Chương I
Cuối cùng tôi đã trở về sau hai tuần đi vắng. Mọi người trong nhà đã đi Ruletenburg từ ba hôm nay. Tôi chắc họ sốt ruột chờ tôi về lắm. Nhưng tôi đã nhầm, vẻ mặt tướng quân xem ra hết sức bình thản, ông nói với tôi bằng giọng tự phụ và bảo tôi đến gặp bà chị gái. Rõ ràng là họ đã xoay được tiền ở đâu rồi. Thậm chí tôi có cảm tưởng tướng quân nhìn tôi có vẻ hơi ngượng. Maria Fillipovna thì đang bận tíu tít, chỉ hỏi tôi qua loa; nhưng tiền thì bà nhận ngay, đếm lại cẩn thận và nghe hết bản tường trình của tôi. Đến bữa ăn trưa người ta chờ thêm một tay người Pháp tên là Mezentsov và một gã người Anh nào đó. Đúng như người ta nói, vừa có tiền một cái là tiệc tùng, khách khứa ngay, kiểu Moskva. Polina Aleksandrovna nhìn thấy tôi chỉ hỏi sao tôi đi lâu thế, rồi không đợi tôi trả lời, nàng bỏ đi ngay. Tất nhiên làm như thế là cố tình, nhưng tôi và nàng sẽ có dịp phải nói chuyện. Có nhiều chuyện phải nói.
Tôi được xếp ở trong một căn phòng nhỏ tầng bốn của khách sạn. Ở đây người ta biết tôi là người trong đoàn của tướng quân. Cứ qua mọi dấu hiệu là thấy ngay mọi người đã kịp tự phô trương thanh thế. Trong khách sạn này ai cũng coi tướng quân là bậc đại thần giàu có nhất nước Nga. Trước bữa ăn, giữa những việc sai phái khác, ông đã kịp sai tôi cầm tờ giấy bạc một ngàn franc đi đổi. Tôi đổi trong quầy của khách sạn. Bây giờ mọi người sẽ nhìn chúng tôi như những nhà triệu phú, ít nhất là trong một tuần. Tôi đang định dẫn Misha và Nadia đi chơi, nhưng đến giữa cầu thang có người vẫy tay gọi tôi đến gặp tướng quân; ông thấy cần phải hỏi xem tôi định dẫn chúng đi đâu. Con người này chắc chắn không thể nhìn thẳng vào mắt tôi, mặc dù ông rất muốn, nhưng lần nào tôi cũng nhìn lại ông bằng cái nhìn chằm chằm, nghĩa là vô lễ đến mức khiến ông có vẻ ngượng. Ông nói một thôi một hồi, chưa hết câu này đã sang câu khác, cuối cùng lẫn lộn linh tinh hết, rồi mới làm cho tôi hiểu tôi phải dẫn bọn trẻ đi dạo đâu đó trong công viên, tránh xa cái cung giải trí. Sau rốt ông nổi cáu thật sự và đế thêm: “Không dặn trước thì thế nào anh cũng lại dẫn chúng vào cung giải trí, đến chỗ mấy cái bàn rulet. Nói xin lỗi anh, - Ông tiếp thêm - nhưng tôi biết anh hãy còn nông nổi lắm, và có lẽ cũng biết chơi bài. Dù tôi không phải là nhà mô phạm của anh, và cũng không muốn nhận lãnh cái vai trò ấy, nhưng chí ít tôi cũng có quyền hy vọng anh sẽ không làm tổn hại thanh danh của tôi”.
- Nhưng tôi làm gì có tiền - Tôi trả lời thản nhiên - Muốn chơi bạc trước hết phải có tiền đã.
- Tiền anh sẽ có ngay bây giờ. - Tướng quân đáp, mặt hơi đỏ lên. Ông lục tìm trên bàn làm việc, mở sổ ra tra, hóa ra trong sổ ghi tôi có gần một trăm hai mươi rúp.
- Ta sẽ tính thế nào đây, - Ông nói - cần phải đổi sang đồng taler. Đây, anh hãy cầm một trăm taler cho chẵn, số còn lại tất nhiên không mất đi đâu.
Tôi lẳng lặng cầm tiền.
