dù ngài xoay đến thế, dù đấng vần tới kia.

Một luồng tia sáng lóe ra từ một kẽ máy điện phân phối. Tôi gọi Prévot dậy tắt nó đi. Prévot rục rịch cựa mình trong bóng tối, èo ụt như con gấu ù lì, phì phạch rũ lông, lò dò tiến lại. Chẳng rõ anh lúi húi bận rộn tết dệt cái thứ gì trong bóng tối với một mớ mùi xoa và đen thui mớ giấy. Luồng tia sáng chợt tắt. Nó đã vạch một đường rạn nẻ trong thế giới này. Nó không cùng loại, không cùng tính chất với thứ ánh sáng lờ mờ hắt hiu xa vắng của ánh quang tuyến tại đây. Nó là thuộc loại ánh sáng của hộp đêm, nó không phải là ánh vàng tinh tú. Nhất là nó lại làm chóa mắt tôi, và xóa mờ các tia vàng man mác khác.

Sau ba giờ bay. Một hào quang khá rạng rỡ bỗng phát hiện bên phía tay phải. Tôi ngó vào. Một đường rẽ lộng lẫy bám vào ngọn đèn ở đuôi cánh, khép nép thế nào mà mãi tới bây giờ tôi mới chợt thấy ra. Một loại ánh sáng lúc giật, lúc buông, lúc chùng, lúc thẳng, chớm kề cà, chợt lẩn bóng đi đâu: ha! thế là tôi lại bay vào vòng thao túng của một áng mây. Chính áng mây kia đang chơi trò phản chiếu, lung lạc đảo điên ánh ngọn đèn. Nếu bay gần những tiêu mốc, ắt là tôi đã mong mỏi một bầu trời trong trẻo hơn là cái điệu gần xa lãng đãng thế này. Cánh phi cơ sáng ra trong vòm hào quang đó. Ánh sáng dồn tụ, dừng im, tỏa rộng, kết thành tại đó một cụm đóa hồng vàng. Những luồng khí thăm thẳm trở cơn bỗng làm cho phi cơ tôi siêu lệch. Tôi dặt dìu bay tới đâu đó trong làn gió thổi vào những lớp lớp mây tuôn, chẳng biết là dày hay mỏng. Tôi lái lên cao tới hai ngàn năm trăm thước cao. Cụm hoa hồng vẫn còn nguyên tại đó, im lìm bất động và mỗi lúc mỗi huy hoàng lộng lẫy tưng bừng cái đóa đẹp thêm ra. Tốt. Tốt lắm. Được rồi. Mặc nhé. Ai hơi sức đâu mà gùn ghè mãi với cái loại lần khân. Tôi nghĩ qua chuyện khác. Rồi sẽ rõ cái sự đời nó hay nó dở, lúc ra khỏi cái vòng cương tỏa đó nghe em. Thật tình, tôi không ưa cái thứ ánh sáng ba xu của những quán hàng bốn cắc.

Tôi tính nhẩm: “Tại đây, mình lai rai sụt trồi chút ít, mình nhảy lộn, nhào lầm ít nhiều, đó chẳng qua cũng là thuận lẽ thường thôi ạ, có chi đâu mà phải lấy làm điều. Tuy nhiên, mình đã phải chịu đựng những luồng khí phiêu hốt trở cơn suốt dặm đường bay, mặc dù lên đúng độ cao, mặc dù trời quang như thể… Gió không dịu cái hồn, thì mình phải hỏi trăng. Gió lần khân chưa tạnh, ắt là mình đã vượt quá cái tốc độ ba trăm cây số một giờ. Dù sao tôi cũng chẳng biết cái gì cho rõ cái gì lắm, thôi thì hãy chờ cái lúc lọt ra ngoài cái vòng vành vạnh của mây cong, rồi sẽ liệu mà tính sao cho chắc ăn cái phương hướng để định lại vị trí ở giữa cơn phiêu bồng.

Và ta ra khỏi biển mây. Chùm hoa vụt biến. Chính vì nó vụt biến nên tôi chợt biết là mình vừa ra khỏi đám mây. Tôi nhìn tới đằng trước và thấy lờ mờ, nếu quả còn lờ mờ thấy được chút chi, một thung lũng thanh thiên eo hẹp và bức thành trùng điệp mây giăng. Chùm hoa đã tái hiện.

Tôi sẽ không ra khỏi cái cõi nhựa dằng dai này, trừ một vài giây phút ngắn. Sa vào tấm lưới này sau ba giờ rưỡi hàng không, thật quả là điều đáng ngại. Tôi bắt đầu e ngại, bởi vì tôi tiến gần tới sông Nil, nếu thật tôi đã bay được đúng như tôi tưởng chừng trong trí. Có lẽ may ra tôi sẽ thấy con sông Nil qua các khoảng trống trong vùng mây dằng dặc, nhưng rủi là khoảng trống ít quá. Tôi chưa dám xuống thấp thêm: vì ví phỏng mà lỡ ra mình đã bay chậm hơn mình tưởng, thì hiện giờ mình còn đương lẩn quất trên những miền đất cao.

