← Quay lại trang sách

- VII - (tt) GIỮA LÒNG SA MẠC

4

Tôi đã từng yêu Sahara. Tôi đã từng sống nhiều đêm tại những vùng phiến loạn. Tôi đã từng thức giữa bãi rộng hồng vàng gió đùn nên đợt sóng như trên mặt trùng dương. Tôi đã từng nằm đó chờ người tới cứu, và ngủ dưới cánh phi cơ, nhưng không sánh được với sự vật tại chốn này.

Chúng tôi bước đi bên sườn hông những ngọn đồi cong mỏm. Chất đất gồm toàn là cát phủ kín bằng lớp sỏi đen bóng loáng trông như những vảy kim khí, và tất cả các chỏm đồi xung quanh chúng tôi cũng óng ánh như giáp sắt. Chúng tôi lạc trong một thế giới khoáng thạch. Chúng tôi bị vây hãm trong một khung cảnh sắt.

Vượt qua chóp đồi thứ nhất, thấy xa xa một chóp khác tương tự, cũng lóng lánh đen sì, chúng tôi vừa bước đi, vừa kéo lết gót giày cho sát mạnh vào mặt đất, cốt để đánh dấu con đường, lát nữa mò theo mà quay về. Chúng tôi nhắm thẳng mặt trời mà đi tới. Theo hướng chính Đông, đó là điều quyết định tối ư vô lý của tôi. Không có một lý lẽ nào thích đáng xui tôi nhắm theo hướng đó, bởi vì thảy thảy cùng cho phép tôi nghĩ rằng đã vượt quá sông Nil: cả khí tượng, cả thời gian đã bay. Nhưng tôi đã có thử nhắm theo hướng Tây mà đi một đoạn ngắn, và cảm thấy một nỗi khó chịu, một mối bất an, không biết do đâu. Thế là tôi quyết định gác hướng Tây lại ngày mai. Và tạm thời cũng bỏ qua hướng Bắc, tuy hướng này đưa ra biển. Ba ngày sau, giữa một cơn bàng hoàng mê sảng, khi chúng tôi quyết định từ giã hẳn chiếc phi cơ và bước thẳng tới phía trước cho tới lúc kiệt sức, chúng tôi cũng lại nhắm hướng Đông mà đi. Đúng hơn là nhắm Đông Bắc. Cũng một cách thật vô lý, và thật không hy vọng gì cả. Và sau này, được giải cứu, chúng tôi mới nhận thấy rằng không một hướng nào khác có thể giúp chúng tôi thoát nạn trở về, bởi vì nếu theo hướng Bắc thì nửa đường kiệt lực, chúng tôi không làm sao đi cho tới biển. Nói ra nghe thật là phi lý buồn cười, nhưng quả thật ngày nay tôi cảm thấy dường như rằng trong lúc tịt mù phương hướng, không có một chút chỉ dẫn nào hoặc nhiếp triệu nào để dựa vào mà chọn hướng đi, thì tôi đã chọn hướng Đông chỉ bởi cái lý do duy nhất là hướng đó xưa kia đã từng giải cứu được người bạn thân thiết của tôi là anh Guillaumet, từng rơi lạc trong dãy Andes, nơi tôi đã bay lùng khắp ngả tìm kiếm anh. Từ đó, về sau, đối với tôi, phương Đông đã âm thầm trở thành phương trời của sự sống.

Đi suốt năm giờ, thì phong cảnh thay đổi. Một dãy cát uốn mình như một dòng sông chảy giữa một miền thung lũng, và chúng tôi men theo đáy thung lũng mà đi. Chúng tôi dấn bước thật nhanh, chúng tôi cần đi gấp, đi xa được bao nhiêu hay bấy nhiêu và quay trở về trước lúc trời tối, nếu không tìm kiếm được gì. Bất thình lình tôi dừng lại:

- Prévot.

- Gì?

- Những dấu chân…

Từ bao lâu chúng tôi đã quên không vạch đường làm dấu ở sau lưng? Nếu không tìm lại được lối về, thì chịu chết.

Chúng tôi trở gót, nhưng chếch hướng về phía tay phải. Khi đã khá xa, chúng tôi sẽ đâm ngang theo hướng thẳng góc với hướng ban đầu này, thì thế nào cũng bắt gặp trở lại những dấu chân trên quãng đường có vạch dấu.

Lúc đã tìm lại được mối dây nọ, chúng tôi tiếp tục đi. Khí nóng tăng lên, và cùng với khí nóng, ảo ảnh huyễn hoặc hiện ra. Thoạt tiên chỉ là những ảo ảnh lai rai thôi. Những hồ nước lớn hiện ra và biến mất, lúc chúng tôi vừa tới. Chúng tôi quyết định vượt ngang thung lũng cát, và leo lên chóp đồi cao nhất để quan sát chân trời. Chúng tôi đi đã được sáu giờ. Với những bước sãi rộng kia, ắt là phải đi được hơn ba mươi lăm cây số rồi vậy. Chúng tôi đã lên tới chóp ngọn đồi đen thui nọ, lặng lẽ ngồi xuống. Dưới chân chúng tôi, thung lũng cát bò vào chìm trong một vùng cát hoang liêu không có đá; ánh sáng trắng bạch chói rực như thiêu đốt mắt. Xa tít đằng kia là mù khơi trống rỗng. Nhưng tận chân trời, trò sõa lộng của ánh sáng tạo nên những ảo ảnh hãi hùng hơn. Xui tâm cuồng trí loạn. Những pháo đài đồn lũy, những tháp chuông giáo đường, những khối kỷ hà với những đường thùy trực. Tôi còn nhận thấy cả một vết đen khổng lồ tựa hồ một vùng cây cỏ, với nước ngâm trong vắt, mà thấy gì thật ra? một áng mây tụ trên vòm nọ, áng mây cuối cùng trong những áng mây đã lang thang tan mất hình hài trong lòng nắng rộng ngày trời, và sẽ hiện trở lại ngậm ngùi trên sa mạc chiều nay.

Tiến thêm cũng chẳng ích gì, toan tính bước nữa cũng chẳng đưa tới đâu. Thôi phải liệu quay về bên chiếc phi cơ, cái phù tiêu sặc sỡ đỏ hồng và trắng phếch nọ sẽ không chừng mà được các bạn hữu lưu tâm lần mò tới gạ. Mặc dù chẳng hy vọng nhiều nơi những cuộc tìm kiếm của họ, tôi vẫn cảm thấy đó là chút may duy nhất còn có thể giải cứu được chúng tôi. Và phải về, nhất là bởi lẽ những giọt nước uống cuối cùng, chúng tôi để tại đó, và bây giờ đã tới lúc phải uống, tuyệt đối phải uống, không thể diên trì. Phải về để sống. Chúng tôi là những tên tù bị giam hãm trong cái vòng sắt: cái khát là nước nó vạch biên thùy của một miền tự do tự trị rất mực phù du.

Nhưng khổ não làm sao, là quay gót! Khảm kha thế nào là cái việc lui chân! Vì biết chừng đâu, nếu cứ tiến thêm một chút nữa, có thể bất ngờ thấy cõi sống đương cười xinh. Phía bên kia những dã man ảo ảnh, biết chừng đâu chân trời hồng thắm đương chứa chan những Chợ Lớn phố phường, những Chợ Nồng phố hội, những đô thành thực sự đương lai láng chờ ta, những nguồn tươi nước ngọt, những thủy thảo thúy thanh đương ngẩn ngơ phơi linh hồn cho cỏ mọc đầy đủ hai hàng. Vẫn biết rằng quay trở về là hợp lý. Ấy vậy mà vẫn cảm giác thấy như chừng bẻ lái một lần là trầm luân vĩnh viễn. Hỡi ôi, em giết chết hồn ta trong cái lời kêu gọi.

Chúng tôi nằm bên cạnh phi cơ. Chúng tôi đã đi hơn sáu mươi cây số, và trở về mang đủ hơn sáu mươi cây số ở trong khớp xương chân. Nước uống đã nốc cạn rồi. Mà chân mây biền biệt, chúng tôi nào có nhận ra được cái gì đâu của diễm lệ phương Đông. Không một bạn hữa nào bay ngang trên cõi bờ này cả. Chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu nữa? Ghì môi chống trọi tới bao giờ? Cái khát hoành hành, cháy bỏng suốt thâm tâm…

Chúng tôi góp nhặt vài mảnh vỡ cánh phi cơ, và dựng lên một giàn lớn. Chúng tôi đã chuẩn bị xăng và tồn ma nhê di, để ánh lửa sẽ chói trắng thêm ra. Chúng tôi đã đợi cho đêm tối thật đen rồi mới đốt lửa… Nhưng đâu là bóng dáng con người?