- Tôi mong anh đừng giận những lời tôi vừa nói, anh hay tự ái lắm... Tôi nói với anh như thế chẳng qua cũng chỉ cốt phòng xa cho anh, với lại, tất nhiên tôi cũng có chút quyền làm việc đó...
Trở về nhà với bọn trẻ trước bữa trưa tôi gặp cả một đoàn người ngựa. Mọi người vừa đi tham quan một khu phế tích về. Hai cỗ xe bóng lộn với những con ngựa tuyệt đẹp!
Mademoiselle Blanche ngồi chung xe với Maria Fillipovna và Polina; tay người Pháp, anh chàng người Anh và tướng quân của chúng tôi thì cưỡi ngựa. Khách qua đường ai cũng dừng lại nhìn. Ấn tượng đã gây được. Có điều tướng quân của chúng tôi vẫn khó mà thành công. Tôi nhẩm tính với bốn nghìn franc tôi đem về, cộng với số tiền mà rõ ràng ông đã kịp xoay được, thì hiện giờ họ có trong tay khoảng bảy hoặc tám nghìn franc, như thế vẫn quá ít đối với m-lle Blanche.
Mẹ con m-lle Blanche ở cùng khách sạn với chúng tôi, gã người Pháp cũng ở gần đây. Đám gia nhân gọi anh ta là “m-r le comte” [1], còn m-lle Blanche được gọi là “m-me la comtesse” [2], mà biết đâu họ có thể đúng là comte et comtesse thật.
Tôi biết m-r le comte không nhận ra tôi khi chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Tướng quân tất nhiên không nghĩ đến việc giới thiệu chúng tôi với nhau, hoặc ít giới thiệu anh ta với tôi, còn m-r le comte đã từng đến nước Nga và biết rằng người được gọi là outchitel [3] là nhân vật chẳng quan trọng gì. Tuy nhiên anh ta biết tôi rất rõ. Nhưng thú thật tôi xuất hiện ở bữa tiệc là khách không mời, có lẽ tướng quân quên không dặn trước, nếu không chắc tôi đã phải ngồi ăn ở table d’hôt [4] rồi. Tôi tự ý đến nên tướng quân nhìn tôi có vẻ khó chịu. Maria Fillipovna tốt bụng ngay lập tức chỉ chỗ cho tôi ngồi, nhưng cuộc gặp với ngài Astley đã cứu nguy cho tôi, và tôi bất đắc dĩ trở thành người cùng giới với họ.
Cái ông người Anh kỳ lạ này tôi gặp lần đầu ở đất Phổ, trên xe lửa, nơi chúng tôi ngồi đối diện nhau, khi tôi đang trên đường đuổi theo tốp người nhà của tôi, sau đó trong chuyến đi Pháp tôi lại chạm trán ông ta, và cuối cùng là ở Thụy Sĩ, còn trong hai tuần này tôi đã gặp ông ta hai lần, bây giờ bỗng nhiên lại gặp ông ta ở Ruletenburg. Trong đời tôi chưa từng gặp người nào nhút nhát như ông ta, nhút nhát đến mức ngờ nghệch, và tất nhiên chính ông ta cũng biết điều đó, vì ông ta hoàn toàn không ngốc. Tuy vậy ông ta là một người dễ mến và ít nói. Trong lần gặp đầu tiên ở Phổ tôi đã phải ép ông ta nói chuyện. Ông tuyên bố với tôi là hè vừa rồi đã đi Nord-Cape và muốn được thăm chợ phiên ở Nizhegorod. Tôi không biết ông đã quen với tướng quân như thế nào, tôi thấy hình như ông mê Polina vô cùng. Khi cô bước vào, mặt ông bỗng đỏ ửng lên. Ông rất vui được ngồi cùng bàn với tôi, và có lẽ đã coi tôi là bạn chí thân.
Bên bàn ăn gã người Pháp làm điệu một cách khác thường, tỏ ra quan trọng và ăn nói ngạo mạn với tất cả mọi người. Vậy mà tôi nhớ hồi ở Moskva hắn ta còn thổi bong bóng xà phòng. Hắn nói nhiều kinh khủng về những vấn đề tài chính và chính trị Nga, tướng quân thỉnh thoảng mạo muội lên tiếng phản đối, nhưng rất nhẹ nhàng, chỉ cốt sao không làm mất đi hoàn toàn tầm quan trọng của mình.