Tôi vẫn không lo lắng chút nào. Chỉ sợ là sợ phí mất thì giờ. Nhưng tôi không muốn mình điềm nhiên thanh thản mãi, tôi đặt một giới hạn cho yên tĩnh: bốn giờ mười lăm phút bay. Sau thời hạn đó, thì dẫu có đứng gió, mà gió đứng, đó là điều mười phần không chắc chín, tôi hẳn cũng sẽ vượt quá lưu vực sông Nil.

Lúc tôi bay vừa tới chạm vào cái tua mép viền vành của đám mây kia, thì cái chùm hoa hồng thắm bỗng toé ra nhiều tia lửa lập lòe, càng dồn dập chuyển cơn nhanh, rồi đột nhiên tắt mất. Tôi thật không ưa cái lối ra dấu hiệu bí mật tư thông này với những loài ma cuồng quỷ loạn của đêm đen.

Một vì sao xanh lục nhô ra trước mặt tôi, sáng ngời như một ngọn hải đăng. Đó là sao, hay đó là đèn? Tôi thật cũng chẳng ưa gì cái thứ ánh sáng siêu nhiên này, cái thứ tinh cầu ảo thuật, cái thứ quyến rũ mê hoặc tai hại kia.

Prévot chợt thức dậy và bấm đèn rọi các mặt kính động cơ. Tôi vừa bay tới một khe hở long lanh giữa hai đóa mây ngà phiêu hốt, tôi nhân cơ hội mà nhìn ngó xuống phía dưới. Prévot quay đi ngủ lại.

Cũng chẳng có chi dưới đó mà nhìn.

Bay được bốn giờ năm phút, Prévot đến ngồi bên cạnh tôi.

- Lẽ ra tới Le Caire rồi mới phải…

- Tôi cũng nghĩ vậy…

- Kia đó là sao hay ngọn đèn pha vậy?

Tôi đã hãm bớt máy, chắc vì thế mà Prévot thức giấc. Anh vốn thường rất nhạy cảm quan, máy chạy khác đi một chút là biết ngay. Tôi bắt đầu chầm chậm cho phi cơ xuống thấp, để lướt ra khỏi lùm mây um tùm.

Tôi vừa xem lại bản đồ. Dù sao thì mình cũng đã cập tới độ 0: không còn chi phải ngại. Tôi cho phi cơ xuống nữa, xuống nữa và bẻ lái xoay qua hướng cực Bắc. Như vậy tôi sẽ đón nhận ánh lửa các thành phố chiếu về các tấm kính cửa sổ. Chắc tôi đã vượt quá khu phận các phố phường, vậy thì chúng ta sẽ hiện ra ở phía tả. Bây giờ tôi bay dưới các lớp mây chồng chất. Nhưng cũng đang bay dọc một đám mây thấp hơn ở về mé bên trái. Tôi bẻ lái xoay chiều để khỏi vướng vào cái lụy của vòng lưới nó giăng ra, và bay theo hướng Bắc Đông Bắc.

Đám mây này quả thật còn xuống thấp hơn, không còn ngờ chi nữa, nó lấp mất cả chân trời trước mặt tôi. Tôi không dám liều xuống thêm nữa. Tôi đã tiến tới độ cao 400 trong cao độ kế, nhưng tôi không rõ áp lực không khí vùng này. Prévot nghiêng người. Tôi nói lớn: “Tôi sắp chạy thẳng ra biển, tôi sẽ dông thẳng ra biển, để khỏi chạm đất…”

Kể ra thì cũng chẳng có gì chứng tỏ là tôi đã không lạc ra biển trước mất rồi. Dưới đám mây kia, bóng tối quả là dằng dặc đen kịt tối sầm. Tôi dán mắt vào khuôn cửa sổ. Tôi cố gắng nhìn đọc cho ra cái gì bên dưới. Tôi cố gắng tìm cho thấy những đốm lửa, những dấu hiệu. Tôi là một con người, một con kẻ, đang bới tìm khai quật cái đống trong tàn than. Biết còn chăng còn hột kim cương trong đó. Tôi là một gã hì hục se lòng đưa tay mò vào cái đáy của một lò sưởi sâu hang. Biết còn chăng trong đó những ngọn lửa nóng lừng tồn sinh ngấm ngầm ngày đêm âm ỷ cháy?

- Một ngọn hải đăng!

Hai chúng tôi cùng nhìn ra một lượt cái cạm bẫy ấy vẻ son lập lòe. Rõ thật là điên. Ngọn đèn ma ấy ở đâu? Cái trò đùa của đêm ma quái ấy? Vì chính trong cái giây mà Prévot và tôi cùng nghiêng đầu tìm lại nó, ở dưới mình ba trăm thước, thì bất thình lình…

- A!

Tôi nhớ rõ mình không nói gì khác nữa. Tôi nhớ rõ mình không cảm thấy gì khác, ngoài một tiếng ầm dữ dội làm chấn động đảo điên cái thế giới chúng tôi ở chín tầng cội gốc. Với tốc độ hai trăm bảy mươi cây số một giờ, chúng tôi chạm máu tim vào đất.