Bây giờ ngọn lửa lên cao. Bây giờ chúng tôi thiêng liêng nhìn ngọn lửa, ngọn đèn hiệu giữa mùa sa. Chúng tôi nhìn tỏa rạng trong đêm cái tiếng kêu của mình, tiếng kêu lặng lẽ âm thầm, tiếng kêu phập phồng lai láng. Và tôi nghĩ: nếu nó mang đi một lời gọi đã rất mực thiết tha, thì nó cũng mang đi những tình yêu vô hạn. Chúng tôi yêu cầu được uống, nhưng chúng tôi cũng đòi hỏi cảm thông. Chỉ con người mới sử dụng lửa, thì xin con người hãy đáp ứng chúng tôi! Một ngọn lửa khác hãy bùng lên, để cho ngọn lửa này không còn là lửa suông trong sa mạc!

Tôi thấy lại hai con mắt vợ tôi. Tôi sẽ không thấy gì nữa ngoài đôi mắt đó. Đôi mắt hỏi gì tôi thế? Tôi thấy lại những con mắt của mọi người, của tất cả những ai còn kỳ vọng ở tôi nhiều, có lẽ… Và những con mắt đó cũng nêu câu hỏi ra. Cả một quần hội nhãn quan đương nhìn và trách tôi sao lặng lẽ. Tôi xin đáp! Tôi xin đáp! Bằng tất cả tinh anh và thể phách, tôi xin đáp bây giờ, trong đêm tối, có bao giờ tôi có thể còn có lần đốt ngọn lửa sáng rực hơn không?

Tôi đã gắng hết sức mình. Chúng tôi đã kiệt tận miên bạc bình sinh: đi sáu mươi cây số, hầu không một ngụm nước vào mồm. Bây giờ trở đi, chúng tôi không còn uống nữa. Nếu chúng tôi không còn đủ sức nhẫn nại chờ mong nữa, thì tội lỗi có phải tại chúng tôi không? Chúng tôi rất có thể ngồi im lìm tại đó, ngoan ngoãn ghì môi bú mòn bình đựng nước. Nhưng ngay cái lúc tôi hút cạn giọt cuối cùng tại đáy thiếc, thì một cái đồng hồ đâu đó đã trỗi dậy lên đường. Ngay cái lúc tôi hít xong giọt cuối, thì một con đường giốc đã mở ra. Tôi bắt đầu lăn xuống. Tôi biết làm sao được, trên cái giòng thời gian như nước lũ cuốn thân tôi. Prévot khóc. Tôi vỗ vào vai anh. Tôi an ủi bảo:

- Nếu chết, thì cho chết…

Anh trả lời:

- Nếu anh tưởng tôi khóc cho thân tôi…

A! Chính thế, tôi đã nhận chân một sự việc hiển nhiên. Không có gì không chịu đựng nổi. Ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ hiểu mãi rằng quả thật chẳng có gì là không chịu nổi. Tôi chỉ tin một phần ở tác dụng của khổ hình. Tôi đã từng suy gẫm về lẽ đó. Tôi đã tưởng phải chết đuối một lần ngày xưa, vì mắc nghẽn trong một phòng máy, và vẫn không thấy đau đớn lắm. Tôi đã tưởng đôi lần bị vỡ mặt, và vẫn chẳng thấy đó là một biến cố trầm trọng chi. Đây cũng vậy, lần này tôi cũng sẽ không biết khắc khoải là gì. Mai đây, tôi cũng sẽ còn được biết thêm nhiều điều kỳ dị hơn nữa. Và chỉ có Trời biết, mặc dù tôi đốt lửa, lòng tôi đã từ bỏ hy vọng gọi thấu tai người…

“Nếu anh tưởng tôi khóc cho thân tôi…”. Vâng, vâng, đó mới là điều không thể nào chịu nổi. Mỗi lúc tôi nhìn thấy lại những con mắt kia đương chờ, mỗi lần lòng thấy như thiêu đốt. Đột ngột muốn đứng lên và chạy thẳng tới trước. Đằng kia, ở đằng kia, con người đang kêu cứu, con người đang đắm thuyền!

Vai tuồng đảo lộn, dị thường thay! Nhưng ý tưởng của tôi luôn luôn là như vậy. Nhưng tôi phải cần có Prévot mới dám tin chắc hoàn toàn. Phải rồi, Prévot sẽ không biết gì tới cái nỗi thống khổ khắc khoải trước tử thần, mà thiên hạ nói tới đã chán tai. Nhưng còn một cái gì đó, anh không chịu đựng nổi, và tôi cũng vậy.

A! Tôi hài lòng chịu ngủ, ngủ ngắn một đêm hay ngủ dài vạn đại. Ngủ được, sẽ không còn nhận được cái chỗ khác nhau. Ngủ được, thì yên bình biết mấy! Nhưng còn những tiếng kêu của thiên hạ ở xa kìa, nhưng còn những ngọn lửa khổng lồ của nỗi đời, tôi không chịu đựng nổi. Tôi không thể khoanh tay trước những cuộc đắm thuyền trầm luân nọ! Mỗi giây dần dà im lặng đều giết một ít những kẻ thân yêu. Một cơn giận dữ điên cuồng nổi dậy: tại sao có những sợi dây xiềng kia cứ lướng vướng ngăn cản tôi, không để tôi chạy tới kịp giờ mà giải cứu những kẻ đương chìm đắm? Tại sao ngọn lửa chúng tôi đốt lên không mang tiếng kêu của chúng tôi tới tận cùng trái đất? Nhẫn nại nhé!... Chúng tôi tới đây rồi! Chúng tôi tới kịp rồi!... Chúng tôi là những người đến cứu!

Chất ma-giê-nhi đã tận, và ngọn lửa chuyển sang màu đỏ. Giờ chỉ còn lại một mớ than hồng, chúng tôi nghiêng mình xuống sưởi. Thế là hết. Lời nhắn gửi sáng ngời của chúng tôi đã tắt. Nó đã khua động được gì? Nó đã giục giã được gì trong cuộc thế xa kia? Ồ! Tôi vẫn biết rằng nó chẳng thôi thúc được gì cả. Chẳng có gì đã từ đó mà xao xuyến tư lự lên đường. Đó chỉ là một lời cầu nguyện không được một ai nghe.

Thôi được. Tôi sẽ xin đi ngủ.

5

Chớm bình minh, chúng tôi lấy một cuộn dẻ xoa vào những cánh phi cơ, thấm lấy những giọt sương đọng, vắt ra được một ngụm nước ở đáy ly lẫn mùi sơn và mùi dầu. Thật đáng buồn nôn, nhưng cứ phải uống. Ít ra thì cũng thấm ướt được hai môi. Tiệc xong, Prévot bảo:

- Cũng may còn khẩu súng lục.

Đột nhiên tôi nổi đóa, tôi tức tối quay lại nhìn anh. Trong lúc này, tôi không căm hờn gì bằng chuyện tình cảm ủy mị. Tôi tuyệt đối cần phải coi mọi sự đều đơn giản. Sinh ra đời, là một điều đơn giản. Lớn lên, cũng là điều đơn giản. Và chết khát, cũng là điều đơn giản. Biến làm ma sa mạc cũng là điều đơn giản.

Tôi đưa khóe mắt liếc chừng, xem xét Prévot, sẵn sàng nặng lời cay cú nếu cần, để buộc anh ngậm miệng. Nhưng Prévot đã nói với niềm bình thản. Anh chỉ bàn tới một vấn đề vệ sinh. Anh nêu sự vụ ra theo điệu nói: “Chúng ta cần phải rửa tay cho sạch sẽ”. Thế là chúng tôi đồng ý nhau. Hôm qua tôi cũng có suy gẫm tới điều đó, lúc nhìn cái bao da khẩu súng. Những điều tôi suy nghĩ chỉ có tính chất hợp lẽ phải, và không thống thiết. Chỉ có chuyện xã hội là thống thiết mà thôi. Chuyện chúng tôi bất lực không làm yên lòng được cho những người mà chúng tôi chịu trách nhiệm. Chứ không phải chuyện khẩu súng lục.

Người ta vẫn không tới tìm chúng tôi, hay đúng hơn, chắc là người ta tìm kiếm chúng tôi ở những chốn khác. Chắc họ tìm tại Arabie. Thật ra chúng tôi đã không nghe được một tiếng phi cơ nào trước ngày mai, nghĩa là vào lúc chúng tôi đã rời bỏ phi cơ của mình. Tới ngày mai sẽ có nghe một bận… Một phi cơ duy nhất sẽ bay qua, và xa xôi quá, chúng tôi hờ hững hoàn toàn. Có nghĩa gì đâu, chúng tôi nhúc nhích tại đây, hai chấm đen heo hút nhòa lẫn trong ngàn vạn chấm đen hút heo giữa sa mạc, chúng tôi mong gì được nhận ra. Những ý nghĩ người ta sẽ gán cho tôi về cái cảnh huống điêu linh này, thật là không xác đáng một tí nào. Tôi không cảm thấy đau đớn điêu linh. Những kẻ đi tìm cứu chúng tôi tưởng chừng như họ vãng lai tuần du trong một vũ trụ mơ hồ khác.