Tôi đang trong trạng thái kỳ lạ; tất nhiên, ngay từ trước bữa ăn tôi đã kịp tự hỏi mình một câu hỏi quen thuộc như mọi khi: tại sao tôi cứ dính mãi vào cái lão tướng quân này và mãi không rời ra được? Chốc chốc tôi lại đưa mắt khẽ liếc Polina Aleksandrovna, nàng hoàn toàn không để ý đến tôi. Rút cuộc tôi nổi cáu và quyết định giở trò lỗ mãng.
Đầu tiên, đang vô duyên vô cớ tôi bỗng lớn tiếng chen vào câu chuyện của người khác. Cái chính là tôi muốn cãi nhau với thằng cha người Pháp. Tôi quay sang tướng quân, rồi bằng giọng to tát và rõ ràng, và có lẽ đã ngắt lời ông, tôi nhận xét rằng mùa hè này người Nga gần như hoàn toàn không nên ngồi ăn ở bàn chung trong các khách sạn. Tướng quân nhìn tôi kinh ngạc. Tôi ba hoa tiếp:
- Nếu là người biết tự trọng thì thế nào anh cũng sẽ chuốc lấy những lời chửi mắng và sỉ nhục. Ở Paris và ở Rein, thậm chí ở cả Thụy Sĩ, xung quanh chiếc bàn chung có rất nhiều người Ba Lan và người Pháp về hùa với bọn Ba Lan ấy, đến mức nếu anh là người Nga thì anh chỉ có nước ngồi im chứ không thể nói được câu nào.
Tôi nói bằng tiếng Pháp, tướng quân cứ ngây ra nhìn tôi, không biết là ngài tức giận hay chỉ ngạc nhiên sao tự nhiên tôi lại mất bình tĩnh như thế.
- Có nghĩa là ở đâu đó đã cho anh một bài học phải không? - Gã người Pháp nói với giọng ngạo mạn và khinh bỉ.
- Ở Paris lúc đầu tôi cãi nhau với một tên Ba Lan, - Tôi đáp - sau đó với một tay sĩ quan Pháp bênh gã Ba Lan này. Sau nữa thì một số người Pháp quay sang ủng hộ tôi, khi tôi kể cho họ nghe chuyện tôi suýt nhổ nước bọt vào cốc cà phê của một nhà quý tộc người Italia.
- Nhổ nước bọt? - Tướng quân hỏi với vẻ thắc mắc, thậm chí còn đưa mắt nhìn quanh. Gã người Pháp nhìn tôi ngờ vực.
- Đúng thế - Tôi đáp - Vì suốt hai ngày tôi tin chắc, có lẽ buộc phải cất công ghé qua La Mã vì công việc, thế là tôi đến văn phòng sứ quán của Đức Cha ở Paris để xin cấp thị thực. Người tiếp tôi là vị linh mục trạc năm mươi tuổi, người gầy đét, mặt lạnh như tiền, sau khi nghe tôi một cách lịch sự, nhưng hết sức lạnh nhạt, ông yêu cầu tôi ngồi đợi. Dù đang rất vội, tôi vẫn phải ngồi chờ, tôi lấy cuốn Opinion nationale [5] và bắt đầu đọc những bài phỉ báng nước Nga cũ rích. Trong khi đó tôi nghe thấy ở phòng bên có người đến gặp ngài đại sứ, tôi nhìn thấy viên linh mục cúi chào. Tôi bèn đến chỗ ông ta nhắc lại lời yêu cầu, ông ta lại bảo tôi ngồi đợi, mặt còn lạnh hơn lúc nãy. Lát sau lại có một người nữa bước vào, cũng vì công việc chứ không phải người quen gì, một người Áo nào đó. Anh ta trình bày xong cũng được dẫn lên gác ngay. Lúc đó tôi cảm thấy rất tức, tôi đứng lên, tiến lại chỗ viên linh mục, nói thẳng với ông ta rằng ngài đại sứ vẫn tiếp khách, vì vậy có thể giải quyết việc của tôi. Bỗng viên linh mục bước lùi lại, nhìn tôi với vẻ kinh ngạc khác thường. Chả là vì ông ta không hiểu nổi tại sao một gã người Nga hèn hạ như tôi lại dám coi mình ngang hàng với những vị khách của ngài đại sứ? Rồi bằng một giọng hết sức láo xược, dường như có vẻ sung sướng vì có thể hạ nhục tôi, ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân rồi quát lên: “Thế chả lẽ anh tưởng ngài đại sứ phải bưng cà phê đến cho anh chắc?”. Lúc đó tôi cũng quát lên còn to hơn cả lão ta: “Tôi nói để ông biết, tôi nhổ toẹt vào tách cà phê của đại sứ các ông! Nếu ông không giải quyết ngay hộ chiêu của tôi, tôi sẽ lên gặp thẳng ông ta”.