Tôi nhớ rõ mình không mong chờ gì khác, trong một phần trăm giây đồng hồ tiếp sau đó, vâng, không chờ gì khác ngoài cái luồng chớp lóe của một ngôi sao khổng lồ trong một trận nổ tung, cuốn hút hai anh em tôi vào để cùng chung tan tành một cuộc. Cả Prévot, cả tôi, không đứa nào cảm thấy một chút xíu xúc động. Tôi chỉ nhận thấy trong mình một chờ đợi thiết tha, chờ đợi mênh mông để xem xuất hiện cái luồng chớp lóe huy hoàng của một ngôi sao sắp xóa tan hai hình hài một lúc. Nhưng trước sau vẫn không có một ngôi sao hồng tía nào hiện ra cả. Chỉ có một thứ gì như cơn động đất ì ầm tàn phá mất cái buồng máy chúng tôi, rứt tung các cửa sổ, bắn tung các tấm tôn ra xa trăm thước, một cơn động đất ầm ầm dội vào tận đáy ruột gan. Chiếc phi cơ rung động rít lên như một lưỡi dao phóng từ đằng xa, cắm vào gỗ cứng. Hai đứa tôi quay cuồng thất điên bát đảo trong cơn thịnh nộ đùng đùng sấm vang kia. Một giây, hai giây… Chiếc phi cơ vẫn rung lên như cầy sấy và tôi điên cuồng đợi, lòng nóng như thiêu, cầu mong cho bao nhiêu tiềm lực súc tích trong thân tàu hãy sớm bộc phát như trái lựu đạn nổ tung cho tan tành chiếc phi cơ trong một bụi cát. Nhưng từng trận chấn động dập dồn trong lòng đất nối đuôi nhau điệp điệp, mà rút cuộc vẫn không đủ xô phún thạch ra ngoài cho trào xé miệng hỏa sơn. Tôi không hiểu, tôi không hiểu một chút gì hết cả, về cái việc làm ngấm ngầm bí mật kia. Tôi không hiểu, không hiểu cuộc chấn động, không hiểu cơn thịnh nộ, không hiểu sự diên trì bất tận trễ tràng kia… năm giây… sáu giây… Và bất thình lình, một cảm giác xô ùa xoay tít, một sức mạnh kích phá tan tành, làm tung bay lả tả, nào thuốc điếu nào nón đội trên đầu, nào khăn đỏ vắt vai - chợt nó đập nát cánh phi cơ tay phải, rồi chợt thôi, thôi hết, thôi rồi, thôi thế, mộng thôi oanh… Chỉ riêng còn tôi, là im lìm giá lạnh. Chỉ riêng còn chút, là lạnh giá im lìm. Tôi la lớn:

- Prévot, nhảy mau!

Cùng một lúc, Prévot la lớn:

- Lửa!

Lập tức chúng tôi phóng ra ngoài qua khung cửa sổ vỡ toang. Chúng tôi đứng ra xa hai mươi thước. Tôi bảo Prévot:

- Không hề gì?

Anh ta trả lời:

- Không hề gì!

Nhưng anh cúi xuống xoa đầu gối.

Tôi bảo:

- Mó lại xem, rục rịch thử, thề với tôi là anh không gãy xương nào hết…

Anh trả lời:

- Không hề chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa.

Tôi, tôi nghĩ anh sắp ngã lăn ra thình lình, bị rạch toét ra từ đầu tới rốn, nhưng anh lặp trở lại, hai mắt đăm đăm:

- Chỉ tại cái bôm trừ lửa đấy!...

Tôi, tôi nghĩ: anh ta điên rồi đó, anh ta sắp hoa tay múa chân…

Nhưng mắt anh đã rời chiếc phi cơ, bây giờ chắc chắn là khỏi cháy, anh quay lại nhìn tôi và bảo:

- Không can chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa nó móc vào đầu gối tôi.

3

Làm sao cắt nghĩa được vì sao chúng tôi còn sống sót. Tôi cầm đèn bấm trong tay, lần theo vết chiếc phi cơ trên mặt đất cách chỗ nó ngừng hai trăm năm mươi thước, đã bắt đầu thấy những mảnh sắt xoắn cong và những mảnh tôn tung tóe trên mặt cát, suốt cả khoảng đường. Sáng ngày ra, chúng tôi mới thấy rõ là phi cơ chúng tôi đã chạm dọc chiều một mặt dốc dịu, ở trên một giải cao nguyên hoang liêu. Ngay tại chỗ chạm cọ đầu tiên, có một lỗ thủng trong cát, giống như lỗ thủng do một lưỡi cày đào. Phi cơ không thọc mạnh, đã theo trớn bay mà trườn đi trên bụng như loài bò sát, cuồng nộ rung chuyển lướt tới như một cái đuôi rắn điên dại phiêu bồng. Trong tốc độ hai trăm bảy mươi cây số một giờ, nó đã bò, là thế. Và chúng tôi nằm trong cuộc nọ mà vẫn còn giữ được cái mạng mình, chắc là nhờ những viên đá đen tròn trịa, dìu dặt tự do lăn tròn trên mặt cát, đưa lại cho phi cơ một cái đà dịu ngọt, như chăn nệm êm đềm còn đào tạo thành giữa cơn hấp hối một trận ngang ngửa cuối cùng của lá cánh dìu dập, thể xác suýt tan tành, mà hồn mộng đã tái sinh.