Phải mất mười lăm ngày sục sạo mới tìm ra một chiếc phi cơ lạc lõng, hồn hồn ngạc ngạc rơi vào sa mạc mông lung, tại đâu đó, trong khoảng ngậm ngùi ba nghìn cây số biệt tăm. Ấy thế, chắc là người ta đang tìm kiếm chúng tôi từ miền Tripolitaine tới xứ Perse. Tuy nhiên cho tới hôm nay, tôi vẫn còn giữ chút hy vọng nơi một sự ngẫu nhĩ may mắn mong manh, vì ngoài ra còn có gì đâu khác để hy vọng. Rồi, tôi đổi phương sách mưu lược, quyết định tự một mình một thân đi tìm kiếm. Prévot thì cứ ở lại đây, soạn sửa sẵn một dàn lửa và sẽ đốt lên nếu gặp trường hợp có phi cơ quanh quất tới gần, nhưng rồi chẳng có ai tới gần thăm viếng cả.

Tôi ra đi vậy, và cũng chẳng rõ sẽ còn sức mà trở lại hay không. Tôi nhớ lại những gì đã từng biết về sa mạc Libye. Trong sa mạc Sahara, thì còn có được 40% khí ẩm, nhưng tại đây, khí ẩm chỉ có 18%. mà sinh khí con người ta thì cũng tan mau như khí ẩm. Người Bédouin, khách du hành, sĩ quan thuộc địa, đã cho biết rằng người ta chỉ nhịn khát được trong vòng mười chín giờ mà thôi. Sau hai mươi giờ thì mắt hoa lên, và bắt đầu kết liễu: cái khát đi nhanh như sấm chớp.

Nhưng ngọn gió Đông Bắc, ngọn gió bất thường kia trước đây đã phờ phỉnh chúng tôi, đã bất ngờ hãm chúng tôi vào vùng cao nguyên tử địa này, chính ngọn gió Đông Bắc trớ trêu nọ, giờ đây ắt là kéo dài cái mạng sống của chúng tôi ra đôi chút. Nhưng thời hạn kéo dài là được bao lâu? Bao lâu nữa thì tới cái giờ của mắt hoa đầu choáng?

Tôi đi vậy, đi thôi, đi nữa, nhưng có cảm tưởng như đi trên xuồng nhỏ đơn chiếc lạc loài trên dặm biển trùng điệp đại dương.

Tuy nhiên nhờ ánh sáng rạng đông, cảnh vật cũng bớt phần thê thảm. Và tôi thọc tay vào túi bước đi theo điệu côn đồ trộm cắp. Tối hôm qua, chúng tôi có gài nhiều bẫy quanh miệng vài cái hang bí mật, và sáng nay máu Liệp Hộ lôi thôi đã bừng dậy trong mình. Tôi đi, đi xem xét những cái bẫy coi nào: sao mà trống rỗng?

Thế ra là sẽ không uống được máu? Máu chồn? Máu chuột? Thôi thì cũng được, nào mình có hy vọng gì uống được một phen đâu.

Thất vọng quả là không có, mà trái lại, xem ra trong dạ lại động ý tò mò. Những con thú kia, ăn chi mà sống? Những con thú nọ, lấy chi mà dưỡng dục lẽo đẽo phôi pha? Đào đâu ra lương thực mơ hồ, vì đây là sa mạc? Chắc hẳn những thú kia thuộc loại chồn lùi trong cát, chồn nhỏ sa mạc phiêu bồng, to bằng con thỏ, điểm trang bằng hai vành tai khổng lồ lẽo đẽo mang đi. Nghĩ tới mà thèm, lòng ham nó khêu gợi, tôi bèn lần mò theo dấu một con kia. Dấu ghi trên cát lần hồi dẫn tôi tới một giải sông con bằng cát mịn, để lồ lộ nguyên hình phơi rõ nét những vết chân xiêu. Tôi ưa thích nên trầm trồ cái cánh xòe rẽ quạt của ba ngón mở ra, như cánh là kè tươi xinh phong nhụy. Tôi hình dung trong tưởng tượng người bạn mình yểu điệu nhảy lưa thưa lúc bình minh óng ả, và le chiếc lưỡi hồng mà liếm giọt sương nằm lửng lơ trên đá nhám. Tới đây, tại chỗ này, những dấu chân cách bức: em chồn của tôi đã tung cẳng chạy nhanh. Tại đây, một bạn tình đã nhảy về nhập trận, đôi lứa nhảy song song. Tôi chứng giám cái cuộc chồn yêu nhau bình minh dạo mát, tôi thấy lòng khôn xiết kỳ lạ lâng lâng. Tôi yêu những chứng tích kia của sự sống. Và quên bớt chút ít rằng mình đương ở trong một cơn khát thiết tha…

Bây giờ tôi tới gần những tủ chứa thức ăn của các anh chị chồn. Tại đây sát mặt cát, cứ một trăm thước,lại thấy mọc nhô lên một loại cây nhỏ xíu, khô khan, thấp như một cái xô đựng súp, thân cành thấy bu bám đầy tràn những con sên vàng óng. Mỗi bình minh, anh chồn nhỏ lại tới đây lấy thức ăn. Tại đây tôi bắt gặp một huyền nhiệm thiên nhiên.

Anh chồn không dừng chân lại bất cứ cây nào. Có những cây đầy sên, nhưng anh lại xem thường. Có những cây anh đi vòng quanh quất, ra vẻ thận trọng vô cùng. Có những cây anh ghé tới, nhưng không chạm vào quá đáng. Anh ngắt sơ vài trái, bẻ sơ qua vài đóa, rồi đổi quán ngay.

Phải chăng anh có ý chịu chơi theo lối phiêu bồng: không vội vã làm ngay một vố lăn lóc chán chường, là cốt để kéo dài cái cuộc hưởng thụ thú vui bình minh dạo gót? Tôi không tin như vậy. Cái điệu chơi của anh chồn coi ra thật quá phù hợp với một sách lược tồn sinh tối ư cần thiết. Nếu anh chồn cứ lầm lũi gầm đầu xuống mà đánh chén thật no nê ngay tại trận với những sản vật của cây đầu, thì chỉ trong vài phen thịnh soạn, thì đi đời vốn liếng của sống nhà ma. Và theo lối đó, từ cây bé này tới cây bé khác, anh chồn sẽ lần hồi diệt tuyệt hết cái kho sinh tồn anh chi chút chăn nuôi. Nhưng anh chồn đâu phải là người quá tham nên biến thành dại dột. Anh rất thận trọng kiêng dè đừng có quá ngứa nghề mà làm trở ngại cái bụng mang dạ chửa thai nghén cho ngày sau. Do đó, chẳng những anh một lần ăn là dò dè luôn một trăm cây phân phối, mà anh còn cẩn trọng chẳng bao giờ dám vin vào một cành cây bận mà bẻ tới hai đóa hoa trà mi lân cận một phen. Mọi sự xảy ra đều cho thấy như tuồng anh ý thức được mối nguy cơ tai hại về sau. Nếu đổ vùi ra ăn không dè chừng hạn chế, thì mọi sên mọi ốc sẽ sạch nhẵn trên mâm. Mãnh sên còn một chút này. Chẳng còn cho vững lại giày cho tan? Sên chẳng còn, thì chú cũng tan hoang. Thiệt đây mà có ích cho chàng chút chi đâu.

Dấu chân đưa tôi tới hang chồn chắc đang nằm trong đó vểnh tai lắng nghe, kinh hoàng vì tiếng chân tôi dội tới. Tôi bảo: “Chồn bé của tôi ơi, tôi bẽ bàng mạt lộ, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không vì lẽ đó mà hững hờ không lưu ý tới nông nỗi của chồn đâu…”.[2]

Và tôi đứng mơ màng một trận, và tôi tưởng chừng rằng cái con người ta gặp gì gì đi nữa rồi cũng tìm ra được cái nhịp tiết thích nghi. Nghĩ rằng mình có lẽ sẽ chết ba mươi năm sau, ý tưởng đó không làm tổn thương niềm vui hiện tại. Ba mươi năm, ba ngày… chỉ là một vấn đề quan điểm.

Nhưng cần phải quên đi vài hình ảnh…

Bây giờ tôi tiếp tục đi, và với nỗi nhọc mệt tăng dần, một cái gì trong người tôi cũng biến dạng. Ảo ảnh, nếu chẳng có ư, thì tôi lại tạo ra cho nó…

- Ô ê!