“Sao? Trong lúc Hồng y Giáo chủ đang ngồi trong phòng ông ấy à?”. Viên linh mục hét to, sợ hãi né sang một bên, rồi chạy về phía cửa, đứng dang hai tay, ra chiều sẵn sàng chết chứ không cho tôi đi qua.
Thấy vậy tôi bèn nói với lão ta tôi là một tên Do Thái, một kẻ man di, “que je suis hérétique et barbare”, đối với tôi thì tất cả các Đức Tổng giám mục, Hồng y Giáo chủ hay là Khâm sứ... thảy đều chẳng là cái gì hết. Tóm lại, tôi cho lão ta thấy là tôi nhầt định không chịu lui. Lão linh mục nhìn tôi hết sức hằn học, sau đó giật lấy hộ chiếu của tôi và mang lên gác. Một phút sau nó đã được đóng dấu nhập cảnh. Đây, các vị có muốn xem không? - Tôi rút ra tờ hộ chiêu và chìa ra con dấu thị thực của La Mã.
- Nhưng chuyện này anh... - Viên tướng quân định nói.
- Việc anh tuyên bố anh là tên Do Thái và kẻ man di đã cứu anh. - Gã người Pháp cười khẩy “Cela n’éstait pas si bête” [6].
- Chẳng lẽ người ta xem người Nga chúng ta như thế? Họ ngồi ở đây, không dám thốt lên một câu, và có lẽ, sẵn sàng từ chối mình là người Nga. Ít ra trong khách sạn của tôi ở Paris, sau khi tôi kể cho mọi người nghe chuyện to tiếng giữa tôi và viên linh mục, người ta bắt đầu đối xử với tôi một cách quan tâm hơn. Một quý ngài Ba Lan to béo, người tỏ ra thù nghịch với tôi nhất ở bàn ăn chung, bỗng ngồi tụt lại phía sau. Thậm chí mấy người Pháp còn chuyển sang chỗ khác khi tôi kể chuyện cách đây hai năm, vào năm mười hai, tôi chứng kiến một tay thợ săn người Pháp đã bắn một người chỉ vì mỗi mục đích là muốn tháo đạn ra khỏi súng. Người bị bắn khi đó hãy còn là cậu bé mười tuổi, và gia đình cậu không kịp rời khỏi Moskva.
- Không thể có chuyện ấy được, - Gã người Pháp nổi khùng - lính Pháp không bắn vào trẻ con!
- Thế nhưng chuyện ấy đã xảy ra - Tôi đáp - Người kể cho tôi chuyện này là một vị đại úy đáng kính đã về hưu, và chính mắt tôi đã nhìn thấy vết sẹo từ viên đạn trên má ông.