Prévot lo bứt dây cho các hòm chứa điện để tránh sự nổ cầu chì gây hỏa hoạn về sau. Tôi tựa lưng vào cái động cơ, và suy nghĩ: trong lúc bay, có thể tôi đã phải chịu đựng trong bốn giờ mười lăm phút, một cơn gió năm mươi cây số một giờ, trong mình tôi quả thấy thật rời rạc. Nhưng nếu gió có đổi thay tốc độ khác những dự ước ban đầu, tôi vẫn hoàn toàn không thể biết nó trở chứng ra sao. Thế thì định vị trí cho mình ở trong một khoảng vuông mỗi bề bốn trăm cây số.

Prévot tới ngồi cạnh tôi và bảo:

- Còn sống, thật là chuyện lạ lùng…

Tôi không trả lời gì cả, và không cảm thấy một chút hân hoan. Một ý nghĩ nho nhỏ len lỏi tới, len lấn vào trong đầu, và nhẹ nhẹ xui tôi băn khoăn.

Tôi bảo Prévot hãy bấm đèn của anh lên để làm tiêu mốc, rồi tôi cầm đèn của mình bước thẳng về phía trước mặt. Tôi chăm chú nhìn mặt đất. Tôi tiến đi chầm chậm, theo một nửa vòng tròn thật rộng, và nhiều lần thay đổi hướng đi. Tôi soát tìm mặt đất, như kiếm một chiếc nhẫn rơi. Khi nãy, tôi cũng đã chờ ngọn lửa thiêu như vậy. Tôi vẫn đi hoài trong bóng tối, lom khom trên cái vòm tròn ánh sáng của chiếc đèn tôi dọi ra. Thật vậy rồi… Thật vậy rồi… Tôi lần lần quay lại phía phi cơ. Tôi ngồi cạnh phòng máy và ngẫm nghĩ. Tôi cố tìm một lý do để hy vọng và ngẫm nghĩ. Tôi cố tìm một dấu hiệu của đời sống đem về, nhưng đời sống không ra dấu nào cả cho tôi.

- Prévot, tôi không thấy một ngọn cỏ nào đây cả.

Prévot nín lặng, tôi không biết anh đã hiểu ý tôi chưa. Rồi ta sẽ bàn trở lại chuyện này, khi màn kịch sẽ kéo lên lúc trời hừng sáng… Tôi chỉ thấy mệt mỏi vô cùng, tôi nghĩ: “Khoảng bốn trăm cây số, ở giữa lòng sa mạc!...”. Bỗng vọt đứng lên:

- Nước!

Bình chứa xăng, bình đựng dầu, thảy đều vỡ sạch. Các bình chứa nước cũng không hơn gì. Cát đã hút hết toi rồi, không còn một giọt. Chúng tôi tìm lại được một nửa lít cà phê ở đáy một thermos bể vụn, một phần tư lít rượu trắng ở đáy một bình khác. Chúng tôi lọc các thứ nước uống đó và tỉ mỉ trộn vào nhau. Chúng tôi cũng tìm ra được một ít nho và một quả cam hường. Nhưng tôi nhẩm tính: “Năm giờ đi trong sa mạc, dưới ánh nắng mặt trời, sẽ chẳng còn chi…”.

Chúng tôi vào nằm trong phòng máy, tôi duỗi dài, tôi sắp ngủ, tôi đưa vào chiêm bao tất cả đầu đuôi cảnh trạng bây giờ: chúng tôi tuyệt nhiên không rõ vị trí mình là đâu cả. Chúng tôi không có đủ một lít nước uống. Nếu chúng tôi rơi tại trên đường bay, hoặc xê xích chút ít, thì cũng tám ngày sau mới mong người ta tìm thấy, không mong gì sớm hơn, và khi đó thì đã muộn. Còn nếu chúng tôi rơi lệch ngả, thì sáu tháng sau mới có người tìm thấy. Không thể trông cậy vào những phi cơ: chúng sẽ tìm kiếm chúng tôi trên dặm đường ba nghìn cây số.

- A! Rủi thật… Prévot bảo.

- Vì sao?

- Mình đáng lẽ đã được chết hay ho trong một nháy.

Nhưng không lẽ chịu đầu hàng vội thế. Prévot và tôi trấn tĩnh lại tinh thần. Không thể tuyệt vô hy vọng. Có thể tình cờ may mắn, dù rất mỏng manh, được một phi cơ ngẫu nhiên như thần linh bất ngờ tới cứu. Cũng không được phép bó tay ngồi lì, bỏ lỡ một oasis gần gũi đâu đó, không chừng. Biết đâu…? Bữa nay, chúng ta sẽ đi suốt ngày. Rồi quay trở lại bên phi cơ. Và trước khi đi, chúng ta sẽ vạch chương trình bằng chữ thật to ghi trên mặt cát.

Vậy là tôi khoanh người nằm yên ngủ cho tới sáng. Và tôi rất sung sướng mà ngủ. Bao nhiêu nhọc mệt vây phủ tôi trong một vòng ảnh hình vang bóng. Tôi không còn cô độc trong sa mạc, giấc ngủ thiu thiu như lai láng biết bao giọng nói, câu cười, những kỷ niệm, những tiếng tâm sự thổ lộ thì thầm. Tôi chưa thấy khát nước, tôi còn cảm thấy khỏe khoắn bình an, tôi phó thân mình cho giấc ngủ như phó hết cuộc đời cho mạo hiểm mang đi. Thực tại lùi dần, nhường đất đai cho mộng tưởng…

A! Sự việc không còn như vậy nữa, lúc trời sáng ra!