Tôi đưa tay lên mà hú lớn, nhưng cái người tôi thấy múa tay múa chân đàng kia chỉ là một hòn đá đen sì. Mọi vật trong sa mạc đã bắt đầu động đậy. Tôi muốn đánh thức gã Bédouin kia đang nằm ngủ, thì hắn đã biến thành một thân cây đen thui. Thành một thân cây? Thế thời lạ thật. Tôi cúi xuống nhìn. Tôi muốn nâng dậy một cành cây gãy: nó bằng cẩm thạch! Tôi đứng thẳng người lên đưa mắt nhìn quanh quất; thấy bao nhiêu khối cẩm thạch đen khác. Một khu rừng thời thái cổ trút tại đây xiết bao là thân cây gãy đổ. Nó tan tành như một tòa nhà thờ lộng lẫy tan hoang, kể từ vạn kỷ lòng em nhớ lòng anh tơi tả dưới phong ba cuồng loạn thai nghén khởi nguyên. Và vạn kỷ đã xô về từ nguyên thủy tới bên tôi những cột trụ khổng lồ, nhẵn nhụi kia, bóng ngời như những thanh sắt thép, cứng rắn im lìm, lóng lánh như gương, màu đen như mực. Tôi còn nhận ra những gút mắc của cành, những quằn quại hoại sinh, những vết ngần thai nghén. Khu rừng hoang sơ vốn xưa kia là dạt dào sinh động, suối phong tình, chim nhã nhạc, liễu phiêu diêu… mà về sau gặp hung vận, đã tan tành hóa làm chất muối. Tôi cảm thấy phong cảnh này chẳng niềm nở với tôi. Nó gay gắt chối từ không tiếp đón. Đen đủi hơn những lớp giáp sắt bọc những ngọn đồi kia, những di tích hoang tàng này không dung nạp cái thằng người tôi tới viếng. Tôi tới đây làm gì, tôi là sinh vật, tôi định mở cuộc gì giữa hàng hàng cẩm thạch trơ trơ? Tôi, con vật phù du, tôi, cái hình hài sắp tan biến, tôi định giở trò gì nữa phong cảnh của vô cùng, mà chỉ riêng vạn đại được quyền đối thoại với thiên thu?

Từ bữa hôm qua tôi đã vượt gần tám mươi cây số. Tôi choáng váng thế này chắc là tại quá khát nước chăng. Hoặc vì nắng đốt. Nắng mặt trời chói rực trên những cột thân cây bóng lộn và như cóng giá vì dầu xoa mỡ xát. Nắng mặt trời chiếu rực trên ân tình cái mu gộp mênh mông phủ tràn lan trên mọi vật. Đây không còn cát, đây chẳng còn chồn. Đây chỉ còn có một cái đe đồ sộ. Tôi đang bước đi trên hòn đe đó. Và ở trong đầu mình, tôi nghe rõ tiếng nắng trời ròng rã dội từng cơn. A! Kia kìa…

- Ô ê! Ô ê!

- Ô ê cái gì, đằng kia chẳng có chi cả, đừng có lao xao hoài hơi nhọc khí, chẳng có gì hết, chỉ có mộng cuồng mê dại mà thôi.

Tôi tự nhủ mình, tôi cần tự nhủ mình, tôi cần bám vào lý trí trong lúc tâm thần đương bấn loạn trở cơn. Khó khăn làm sao, là cái việc phải xoa tay chối từ cái vật, cái đồ mà con mắt thấy. Khó khăn làm sao, là cái việc tự hãm hai chân mình, đừng để cho nó chạy ù tới cái tốp người du hành đang tiến bước đằng kia… kia kìa… mày đang thấy đó!

Ngốc ơi là ngốc, mày cũng biết chứ, là chính mày ngốc nghếch tạo đủ thứ vật này, bày đủ loại đồ nọ, đồ kia…

- Thế thì chẳng ra mọi sự ở đời chẳng có chi là thật…

Chẳng có chi là thật, ngoài cái thập tự giá ở đằng kia, cách tôi hai mươi cây số, cắm ở chóp ngọn đồi, chờ đợi, đăm chiêu… Cái thập tự giá kia, hay là cái ngọn hải đăng ấy…

Nhưng phía đông không phải là hướng đi ra biển. Vậy không phải hải đăng. Chính là thập tự giá. Suốt đêm qua tôi cặm cụi trên bản đồ mà nghiên cứu. Chỉ tổ hoài công. Bởi vì vị trí hiện tại của mình là đâu, tôi nào có biết. Nhưng tôi gò lưng kiếm mãi một chút gì, một chút gì là dấu hiệu chỉ rõ sự hiện diện của con người ta. Và đâu đó, tôi có nhận ra một cái khoảng tròn có ghi dấu chữ thập tương tự thế này. Tôi có xem lời chú giải bên dưới: “Tu viện”.

Bên cạnh chữ thập, tôi còn thấy một chấm đen. Tôi lại nhìn xuống câu chú giải mà đọc: “Giếng Thường Xuyên”. Tim tôi nhói lên một cái, máu phập phồng đập liên hồi một trận, và tôi cất cao giọng đọc to: “Giếng Thường Xuyên… Giếng Thường Xuyên… Nước Thường Trực… Uống Thường Hằng…Ôi! Mộng tưởng ra hoa! Ôi, ảo huyền kết trái!” Hỡi Ali Baba! Hỡi những kho tàng man dại! Có bao giờ của cải nào mà sánh kịp giọt giếng ngần là nước chảy thường xuyên! Lệch xa hơn một chút, tôi lại còn o bế nhìn thật rõ hai khoanh tròn trắng muốt. Tôi liếc dòm xuống dưới đọc lời ký chú đinh ninh: “Giếng bất thường”. Giếng bất thường thì đã là bớt đẹp. Giếng bất thường thì nước xòa ra nhất thời là thỉnh thoảng. Rồi xét soát bốn xung quanh chẳng còn gì nữa cả. Chẳng còn chút chi hết.

Thì kia kìa là tu viện của tôi! Các tu sĩ đã dựng lên một cây thập giá trên chóp đồi là để gọi bọn trầm luân? Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là bước nhanh lại chớ. Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là chạy thẳng lại chớ sao. Nào, các vị tu sĩ dòng Đa Minh, hãy mở vòng tay ra đón…

- Nhưng tại Lubye chỉ có những tu viện bổn xứ mà thôi.

- … Chạy tới những tu sĩ ân cần chuyên chú Đa Minh. Họ có một căn nhà bếp lộng lẫy tươi mắt, nền gạch đỏ, và ngoài sân có một cái bơm nước hoen rỉ cũ càng ấy, anh hẳn là đã đoán ra được đó… dưới cái bơm nước hoen rỉ cũ kỹ tuyệt vời huyền diệu kia, đó là đúng cái giếng thường xuyên dào dạt vậy! A! Chốc lát đây thôi thì đó là ấy sẽ… sẽ tưng bừng hội hè yến tiệc nghi lễ hoan nghênh lúc tôi tới dội chuông ngoài cửa rộng, lúc tôi lại gần đưa tay ra nắm và giật một cái vào đồ sộ cái chuông…

- Thôi thì thằng ngốc! Mày mô tả gì đó! Mày lầm bầm mô tả một ngôi nhà ở cố quận Provence [3] mà kể ra thì tại đó có chuông khánh gì đâu.

- … Lúc tôi sẽ đưa tay ra giật cái chuông đồ sộ kia một cái! Người gác cửa sẽ chắp tay đưa lên trời và kêu to một tiếng: “Ông là sứ giả Nhà Trời! Ông là Thiên sứ do Ngọc Hoàng sai xuống!” và anh ta sẽ ríu rít gọi toàn thể các vị thầy tu. Họ sẽ tức tốc chạy tới. Và họ sẽ đón mừng khoản đãi tôi như o bế nâng niu một đứa bé con nghèo đói. Và họ sẽ đẩy tôi khẳng khiu đi về phía căn nhà bếp lai láng khói nồng. Và họ sẽ bảo tôi: “Một phút, một giây, một giây phút nữa thôi, con ạ… chúng ta sẽ chạy tới cái giếng nước ngọt thường xuyên…”.

Và tôi, tôi sẽ run như cầy sấy vì hồng phúc như dế giun chan rưới mộng điên cuồng.

Nhưng không, tôi không muốn khóc chỉ vì lý do duy nhất là chẳng còn đâu nữa cái thập tự giá ở trên đồi.

Những hứa hẹn của phương Tây chỉ là những lời phờ phĩnh. Tôi bèn xoay sang chính Bắc.

Phương Bắc thì ít nữa cũng còn lai láng tràn đầy điệu hát của trùng dương.