Gã người Pháp bắt đầu nói nhiều và nhanh. Tướng quân định bênh anh ta, nhưng tôi khuyên ông nên đọc dù chỉ vài đoạn trong cuốn Hồi ký của tướng Perovski, người từng bị quân Pháp bắt làm tù binh năm mười hai. Cuối cùng bà Maria Filipovna nói câu gì đó để cắt ngang câu chuyện. Tướng quân tỏ ra rất không hài lòng với tôi, vì tôi và gã người Pháp gần như bắt đầu to tiếng. Nhưng ngài Astley thì có vẻ rất thích cuộc cãi nhau giữa tôi và gã người Pháp; ông ta đứng dậy, đề nghị tôi uống với anh một ly rượu vang. Buổi tối, như đã dự tính, tôi có dịp nói chuyện với Polina Aleksandrovna khoảng mười lăm phút. Cuộc chuyện trò của chúng tôi diễn ra trong thời gian đi dạo. Mọi người kéo nhau đến cung giải trí trong công viên. Polina Aleksandrovna ngồi xuống ghế đá cạnh đài phun nước, còn Nadia thì nàng cho nó chơi với lũ trẻ gần chỗ mình ngồi. Tôi cũng để cho Misha đến chỗ đài phun nước chơi, cuối cùng chỉ còn lại hai chúng tôi.
Trước hết chúng tôi bắt đầu nói, tất nhiên, về công việc. Polina tức giận vì tôi đưa cho nàng có bảy trăm gulden [7]. Nàng vẫn đinh ninh rằng với chuỗi hạt kim cương của nàng mang đi cầm, thế nào tôi cũng phải mang từ Paris về cho nàng ít nhất hai nghìn gulden, thậm chí còn hơn. Nàng nói:
- Dù thế nào đi nữa tôi cũng cần có tiền, tôi phải kiếm ra, nếu không tôi chết.
Tôi bắt đầu hỏi nàng những chuyện xảy ra ở nhà trong thời gian tôi đi vắng.
- Không có gì cả, trừ hai cái tin nhận được từ Petersburg; tin đầu tiên báo là tình trạng của bà già xấu lắm, và hai ngày sau thì nói hình như bà đã chết. Người báo tin này là Timofei Petrovich - Polina nói thêm - Ông này chính xác lắm. Chúng tôi đang chờ tin báo chính thức cuối cùng.
- Nghĩa là mọi người ở đây đều đang chờ? - Tôi hỏi.
- Tất nhiên. Suốt nửa năm nay ai cũng chỉ hy vọng vào chuyện đó.
- Và cô cũng hy vọng? - Tôi hỏi.
- Tôi không phải họ hàng ruột thịt gì với bà, tôi là con riêng của tướng quân. Nhưng tôi biết chắc bà có nhắc đến tôi trong di chúc của mình.
- Tôi nghe đâu như cô sẽ nhận được rất nhiều. - Tôi khẳng định.
- Phải, bà rất quý tôi, nhưng tại sao anh lại nghe đâu?
- Cô hãy cho tôi biết - Tôi không trả lời mà hỏi lại cô - Có phải gã hầu tước của chúng ta hình như cũng biết rõ mọi bí mật trong gia đình phải không?
- Nhưng sao anh quan tâm đến chuyện này làm gì? - Polina hỏi và nhìn tôi với vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng.
- Còn sao nữa. Nếu tôi không nhầm, tướng quân đã vay tiền của anh ta rồi.
- Anh đoán đúng lắm.
- Thử hỏi, nếu không biết chuyện của bà, có khi nào anh ta cho vay không? Cô có để ý ở bàn ăn, khoảng hai ba lần khi nói về bà, anh ta đã gọi bà bằng cái từ thân mật la babulinka không? Nghe gần gũi và thân thiết quá.
- Phải, anh nói đúng. Ngay khi vừa biết tin theo di chúc tôi cũng được hưởng phần nào đó, anh ta lập tức ngỏ lời dạm hỏi tôi. Có phải anh muốn biết chuyện đó không?
- Mới vừa dạm hỏi thôi à? Tôi tưởng anh ta dạm hỏi cô từ lâu rồi chứ?
- Anh thừa biết là không phải như vậy! - Polina có vẻ tức giận.
- Thế anh gặp cái ông người Anh này ở đâu? - Sau một phút im lặng Polina nói tiếp.
- Tôi biết thế nào cô cũng hỏi chuyện này.
Tôi kể lại những lần gặp trước đây của tôi với ngài Astley trên đường đi.
- Ông ta nhút nhát, đa tình và, tất nhiên, cũng yêu cô phải không?
- Phải, ông ta yêu tôi. - Polina đáp.