Cước chú

[1] Đến đây tôi cảm thấy cần trở lại với cước chú ở trong trang 57. André Malraux viết như thế này:

“Nhân bản chủ nghĩa, không phải là nói: “Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”; nhân bản chủ nghĩa, là nói: “Chúng tôi đã khước từ cái mà con thú vật trong chúng tôi đã muốn, và chúng tôi muốn tìm thấy trở lại con người ở mọi nơi nào chúng tôi đã tìm thấy những gì chà đạp nó”.

Nguyên văn: L’ humanisme, ce n’est pas dire: “Ce que j’ai fait, aucun animal ne l’aurait fait”, c’est dire: “Nous avons refusé ce que voulait en nous la bête, et nous voulons retrouve l’homme partout où nous avons trouvé ce qui l’écrase”.

“Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”, câu đó, lúc Malraux trích dẫn, ông bỏ bớt vài lời không cần yếu. Số là Saint-Exupéry viết trong Terre des Hommes thế này: “Ce que j’ai fait, je te le jure, jamais aucune bête ne l’aurait fait” (trang 51). Và tới trang 59, ông bỏ bớt chữ “te” (Ce que j’ai fait, je le jure, jamais aucune bête ne l’aurait fait).

Kể ra, danh từ “nhân bản chủ nghĩa” cũng là một danh từ nên tránh, vì cũng như tiếng “giá trị”, nó đã bị đầu độc bởi biết bao nhiêu thế kỷ triết học Tây Phương (Xem Martin Heidegger – Lettre sur l’Humanisme).

Nhưng muốn dùng chơi, cũng chẳng sao. Miễn là dùng trong một dòng suy tư xa thẳm hơn về cỗi nguồn.

Tuy nhiên, cái điều đáng trách Malraux nhất là ở chỗ: câu nói của ông đưa ra hoàn toàn đúng – cái mới chết! – đúng theo tinh thần của chính Saint-Exupéry nữa, nhưng lại không thể đúng với một linh hồn thuần phác anh-dũng-sơ nguyên như Guillaumet, đương vùng vẫy chống với Tử Thần vì tinh thần trách nhiệm. Và chính Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng là bởi lẽ đó.

Còn Camus? Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry? Ông viết theo điệu nào?

… “Je hais mon époque”, écrivait avant sa mort Saint-Exupéry, pour des raisons qui ne sont pas très éloignées de celles dont j’ai parlé. Mais, si bouleversant que se soit ce cri, venant de lui qui a aimé les homes dans ce qui’ils ont d’admirable, nous ne le prendrons pas à notre compte. Quelle tentation, pourtan, à certaines heures, de se détourner de ce monde morne et décharné! Mais cette époque est la nôtre et nous ne pouvons vivre en nous haissant”.

(L’ÉTÉ – trang 117)

Xin dịch:

… “Tôi thù ghét thời đại tôi”, không bao lâu trước ngày ông chết, Saint-Exupéry đã viết thế, vì những lý do không quá xa biệt với những lý do tôi vừa nói tới. Nhưng, cho dẫu tiếng kêu kia xui cảm kích bàng hoàng thảng thốt bao nhiêu đi nữa, tiếng kêu vọng tới từ ông ta, là kẻ đã yêu thương con người trong những gì đáng kính phục nhất nơi con người, tiếng kêu kia chúng ta vẫn sẽ không nhận về phần mình được. Tuy nhiên, quyến rũ xiết bao là, đôi giờ đôi lúc, niềm mong muốn quay mặt lánh xa cái cõi trần u buồn và xương xẩu đến cỗi cằn này! Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống mà căm thù, đầy đọa nhau”.

Camus nhìn nhận sự cao nhã hoằng viễn của Saint-Exupéry, nhưng ông phải buộc lòng viết câu cuối – thể theo một phép lập ngôn mà trạng huống thời đại nọ ở Âu Châu đương đòi hỏi thiết tha, sau những cuộc đau đớn của Saint-Exupéry, của Nietzsche… đã đành lòng chịu mang tất cả những nguyền rủa của nhân gian – để cho trong nhân gian, con người còn có thể sống trở lại.

Đó chính là cái phần Im-pensé (Ungedachte) trong tác phẩm của nhà tư tưởng sâu rộng. Đó cũng chính là cái chỗ xui người tư tưởng đau lòng: “Il n’est pas une vérité qui ne porte avec elle son amertume”.

(Camus): không một chân lý nào không mang theo với mình niềm cay đắng của nó.

Còn đối với những người lơ đễnh, không bao giờ chịu chậm rãi tư lự, thì chúng ta có thể lý luận theo lối trực tiếp này – và như vậy, đành phải cay đắng làm tổn thương Camus một cách tối ư bất công:

Chẳng hạn, ta thử nói thế này: “Ông Camus nghe lộn rồi. Ông bảo: “Nous ne pouvons vivre en haissant”. Chúng ta không thể căm thù đày đọa nhau mà sống được. Nhưng Saint-Exupéry có căm thù ai đâu. Ông căm thù cái thời đại ông đã xui con người này, con người nọ biến thành những sài lang. Mà những thị phi, đen, trắng đều bị xô đẩy lộn phèo đi tất cả. Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên án người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng là với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ. Ông không hề căm giận con người”.