A! Cái chóp đỉnh kia, một phen đã vượt qua rồi, chân trời liền dàn rộng. Đây, đô thị lộng lẫy nhất trần gian.

- Mày thừa biết đó là ảo ảnh…

Tôi thừa biết quá rõ đó là ảo ảnh. Tôi, ai phờ phỉnh được tôi. Nhưng nếu tôi thích, tôi ưa chìm thân vào sâu trong ảo ảnh? Nếu tôi thích yêu dấu cái đô thị với những thành quách điệp trùng, tráng lệ dưới ánh trời, rực thắm như cờ treo? Nếu tôi thích bước đi, đi thẳng, theo nhịp chân dìu dặt nhẹ nhàng, nhân vì cơn mệt nhọc đã tiêu tan, nhân vì lòng tôi vui sướng… Prévot và khẩu súng lục, ồ, hãy cho tôi cười khì chơi chút nhé! Tôi nói sai rồi. Tôi chết khát!

Hoàng hôn tới, xua đuổi cơn mê. Tôi tỉnh táo ra. Tôi dừng chân đột ngột. Tôi giật mình nhận thấy đi đã quá xa. Hoàng hôn xuống, ảo ảnh tan. Hoàng hôn về, ảo ảnh chết. Chân trời đã trút bỏ bóng xiêm nghê. Hết huy hoàng cung điện, hết lễ phục giáo đường. Chân trời chỉ còn là chân trời sa mạc.

- Mày chơi lung đã lắm! Đêm tối sắp tới thộp mày rồi, mày sẽ bó gối ngồi im chờ trời mai sáng, và ngày mai những dấu chân mày sẽ bị xóa mất, và khắp chân trời mặt biển, mày sẽ chẳng còn tăm dạng tại chốn mô.

- Đã thế thì nên! Thôi thà cứ dấn thân bước thẳng tới trước… Quay trở lại nữa mà làm gì? Tôi không muốn bẻ lái quay thuyền, vì biết đâu chính bây giờ là lúc tôi sắp mở, lúc tôi đang đã mở vòng tay mình trước mặt biển mênh mông…

- Mày đã nhìn thấy mặt biển tại đâu? Mà có bao giờ mày sẽ ra tới biển? Ba trăm cây số có lẽ hẳn chắc đương chia biệt mày với biển khơi. Và Prévot đang lò dò đợi chờ thấp thỏm bên cạnh chiếc Simoun! Và có lẽ, biết đâu, Prévot đang được một đoàn người viễn du chớm thấy…

Vâng, tôi sắp quay trở về, nhưng trước khi quay về, tôi xin thử kêu con người ta:

- Ô ê!

Trái đất này, trời ôi! Dù sao vẫn còn có con người ta cư trú…

- Ô ê! Người ta ơi!

Tôi khan giọng. Tôi gọi không ra lời. Tôi kêu không còn tiếng. Tôi thấy mình sao dơ dáng dại hình kêu gọi mãi thế ru?... Tôi hét to lần nữa:

- Người ta ôi!

Đó nghe sao mà khoa trương khoác lác tợn.

Và tôi quay về.

Sau hai giờ bước đi, tôi ngó thấy ngọn lửa Prévot đốt lên; anh đã kinh hoàng tưởng tôi lạc lối, đốt tung lên trời. A!... Mọi cái đó giờ đây tôi xiết bao lạnh nhạt.

Thêm một giờ nữa bước đi…. Còn năm trăm thước. Còn một trăm thước. Còn năm chục thước.

- A!

Tôi đờ đẫn đứng lại, sững sờ. Niềm vui sắp dâng ngập máu tim, trào qua trái phổi. Tôi kiềm hãm cơn mãnh liệt dậy cuồng. Prévot, sáng ngời trong ánh lửa, đương trò chuyện với hai người Ả Rập đang tựa lưng vào máy phi cơ. Anh chưa ngó thấy tôi. Anh đang còn rộn rã bởi niềm vui của mình. A! Nếu mà tôi chịu ngồi chờ như anh… thì đã sớm được tung trời cất cánh! Tôi vui sướng kêu to:

- Ô ê!

Hai người Bédouins giật mình đánh thót một cái nhìn tôi. Prévot rời họ và tiến lại một mình. Tôi mở rộng hai tay. Prévot nắm giữ cùi tay tôi, thế ra tôi suýt ngã? Tôi bảo:

- Hì hì, tuyệt đó!

- Gì?

- Mấy người Ả Rập!

- Ả Rập nào?

- Những người Ả Rập ngồi đó, với anh!...

Prévot nhìn tôi một cách kỳ cục và tôi có cảm tưởng anh đang buộc lòng thổ lộ với tôi một chuyện bí mật khổ nhọc nặng nề:

- Không có người Ả Rập nào cả…

Chắc hẳn lần này tôi sắp khóc.

6

Tại đây người ta sống được mười chín giờ không uống nước, và chúng tôi kể từ chiều hôm qua, chúng tôi đã uống được gì? Vài giọt sương buổi sáng. Nhưng ngọn gió Đông Bắc vẫn còn thổi luôn, nên chúng tôi chưa đến nỗi phải bốc hơi mà tan lìa thể phách. Ngọn gió kia cũng là tấm đá ngăn cản, giúp cho thành tựu cuộc tụ hội trên cao của những đợt mây trên trời. Mây ôi! Nếu mây cao hứng tạt về đây cho gần ta một chút, rồi đổ một trận mưa ngàn thu rớt hột cho cùng! Nhưng có bao giờ mây về chịu mưa trên sa mạc.

- Prévot, ta lấy cái dù phi công cắt thành từng mảnh tam giác. Ta sẽ lấy đá chằn ba góc và dọc ba cạnh những mảnh kia cho chúng nằm lì trên mặt đất. Nếu gió không xoay chiều, thì sáng mai ta sẽ. Ta sẽ vắt các mảnh vải ấy ra cho giọt sương nó rơi vào trong cái thùng chứa xăng thì ta hứng lấy…

Chúng tôi căng hàng dài sáu tấm vải trắng đó dưới trời cao. Prévot phá một thùng chứa xăng ra. Chúng tôi chỉ còn ngồi chờ sáng.

Prévot có mò ra được đâu trong đống mảnh vụn một trái cam kỳ ảo đi về. Chúng tôi chia nhau. Tôi choáng váng tê mê, nhưng một quả cam là bao nhiêu lắm, trong lúc chúng tôi cần hai mươi lít nước.

Nằm duỗi bên nhóm lửa đêm thân thiết, tôi nhìn cái quả nọ long lanh và thầm nhủ: “Con người ta chẳng hề hiểu trái cam là gì…”. Tôi cũng tự nhủ: “Chúng tôi chịu hãm trong nguy cơ không thể nào thoát nổi, biết chắc chắn là như vậy mà vẫn không bỏ mất niềm hoan lạc thơ ngây.

Nửa quả cam tôi cầm siết ở trong tay đang đem lại cho mình một nỗi vui lớn rộng, trăm năm đây là một trong mấy lần mình vui nhất…”. Tôi nằm duỗi ngửa thân ra, tôi hút từ từ như bé con bú sữa, tôi đếm trên trời những ngôi sao băng. Một phút này, tôi nghe mình tràn lan sung sướng. Và tôi tự nhủ nữa: “Cõi đời mà ta sống ở trong, cõi đời mà ta nằm ở trong mỗi tổ chức, ta không thể đoán nó thế nào nếu chính thân mình không bị mắc nghẽn vào trong đó”. Chỉ hôm nay tôi mới hiểu được cái điếu thuốc và cái cốc rượu rhum của kẻ tử tù. Trước kia tôi không quan niệm được sao chàng ta lại chấp nhận cái chuyện khốn đốn não nũng kia. Thế mà chàng ta vẫn lấy làm vui khoái lắm. Người ta tưởng chú nọ can đảm nếu thấy chú mỉm cười. Nhưng chú mỉm cười là cười vui vì uống nên cốc rượu thú Rhum đây, ồ… Người ta không biết rằng chàng ta đã đổi nhãn quan trong viễn tượng, và chàng đã nằm trên cái giờ chung cục nọ mà làm nên đủ mọi cõi trăm năm.

Chúng tôi hứng được một mớ nước khổng lồ: hai lít có lẽ! Thôi là hết khát nước rồi! Chúng tôi thoát nạn rồi! Chúng tôi được giải cứu! Chúng tôi sắp uống cho đời xem!

Tôi múc trong thùng chứa ra đầy một chén thiếc, nhưng thứ nước này sao mà màu vàng tươi pha bạc, và hớp một ngụm đầu, ôi thôi ghê tởm quá, quá vô chừng, cho đến nỗi dù khát nước đến chết người, tôi nuốt vẫn không trôi, phải dừng lại nghỉ hơi rồi gắng nuốt cho vô lần nữa. Phải đâu tôi khó tính. Lúc này, gặp bùn hôi cũng uống hết, nhưng cái vị kim khí chứa cái chất độc giết người này, thì khát nước tới đâu cũng lắc đầu xin chịu.

Tôi nhìn Prévot. Anh đương xoay quanh, mắt trố nhìn sững xuống đất như đang chăm chú tìm tòi vật gì. Thình lình anh cúi gập người và nôn ọe, vẫn không ngừng quằn quại xoay quanh. Nửa phút sau, tới lượt tôi. Gân cốt giật như cuồng, tôi quỵ xuống hai gối, mười ngón tay chỏi sâu trong cát. Chúng tôi không nói với nhau lời nào, suốt mười lăm phút, hai đứa chịu đọa đày khốn đốn như vậy, chỉ còn nôn ọe ra một ít mật xanh.

Bây giờ đã xong. Chỉ còn thấy vương vấn buồn nôn nhẹ nhẹ. Nhưng chúng tôi đã mất đi niềm hy vọng cuối cùng. Tôi không biết bởi đâu mà rủi thế, đầu đuôi hỏng bét là tại lớp sơn phết vải dù, hoặc tại lớp Tétachlorure de carbone tụ ở đáy thùng chứa. Đáng lẽ nên có một thùng chứa khác, hoặc thứ vải khác.

Thôi, trời sáng rồi, hãy vội vã lên đường. Chúng ta hãy liệu mà trốn gấp ngọn đồi yêu nghiệt điêu linh này, và bước nhanh, bước thẳng tới trước, cho tới lúc ngã quỵ thì thôi. Cái gương anh Guillaumet còn đó, tôi xin noi theo: tôi nghĩ tới anh rất nhiều, kể từ hôm qua. Tôi không tuân mệnh lệnh buộc phải tuyệt đối ở mãi bên cạnh phi cơ nát máy nằm lì. Ai còn tới đây mà tìm kiếm chúng tôi nữa.

Một lần nữa, chúng tôi nhận thấy mình chẳng phải là kẻ lâm nạn chới với. Kẻ lâm nạn chới với là những kẻ đang đợi mong! Những kẻ đang bị hăm dọa bởi cái nguy cơ là: chúng tôi nín tiếng. Những kẻ đã chịu đọa đày tan nát vì một nhầm lẫn gớm guốc đang lung trạo trần gian. Không thể không chạy nhanh về tiếp cứu. Guillaumet ngày thoát ra khỏi dãy Andes trở về, cũng từng bảo tôi rằng anh đương chạy tới tiếp cứu những kẻ lâm nguy! Đó là một chân lý thiên thu trong thiên hạ.

Prévot bảo:

- Nếu tôi sống một mình ở đời thì tôi sẽ nằm xuống tại đây.

Chúng tôi bước thẳng tới trước theo hướng Đông Đông Bắc. Nếu quả chúng tôi đã vượt quá sông Nil, thì mỗi bước tiến bây giờ mỗi đưa chúng tôi vào sâu thêm trong mù khơi sa mạc Ả Rập.

Tôi chẳng còn nhớ gì nữa về cái ngày hôm đó. Tôi chỉ nhớ bước đi hấp tấp của mình. Bước đi hấp tấp tới bất cứ cái gì. Bước đi hấp tấp tới chỗ đảo điên quỵ xuống. Bước đi hấp tấp tới khuynh đảo toàn sòng. Tôi cũng còn nhớ đã bước đi cúi gầm đầu nhìn xuống đất, tránh ngó những ảo ảnh chập chờn trước mặt quá buồn nôn. Thỉnh thoảng coi lại địa bàn mà sửa hướng bước chân. Và tôi lúc nằm duỗi thân trên cát để thở chút ít. Tôi cũng đã quẳng mất đâu đó tấm áo cao su mang theo mình để mặc ban đêm. Tôi không còn nhớ gì thêm nữa. Những kỷ niệm lãng đãng chỉ tiếp nối được nhau là với bầu khí mát chiều hôm. Bỗng linh hồn lai láng. Thân thể mình nào có khác chi cát đâu, và tất cả trong thân mình đều theo nhau xóa mất.

Chiều xuống. Chúng tôi quyết định nghỉ chân. Mặc dù vẫn biết là cần phải đi, đi nữa: đêm nay không nước uống, là kết liễu cuộc đời. Nhưng chúng tôi có mang theo bên mình những tấm vải dù. Nếu chất độc không do sơn phết dù, thì rất có thể sáng mai chúng tôi được một phen uống nước. Cần phải căng rộng dưới bóng sao trời, phen này một phen nữa, mấy cái bẫy để bắt hột sương trời rơi xuống tự vòm cao.

Nhưng ở phương Bắc, bầu trời tối nay xanh quá, vắng bóng mây bay. Gió đã thay mùi. Gió cũng đã thay luôn phương hướng thổi. Hơi thở nồng nã của sa mạc đã đi về mò mẫm châu thân. Con thú dữ đã trở mình tỉnh giấc! Nó đương ôn tồn nhè nhẹ liếm bàn tay, khuôn mặt chúng tôi…

Nhưng nếu cứ miệt mài đi nữa, cũng không thêm được bao nả chặng đường. Mười cây số là nhiều. Từ ba ngày nay, không uống một giọt, chúng tôi đã vượt hơn một trăm tám mươi cây số…

Nhưng lúc dừng chân, Prévot bảo:

- Tôi thề với anh, đằng kia chính là một cái hồ đó.

- Anh điên rồi!

- Giờ này hoàng hôn rồi, đâu có lẽ còn ảo ảnh?

Tôi không đáp gì cả. Tôi đã nhất thiết chối từ không tin con mắt mình, nhất thiết từ lâu. Đó không phải là ảo ảnh, có lẽ, nhưng nếu vậy thì đó hẳn là cái hình hài trong cơn điên rồ được tạo. Làm sao Prévot còn dám tin?

Prévot vẫn bướng:

- Chỉ cách hai mươi phút, tôi phải tới xem…

Tôi nổi đóa:

- Cứ tới xem đi, cứ dạo cho mát ống chân và lá phổi đi… tốt lắm. Vệ sinh lắm đó. Nhưng nếu cái hồ của anh có thật, thì đó là hồ nước mặn. Nhớ cho điều đó nhé. Và mặn, hay ngọt, hay chua, nó là cái hồ của nhà ma cửa quỷ. Có hay không, cứ mà tới tìm, cho sáng hai con mắt ra.

Prévot hai mắt mở trân trân, đăm đăm nhìn, bước tới. Anh đã xa rồi. Ôi những quyến rũ tối thượng lôi cuốn hồ đồ kia, tôi biết lắm! Tôi ngồi tôi nghĩ: “Cũng còn lắm kẻ mộng du bị “mụ” nào hấp dẫn, nắm mắt lao mình vào dưới bánh xe lửa đương lăn”. Tôi biết là Prévot sẽ không trở lại. Cái cơn tình điên choáng váng nghe theo hư không nhiếp dẫn mà liều cuộc tử sinh! Anh sẽ bị mê hoặc, và anh sẽ không thể quay gót tháo lui. Và anh sẽ té xỉu tại một chốn gần xa đâu đó. Và anh sẽ chết phía anh và tôi sẽ chết phía tôi. Và thảy thảy những điều kia, thôi cũng chẳng chút gì quan trọng nữa!...

Tôi hờ hững đến thế sao? Đó là triệu chứng gì? Hẳn là chẳng tốt lắm. Chết đuối nửa chừng, tôi cũng đã có bận thấy lòng dửng dưng như thế. Nhưng tôi lợi dụng sự bình thản phen này mà viết một thiên tuyệt bút để gọi là để lại mai sau. Tôi nằm dài lên cát, úp sấp hình hài. Lá thư tuyệt mệnh thật hay. Thật hào hoa trang nghiêm rất mực. Rất tràn đầy những khuyến cáo tốt tươi hiền nhân ai là chẳng! Đọc lại mà thấy mơ hồ khoái thích như tuổi trẻ kiêu sa. Mai sau thiên hạ đọc vào, sẽ bảo nhau rằng: “Đó là tuyệt vời một thiên tuyệt bút. Hỡi ôi! Người tao nhã đã vội ra đi! Cho hào hoa ngậm ngùi ở lại! Tiếc thay!”.