Nhưng lý luận như vậy là lý luận theo lối hời hợt thông thường trên bình diện tục tĩu, rất cần thiết đối với số đông – và cũng làm tổn thương chân lý không phải ít. Vì chân lý uyên viễn bao giờ cũng phải hiện ra trong tính chất bội nhị, hàm hỗn – đó là cái mà người Tây Phương gọi là: La Duplicité de l’Être: tính chất bội nhị của Tồn Thể.

Vì sao như vậy? Đó không phải là điều có thể giải đáp tại đây. Vì vội vã giải đáp tại đây là phản bội câu hỏi ngay – ngay từ trên cơ sở, suy tư vậy. Câu đáp, nó nằm tại trong suy gẫm lặng lẽ của từng người soạn sửa tương ứng về sau.

Và trường hợp: một lời cước chú mà phải chia ra làm hai đoạn, ấy cũng là trong tinh thần tôn trọng tính cách bội nhị của Tồn Thể trường lưu vậy. Nhưng cái “vậy” lặp lại hai lần, ba lượt, bốn phen, năm trận, chưa chắc gì đã đã là cái “hệt”. Vì sao như vậy? Xin bỏ lửng lời đáp. Vì: câu hỏi, tự trong tinh thể của nó đã mang ý nghĩa một lời đáp – theo nghĩa một tặng vật hàm hỗn vô song cánh mây khép mở.

Nói vậy nghe chừng không hợp lý. Nhưng cái Lý nguyên sơ trong tinh thể của nó là gì? Khi cái lý nguyên sơ biến thành luận lý hoặc nhà trường (logique) rồi cái luận lý học nhà trường biến thành tiểu luận lý nhà trại (logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay.

Tôi xin đưa một thí dụ cụ thể, cho thấy cái luận lý nó có thể đưa ta tới Ngõ Cụt nào của lý luận:

Ông Jésus, ông Lão Tử, cũng nhận thấy và nhìn ra rằng trẻ con là Thánh, trẻ con theo cho nghĩa con trẻ, chứ không phải trẻ con là ù lì trẻ con. Mà thánh là kẻ “dạy” người. Vậy thì trẻ con phải dạy người. Ngược lại, người nào đòi dạy trẻ con là người đó làm loạn xã hội, cần phải bài trừ. Muốn bài trừ bọn người đông đảo đó, cần phải tổ chức những đoàn thể lớn, những đảng phái mạnh thì mới có cơ chống nổi và bài trừ. Bài trừ ai? Những kẻ dạy trẻ con. Những kẻ đó là ai? Là giáo sư vậy. Giáo sư ở đâu? Ở tại các nhà trường. Làm sao rúc vào trường để bài trừ họ? Trước tiên, phải đập phá nhà trường!!!

Hỡi ôi! Đó là luận lý!

Jean Wahl bài bác Heideger cũng lý luận gần giống như vậy. Sartre bái bác Camus cũng giống như vậy. (Có chắc hẳn là giống như vậy không? Thưa rằng:không chắc. Vì sao không chắc? Vì mỗi người tư tưởng mỗi đứng ở mỗi ngả ba kỳ diễu, mỗi đi một lần, và mỗi chìm lặng giữa dâu biển tàn phai…Cũng là lỡ một lầm hai. Người còn thì của mới lai rai còn…)

Xin cử ra một thí dụ đơn sơ hơn nữa:

Dịch văn thơ bao giờ cũng phải tôn trọng nguyên tác tận trong mạch ngầm tinh thể của tinh thần nó. Vậy bản dịch đúng tất nhiên phải là bản dịch rất mực phơi mở được tinh túy của nguyên tác trên mọi bình diện nó di chuyển ở mọi chốn, mọi nơi. Và do đó mọi bản dịch đúng về một tác phẩm phải có một nội dung hình thể giống hệt như nhau. Nhưng xét ra, tự cổ chí kim, chưa hề có hai bản dịch của bất cứ một tác phẩm nào, lại giống hệt nhau về cả nội dung lẫn hình thức. Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra bản dịch đúng. Vì cái đúng cái chân xác, bao giờ cũng là chỗ để mọi cái ‘‘phải’’ chịu đồng quy.Mà như ta thấy, trong hàng triệu bản dịch chẳng có bản nào là chỗ đồng quy cho một bản nào. Vậy tất nhiên mọi bản đều sai be sai bét cả. Đã sai, con giữ làm gì. Phải nên vội cã đốt hết mộT cách thật hấp tấp..Không còn một bản dịch nào còn lý do để tồn tại để di hại về sau..

Hỡi ôi! Đó là luận lý! Thật đáng buồn thay.