Tôi cũng còn muốn biết mình đã ra sao bây giờ. Tôi thử gắng đưa môi liếm miệng cho nước miếng tiết chút ra răng: Từ bao nhiêu giờ tròn tôi không nhỏ bọt? Nước bọt khô cả rồi. Tôi không còn chút nước bọt nào nữa cả. Nếu tôi khép miệng lại thì một chất dẻo bít mất hai môi. Nó khô queo, khô quánh, đọng thành một vòm vỏ cứng bọc môi, không mở ra được nữa. Tuy nhiên, tôi cũng còn gắng nuốt trôi bọt xuống cổ một vài phen bỡ ngỡ. Và hai mắt cũng chưa đến nỗi đổ đôm đốm quáng lòa. Tới bao giờ lâm vào tình huống được ngó thấy cảnh tượng rạng ngời lấp lánh kia, ấy là giờ chung cục chỉ còn hai giờ diên trì thời hạn.

Trời tối. Vừng trăng đã nở nang tròn khuôn từ tối trước. Prévot không trở lại. Tôi nằm ngửa duỗi dài và nghiền ngẫm những sự hiển nhiên này. Tôi nghe thấy lại trong mình một cảm giác cũ xưa. Tôi tìm cách xác định. Tôi là… Tôi là… Tôi là cái kẻ đáp tàu [4]. Tôi lên đường sang Nam Mỹ, thì nằm thế này nào có khác chi nằm trên boong thượng đẳng của tàu rộng rẽ sóng mà đi. Đỉnh cột buồm lắc lư ngao du ngang dọc, thung dung một cách(!) qua lại giữa ngàn sao. Tại đây quả có thiếu một cột buồm, dù sao tôi cũng là đương đáp tàu vậy đó, để đi về một phương trời cứu cánh, không còn tùy thuộc ở những gắng sức của thân tôi. Một bọn buôn hắc nô đã tóm lấy tôi, bó trói tay chân tôi mà quẳng lên một con tàu.

Tôi nghĩ tới Prévot đi không quay về. Tôi chưa hề nghe anh than thở một lần nào. Tốt lắm đó. Nếu phải nghe anh than van, ắt là tôi không chịu đựng nổi. Prévot đúng là một con người.

A! Anh đang lắc đèn qua lại, ở cách tôi năm trăm thước. Anh lạc đường mất dấu! Tôi không có đèn bấm lên để đáp hiệu, tôi đứng giậy, tôi kêu to, nhưng anh không nghe tiếng…

Một ngọn đèn thứ hai bỗng thấy bật đỏ lên cách ngọn đèn Prévot hai trăm thước, rồi một ngọn đèn thứ ba. Thượng Đế Chí Tôn ơi! Cả một cuộc săn tìm tại đó, thiên hạ đang kiếm tôi đó.

Tôi gọi to:

- Ô ê!

Nhưng người ta không nghe thấy.

Ba ngọn đèn vẫn liên tiếp lấp lánh ra hiệu.

Tôi không điên, đêm nay quả thật tôi không điên, tôi cảm thấy mình khỏe khoắn minh mẫn vô cùng. Tôi rất yên bình, thanh thản. Tôi nhìn chăm chú. Rõ ràng ba ngọn đèn ở cách tôi năm trăm thước.

- Ô ê!

Nhưng người ta vẫn cứ không nghe thấy tiếng tôi kêu.

Tôi bỗng hoảng hốt một cơn ngắn. Nỗi kinh hoàng độc nhất từ đó về sau. A! Tôi còn có thể chạy được: “Chờ tôi với… Chờ tôi với!...”. Họ sắp quay gót đi nơi khác! Họ sắp đi xa, tìm kiếm ở một chốn khác, mà tôi thì sắp té nhào tại ngay ngưỡng cửa cuộc sống, chính vào lúc đương có những bàn tay mở rộng đón tôi!...

- Ô ê! Ô ê!

- Ô ê!

Họ đã nghe thấy rồi. Tôi ngộp thở, tôi ngộp thở nhưng tôi vẫn còn chạy mãi. Tôi chạy theo hướng vừa dội lên tiếng “Ố ê!”, tôi nhìn thấy Prévot và tôi quỵ xuống.

- A! Lúc tôi trông thấy tất cả những ngọn đèn kia…

- Đèn nào?

- Quả thực, đèn nào? Prévot một mình trên cát.

Lần này tôi không cảm thấy tuyệt vọng, nhưng âm ỉ tức tối.

- Còn cái hồ nước của anh!

- Nó lùi xa thêm lúc tôi tiến tới. Tôi bước theo nó suốt nửa tiếng đồng hồ. Sau nửa tiếng đồng hồ, thấy nó quá xa. Tôi bèn quay trở lại. Nhưng bây giờ thì tôi càng tin chắc chắn rằng đó là một hồ nước…

- Anh điên rồi, tuyệt đối điên rồi. A! Tại sao anh lại làm thế… Tại sao?

Anh ta đã làm chi? Tại sao anh ta lại làm thế? Tôi tức quá trào nước mắt ra, và không hiểu tại sao mình tức quá. Và Prévot giải thích, bằng một giọng nghẹn hơi, khản cổ:

- Tôi muốn tìm cho ra nước, muốn uống quá… môi anh bạc phếch cả rồi!

A! Cơn giận chợt tan… Tôi đưa tay sờ qua trán. Như vừa chợt tỉnh giấc, và cảm thấy rất buồn. Và tôi dịu dàng kể lại:

- Tôi có thấy rõ như anh thấy bây giờ, tôi có thấy rõ ràng ba ánh đèn, rõ rệt không thể nào nhầm được… tôi nói thật với anh là tôi quả thật có thấy ba ánh đèn thật, Prévot ạ!

Prévot lắc đầu im lặng. Sau cùng anh thú thật:

- Vâng, vâng. Hỏng cả rồi.

Đất bốc hơi nhanh, nguội đi rất chóng, giữa bầu khí khô khan không chất ẩm tại nơi này. Đã thấy lạnh vô cùng. Tôi đứng lên, và bước. Nhưng liền đó bỗng té run lên như cầy sấy, khó chịu dị thường. Máu trong mình mất hết chất nước, tuần hoàn quá khó khăn, băng giá u hàn thấm nhập vào thân, cái lạnh này không chỉ là cái lạnh của đêm thâu. Hai hàm răng chạm nhau lập cập, toàn thân tôi như giẻ giun run rẩy không ngừng. Đèn bấm có đó cũng bằng thừa, vì bàn tay lẩy bẩy chẳng bấm vào đâu được. Tôi vốn không bao giờ dễ cảm thụ cái rét, thế mà sắp phải chết vì rét, tác dụng của cái khát kể thật là mãnh liệt dị thường!

Tôi đã quẳng đâu đó cái tấm áo cao su, vì mang theo mãi bên mình giữa trời nóng, đã mệt lả. Và gió bây giờ mỗi lúc mỗi trầm trọng lên cơn. Và tôi nhận thấy rằng trong sa mạc không làm sao tìm ra một nơi trú ẩn. Sa mạc phẳng lì trơn láng như cẩm thạch. Không có bóng cây gieo ban ngày, và ban đêm thì sa mạc xô ta trần truồng vào giữa gió. Không một cành cây, không một ngõ trúc, không một giậu thưa, không một tảng đá láng để nấp mình. Gió tấn công tôi, tha hồ mặc sức, như một đoàn kỵ binh trút đạn nơi trận tiền trống vắng. Tôi chạy quẫng, chạy quàng vòng quanh để lẩn tránh. Tôi nằm nép xuống, tôi lại đứng vùng lên. Đứng hay nằm, đằm thân hay giậy thể, vẫn phó mình cho ngọn roi giá buốt mặc sức quất vào da. Tôi không thể chạy, tôi kiệt tận sức lực rồi, tôi không thể trốn tránh bọn sát nhân và tôi quỵ xuống trên đầu gối, hai tay ôm lấy đầu nép mặt dưới kiếm đao!

Tôi nhận ra tình huống đó, một lát sau; tôi đứng lên, bước thẳng tới trước mặt, vẫn lập cập run hoài! Tôi hiện đang ở tại đâu? A! Tôi vừa ra đi, bỗng nghe Prévot gọi. Những tiếng kêu của anh đã thức tỉnh hồn tôi…

Tôi quay trở lại bên anh, thân mình vẫn lẩy bẩy, hình hài vẫn khà khiểng động đậy từng cơn. Và tôi tự bảo: “Đây không phải do khí lạnh. Đây là do chuyện khác. Đây là chung cục”. Thân thể đã khô cạn chất nước quá nhiều. Tôi đã bước đi nhiều quá hôm kia, và hôm qua lúc đi một mình.

Chết bởi lạnh, điều đó, tôi rất đau lòng. Tôi thà mong còn ôm những ảo mộng bên trong. Cái thập giá kia, những người Ả Rập kia, những ngọn đèn nọ. Dù sao, những thứ đó cũng đương bắt đầu hấp dẫn, chứ sao! Tôi không thích phải phó mặc thân mình như một tên nô lệ dưới những lằn roi túi bụi quất từng cơn…

Bây giờ tôi lại quỳ gối xuống.

Chúng tôi có mang theo một ít dược phẩm. Một trăm gam ê-te nguyên chất, một trăm gam rượu chín chục và một bình tăng-ti-dót. Tôi gắng uống vài ba ngụm ê-te. Thật không khác gì nuốt dao nhọn vào cổ họng. Và một tí chút rượu chin mươi độ, nhưng vẫn thấy cổ họng như tắc nghẽn.

Tôi đào một cái hố trong cát, tôi nằm vào, và lấy cát phủ lên khắp mình. Chỉ còn khuôn mặt nhô ra. Prévot có tìm thấy một ít cọng cây khô, đem nhúm lửa, và lửa sẽ tàn đi, trong chốc lát. Prévot không chịu lấp thân trong cát. Thà chịu lơ láo nện gót giầy mà hơn. Anh lầm đó nhé.

Cổ họng tôi vẫn tắt nghẽn, triệu chứng chẳng lành gì, tuy vậy mà cảm thấy có dễ chịu hơn. Cảm thấy bình thản. Thấy bình thản nhiều, nhiều hơn những tưởng. Thật không ngờ. Thật có dám đâu hy vọng thế này. Dù muốn dù không, dù tôi cũng đương ra đi phiêu dạt du hành, tay chân ôn tồn trói chặt, nằm ở boong chiếc tàu mua bán hắc nô, đề huề sao, hỡi muôn sao ở trên trời có biết! Tôi đương bình an nhìn lên tự dưới. Nhưng chắc rằng… có lẽ… đã bình an thanh thản, thì ắt là không còn thống khổ chi nhiều… Hỡi ôi! Tồn lưu sa mạc, cứu cánh thị khổ, thị điềm?

Tôi không còn cảm thấy lạnh, chỉ cần một điều kiện là đừng có ngứa ngáy mà ngọ nguậy một thớ thịt nào đó ở trong mình. Thế rồi thì tôi quên luôn cái thân tôi ngủ yên trong lớp cát. Tôi sẽ không ngọ nguậy nữa, và như vậy sẽ không còn đau đớn nữa bao giờ. Vả chăng, vả chăng thì con người đau đớn có chi mô… Phía sau những bao nhiêu bứt rứt khổ lụy dày vò, còn có cuộc hợp tấu đề huề của từng cơn mỏi rụi phối liệt với từng trận cuồng điên mê sảng. Và mọi vật bỗng đổi dạng biến thành những trang sách đầy hình ảnh hương màu, điều hòa theo nhịp những cuồng lưu, hơi dã man một chút, của những mộng thần tiên sự tích dào dạt trôi giòng… Phi hồng trường phát phi kiên. Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao… Thì mới lúc nãy, gió rượt đuổi thân tôi chạy đi như chết, và để trớ tránh nó tôi phải quanh quất chạy vòng như con thú rừng bị hãm lạc, chết điếng cái cõi lòng giữa tuyệt địa điêu linh. Rồi thở không ra hơi. Rồi hơi ra hổn hển: như có một cái đầu gối dõng mãnh của quân thù đè cứng trên trái phổi của tôi. Một cái đầu gối. Và tôi vẫy vùng chống lại cái khối nặng ma quái thiên thần, yêu tinh tiên nữ. Tôi chẳng bao giờ cô độc trong sa mạc bơ vơ. Đôi bên đồng thuyền tung chưởng lực căm căm không o bồng, không o bế. Tới bây giờ mới thấy đây, là thấy mình không còn tin ở bốn bể huyễn tượng, thì tôi rút lui về mình, khép mình lại trong lòng mình, khép mắt lại trong mi tôi, và tôi không còn rục rịch một chút xíu động đậy nào nữa cả. Toàn thể cái thác lũ ngập tràn hình ảnh nọ nó cuốn phăng tôi, tôi cảm thấy cái đó thật rõ rệt, toàn thể cái thác lũ kia nó cuốn tôi về một cõi mộng tĩnh mịch thanh bình: những dòng sông thiên thu chìm yên vui êm dịu vào trong lớp lớp điệp trùng của vạn đại biển khơi. Thái chung thị mọc thị mời…Thị dâng ước mộng thị dời chiêm bao…

Vĩnh biệt thôi, hỡi anh em của đời tôi thương mến. Lỗi không tại tôi, nếu tấm thân con người không chịu đựng được nổi ba ngày không uống. Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời hạn tự tại tự do… Người ta tưởng con người ta có thể ra đi và bước thẳng tới trước mặt. Người ta tưởng con người ta là thật rất tự do … Người ta không nhìn thấy cái sợi dây kết liền mình vào giếng, cái sợi dây kết liền mình vào bụng dạ là cõi lòng của đất, kết liền như cuống rốn ruột rà. Nếu người ta cao hứng bước thêm một bước nữa, là chết.

Trừ ra mối đau khổ của các anh chị em, tôi chẳng còn chi để tiếc. Nói cho cùng thì tôi cũng đã lãnh cái phần hơn. Nếu một mai tôi trở về, ắt tôi sẽ bắt đầu làm hết trở lại. Tôi cần sống. Mà giữa những thị thành, thật chẳng còn cái đời sống của con người ta đâu.

Đây không phải vấn đề phi cơ, phi công hàng không, hàng khí, chi cả. Phi cơ, không phải là một cứu cánh, phi cơ là một phương tiện. Không phải vì phi cơ mà người ta liều thân vào sinh ra tử. Cũng như không phải vì cái cày, mà bác nông phu chịu lam lũ giữa ruộng nương. Nhưng, bằng phi cơ, người ta bay xa lìa phố thị và rời bỏ được những kế toán âm u, và tìm ra trở lại một chân lý thuần phác nông điền.

Người ta làm một công việc của con người, và người ta biết những băn khoăn tư lự của con người. Người ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm tối, với cát, với biển. Người ta tranh mưu đấu kế với những sức mạnh thiên nhiên. Người ta chờ bình minh như kẻ làm vườn chờ xuân lại. Người ta đợi bến yên nghỉ như một miền đất hứa, và người ta tìm chân lý cho mình trong tinh tú chơi vơi.

Tôi sẽ không phiền hà gì hết. Từ ba ngày nay, tôi đã bước đi, tôi đã chịu khát, tôi đã dõi theo những lối đi nẻo về trên lớp cát, tôi đã lấy giọt sương làm hoài vọng của mình. Tôi đã tìm cách đi về tiếp nối với đồng loại của tôi, đồng loại của tôi mà từ lâu tôi từng lãng quên không nhớ ra đâu là nơi họ cư trú trên trái đất. Và đó là những tư lự âu lo của kẻ sống. Tôi không thể không xem chúng quan trọng hơn cái sự vụ chọn một chiều một rạp ca vũ một xem chơi.

Tôi không còn hiểu nữa những đám người trong những chuyến xe lửa ngoại ô, những con người vẫn tin mình vốn là người từ trước tới bây giờ đó vậy, và thật ra đã bị một áp lực nào mà chính họ không hề cảm thấy, bị một áp lực đẩy vào chỗ: bị dồn vào cái thế tự biến mình thành cái công cụ được sử dụng, để phẩm cách dồi nặn theo. Những ngày chủ nhật vô nghĩa tủn mủn lai rai của họ, họ đã đem những gì để nhét vào cho đầy ắp, những lúc họ hớn hở tự do?

Một bận nọ, ở Nga, tôi có nghe người ta chơi bừa bãi nhạc Mozart trong một xưởng máy. Tôi có viết chuyện ấy ra. Tôi có nhận được hai trăm lá thư chửi rủa. Tôi không oán trách gì những kẻ ưa thích nhất cái loại quán ca vũ lai rai tồi, để nghe nhạc hú như thiên lôi. Tôi trách những kẻ đứng chủ trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đâm” đồi phế con người.

Tôi, tôi sung sướng trong nghề nghiệp tôi. Tôi cảm thấy mình đích thị nông dân của những bến trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi nghe thấy niềm tan rã giữa lòng mình, mối thống khổ tủi buồn còn thăm thẳm khôn tả hơn tại đây. Tại đây, nói cho cùng, còn hào hoa lộng lẫy bao xiết!...Tại đây? Giả vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh tồn lệ tại đây.

Tôi chẳng tiếc gì hết. Tôi đã chơi cuộc, tôi đã thua. Có chi mô mà oán hối. Đó là trong lẽ hằng của nghề nghiệp. Nhưng, dù sao, tôi cũng đã hít vào ở trong phổi mình, cái trận gió mơ hồ mặn mặn của trùng dương…

Ai đã một phen có nếm mùi gió nọ, sẽ không quên được cái vị nồng mật dịu dị thường kia. Phải vậy chăng ru, hỡi các bạn bè thân thuộc vừa đi vừa ngước mắt nhìn!