Bởi đâu mà có tình huống thảm thê nọ? Nguyên do có lẽ bởi vì: chúng ta quên suy gẫm về tiếng tồn tại. Tồn tại không hẳn là tồn lưu. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng lý do. Lý (lý) do không hẳn là Do Lý. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng “hấp tấp vội vã”. Vội vã không hẳn là vội vàng. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng sai và tiếng đúng. Sai không hẳn là quấy; đúng không hẳn là chính xác; chính xác không hẳn là xác thực; xác thực không hẳn là nghiêm mật – nghĩa là lầm lẫn một cách tai hại hai tiếng: l’exactitude và la rigueur. L’excactitute scientifique không phải là la rigueur de la la pensée. Chúng cùng thiết yếu ở lĩnh vực mình, nhưng hoàn toàn không có gì gần nhau – từ trong bản chất. Hai tiếng đó hoàn toàn biệt lập nhau. Tại sao vậy? Có lẽ tại vì, bấy lâu nay người ta thấy chúng gần nhau quá! Và có lẽ nhất là tại nhà tư tưởng biến thành triết học gia. Và triết-học-gia lại quên mất “gia” là “nhà”, mà chỉ còn nhớ “bác” là “học”. Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học. Nhưng khoa học hoằng viễn tự buộc mình phải chọn lĩnh vực mình, mà vẫn nguyện cầu cho nhà tư tưởng phải trưởng thành mà thành tựu cho tư tưởng để cùng nhau góp sức giải cứu con người trong hiểm họa về sau, để cùng mong sớm có ngày trùng ngộ bắt tay nhau qua bốn biển giữa một nhà. Nhưng nhà tan và biển mất. Vâng. Mọi nhà khoa học hoằng viễn hẳn phải nguyện cầu chừng đó. Ngờ đâu nhà tư tưởng lại ưa làm nô lệ ru rú theo đuôi khoa học: lúc nào thấy tư tưởng có-vẻ-không-khoa-học, thì vội vã cho đó không phải là tư tưởng. Do đó, cố công gắng sức làm sao chứng minh cho rõ ràng rằng: tư tưởng của mình thật có tinh thần khoa học một cây! Rồi lại cố công chứng minh một việc thừa, một việc ai ai cũng rõ: phân biệt khoa học và tinh thần khoa học!

Người tư tưởng triết gia nào, trong thời đại chúng ta, mang nặng mặc cảm nhiều nhất đối với khoa học? Ấy không ngờ lại là Merleau-Ponty! Ông khá hơn Sartre ở chỗ ông không có mauvaise foi. Ông thua hẳn Sartre về cái thông minh và tài hoa. Cả hai ông cùng thiếu mất cái tinh thần – là cái cốt yếu của tư tưởng Phương Đông. Phương Đông không hẳn là của riêng đông phương. Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nhân tư tưởng Đông Phương. Parménide, Héraclite, Homère, cũng vậy. Ngược lại người Đông Phương ngày nay phần đông lại là người nô lệ cho Tây Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn là văn sĩ Pháp. Cũng như có những bà đầm đẹp đẽ suốt đời -tức là một trăm năm-viết tiếng Pháp mà vẫn là văn sĩ Việt.

Trở lại với Merleau-Ponty. Xem lại cái bài ông công kích Einstein mà buồn cười vỡ mật. (Và phải bấm bụng nín cho khỏi cười). Và cái việc buồn cười nhất lại là: ông công kích kịch liệt nhà khoa học Einstein mà lại vô tình đưa những luận chứng do tinh thần khoa học hạ đẳng đã ngấm ngầm tác động tâm linh ông ở tiềm thức, mặc dù bao lần ông vùng vẫy để thoát ly. Trường hợp Sartre cũng khó mà phân biệt được là ông cũng quá nhiều mauvaise foi (mauvaise foi không hẳn là ác ý) hoặc là ông ta muốn mở một cuộc đùa- đùa không hẳn là chơi, hoặc chịu chơi trong nhất cuộc kỳ - vâng, một cuộc đùa đồ sộ giữa mê hồn trận hiện đại – theo tinh thần ông gán cho một nhân vật trong đối thoại a u: “Tại sao anh làm điều xấu? Vì điều tốt, thiên hạ tục tĩu đã làm rồi”.

Cái nguy nhất là tới đây, ta lại phải nêu câu hỏi: Biết đâu chính Merleau-Ponty cũng lại thử đùa rỡn-một trận với tinh thần hùng vĩ của Einstein??? Nếu không thì tại sao ông lại lý luận như trẻ con, trẻ con không phải là con trẻ, theo lối Platon bàn việc Thi Ca???

Nêu được câu hỏi đó, là biết luận lý tồn lưu theo nghĩa: luận lý Về cái Lý-Lô-Gô sơ nguyên ban thủy (nên nhớ: sơ, nguyên, ban, thủy, xin được hiểu mỗi tiếng theo hai nghĩa bội nhị khác nhau, hai nghĩa vừa xa vừa gần nhau). Và đó là ẩn ngữ cuangôn ngữ dong điệp nhị trùng.

Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ ràng hơn nữa không? Về cái lối luận lý tồn lưu? Có thể lắm. Xin cử một thí dụ cụ thể về cái lối luận lý tồn-lưu-phiêu-bồng vì rất mực cụ thể mà biến thành siêu thể chân lạc vô vi:

Bấy lâu nay ta nghĩ rằng ta-tư-tưởng. Làm sao có thể tin như thế được? Bởi vì thật ra ta không tư tưởng, mà chính tư tưởng về với chúng ta. Vậy ư? Chính vậy. Ai chẳng thường kinh nghiệm điều này: nhiều lúc ta vò đầu, bứt tóc, ngắt lông, mà nào có nghĩ ra cái tư tưởng nào đâu. Bỗng một bình minh (theo nghĩa bóng: bình minh có thể là hoàng hôn, có thể là nửa đêm gà gáy) bỗng dưng sau một giấc chiêm bao, từ đâu chẳng rõ ta – “A ha! Gặp rồi! Nhận thấy rồi”. Thử hỏi: nếu tư tưởng không về với ta trong chiêm bao mà ứng mộng, theo lối Đạm Tiên về với Kiều, thì làm sao ta lại thấy ra, mà kêu to như thế? Lúc ta tìm thì nó không tới; ta tìm dữ, thì chính ta điên đầu. Sau một giấc chiêm bao ta phiêu bồng theo cánh bướm, bỗng tư tưởng đến với ta như đã đến với Trang Tử, và ta cũng gặp được một chân lý như Trang Tử, hoặc nhỏ hoặc to hơn đôi chút, theo cánh bướm dìu về.

Người bị ảnh hưởng tâm lý học Tây Phương hạ đẳng, sẽ lôi những giải thích lai rai về tâm lý ra mà bác ý kiến trên đây. Họ bảo: “Không thể nói là tư tưởng đến với ta. Chính là ta tìm ra tư tưởng. Bởi đâu? Cứ thử luận lý theo cái thí dụ anh nêu ra. Anh tưởng rằng khi anh ngủ, là anh triệt để ngủ nướng như lá cỏ? Không. Lúc anh ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng mà tư tưởng đến? Không có thế đâu. Vì anh đã từng nghĩ lui, nghĩ tới, nghĩ tỉnh, nghĩ say, nghĩ miên man bồn chồn trong trận ngủ, rồi cuối cùng anh thâu hoạch được kết quả, chớ nào đâu có phải là tự dưng mà tư tưởng mang cái mặt mo tục tĩu của nó đi về mà đến với anh”.

Hỡi ôi. Lời ông bạn thật là chí lý. Nhưng có mà quỷ sứ nó nghe. Bởi đâu? Bởi rằng: hễ người đứng đắn mà nghe câu đó lọt được vào trong cái lỗ tai, thì té ra những lời ông Jésus, ông Lão Tử, tất nhiên phải là sai bét hết. Lời nào của ông Lão, ông Jésus? Xin bỏ lửng lời đáp vậy. Tại sao bỏ lửng? Vì trên đây cũng đã có bỏ lửng một cách không bỏ lửng một chút nào rồi.

- Thôi đừng nói rỡn nữa chứ. Sự thật là thế nào? Có thật là tư tưởng tới với ta không? Hay thật là ta tư tưởng tới?

Đáp rằng: thật ra là thể (không phải thế) thật; thật ra là thể gọi, ta thưa; thật ra là ta tại thể gọi, và tư tưởng tồn thể đáp lời. Ta kêu, và tồn lưu gieo giọt; ta xin uống và tồn lưu ban khen ngọt cho. Vậy thì rõ ràng là hai cách nói đều đúng cả, đúng mỗi bên một cách – là bội nhị tịch hạp song liêm. “Vì trong lẽ phải, có người có ta” là vậy.

Và vì vậy, nên cái chỗ tối cao là vô ngôn, không lời. Hoặc có nói lời thì nói bi bô cà lăm theo lối con trẻ không trẻ con. Hoặc là nói tục tĩu cũng được.

Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sai một con toán, bán một con trâu”. Nên nhớ thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con toán, thì người tư tưởng phải bán hai con trâu. Tôi không thể tự biết mình đã buộc những ông tư tưởng hiện đại phải bán đi mỗi ông là mấy chục con trâu. Nhưng ai ai cũng phải nhận thấy rằng các nhà phê bình – dù chấp nhận, dù kích bác – đã từng buộc tôi bán đứng nhiều nhất là một triệu rưỡi con trâu tồn lưu, và ít nhất là một phần tư con bò tồn thể. Suy rộng ra theo tinh thần đó, chúng ta bỗng chợt thấy rằng từ lâu lắm, người Trung Hoa, người Tây Phương, cũng vì tính sai một con toán tồn lưu, mà Việt Nam và một số bạn hẩm hiu, đã phải bán thật là nhiều con trâu tục tĩu.

Hốt nhiên tôi sực nghĩ thêm điều rằng: chính mình có sai một con ‘‘giế’’mà tự mình dại dột phải bán một con gà? hoặc ba con vịt?

Lại cũng nên nhớ thêm điều này, nó cũng giúp nhiều cho cuộc tồn lưu tư tưởng: Đọc Saint-Exupéry, lúc nào ta thấy ông nói nghe đúng, rành rẽ, ấy chính là chỗ ông phải buộc lòng hạ thấp tư tưởng của mình. Trái lại, lúc nào xem chừng ông viết có vẻ ba rơi hoặc ba gai ba góc, ấy chính là lúc tư tưởng lên tới tột cao tồn thể phiêu bồng. Thí dụ? Như lúc ông nói về cứu cánh và phương tiện là lúc tư tưởng xuống thấp tới mức thông thường. Trái lại, lúc tư tưởng lên cao viễn nhất là lúc ông nói tới gái Sa Mạc Bark, người Maure và Bonnafous. Vì sao? Vì Maure đọc trại ra thành Mô. Mà “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa là tự mình tìm ra lời đáp ngay ở trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô?), vừa có nghĩa xác định lẽ hư vô (Tui có biết chi mô!).

Còn Bonnafous có nghĩa là Bon-à-faire-le-fou. Et comment est le fou? Le fou est foudroyant comme la foudre est ondoyante. (Chấm dứt Cước chú).