- Và tất nhiên ông ta giàu gấp mười lần tay người Pháp. Thực sự thì tay người Pháp có gì không? Cô không hoài nghi điều đó sao?
- Tôi không hoài nghi. Anh ta có một cái château [8]. Mới hôm qua tướng quân quả quyết với tôi như thế... Thế nào, anh thấy đủ chưa?
- Nếu tôi là cô, nhất định tôi sẽ lấy ông đó.
- Tại sao? - Polina hỏi.
- Tay người Pháp đẹp trai hơn, nhưng đểu cáng hơn, còn ông người Anh ngoài tính tình trung thực còn giàu gấp mười lần tay người Pháp.
- Phải, nhưng anh chàng người Pháp là hầu tước và thông minh hơn. - Nàng nói hết sức bình thản.
- Liệu có đúng thế không? - Tôi tiếp tục theo hướng của mình.
- Hoàn toàn đúng như vậy.
Polina cực kỳ không thích những câu hỏi của tôi, và tôi thấy nàng muốn chọc tức tôi bằng cái giọng điệu và cách trả lời của mình. Tôi nói ngay với nàng điều nhận xét đó.
- Thì sao? Đúng là tôi rất thích khi thấy anh tức giận. Chỉ riêng việc tôi cho phép anh đưa ra những câu hỏi và phỏng đoán, anh cũng phải trả giá rồi.
- Đúng là tôi cho mình có quyền đặt cho cô mọi câu hỏi, - Tôi thản nhiên - chỉ bởi vì tôi sẵn sàng trả bất cứ giá nào cho những câu hỏi đó, và tôi coi cuộc sống của mình bây giờ không còn ý nghĩa gì nữa.
Polina bật cười:
- Tôi nhớ lần cuối, trên đỉnh núi Shlangenberg, ông bảo chỉ cần tôi nói một lời là ông sẵn sàng lao đầu xuống dưới, mà chỗ đó hình như cao đến một nghìn fut. Có lúc tôi sẽ nói ra lời đó, cốt chỉ để xem anh trả giá thế nào, và anh hãy tin rằng nhất định tôi sẽ giữ lời. Tôi căm ghét anh chính là vì tôi đã cho phép anh quá nhiều, nhưng lại càng căm ghét hơn bởi chính tôi rất cần đến anh. Nhưng trong khi tôi còn cần anh thì tôi phải bảo vệ anh.
Nói đoạn nàng đứng lên. Nàng nói với giọng tức giận. Thời gian gần đây nàng luôn luôn kết thúc câu chuyện với tôi bằng vẻ căm hờn và tức giận, căm hờn thực sự.
- Xin phép được hỏi cô, mademoiselle Blanche là thế nào? - Tôi hỏi và không muốn để nàng đi mà không giải thích.
- Chính anh đã biết mademoiselle Blanche là thế nào. Từ đó đến nay không có thêm điều gì. Mademoiselle Blanche chắc sẽ là phu nhân tướng quân, tất nhiên, nếu tin đồn về cái chết của bà già được khẳng định, vì mademoiselle Blanche, bà mẹ cô ta và cậu em họ hầu tước - tất cả đều biết rất rõ chúng tôi đã khánh kiệt.
- Thế tướng quân có yêu cô ta thực sự không?
- Lúc này vấn đề không phải ở chỗ đó. Anh hãy nghe đây và nhớ lấy: anh cầm bảy trăm florinh này đi đánh bạc đi, và hãy cố thắng cho tôi càng nhiều càng tốt. Lúc này tôi đang rất cần tiền.
Nói đoạn nàng cất tiếng gọi Nadia rồi đi thẳng về phía cung giải trí, ở đó nàng nhập bọn với tốp người nhà. Còn tôi thì rẽ trái ở ngay lối rẽ đầu tiên, vừa đi vừa suy nghĩ và thấy ngạc nhiên. Sau khi nhận được lệnh phải đến chỗ chơi rulet tôi bỗng thấy choáng váng. Thật lạ lùng: tôi đang có chuyện phải suy nghĩ thì tôi lại cố đi phân tích những tình cảm của tôi đối với Polina. Thật ra trong hai tuần đi vắng tôi lại cảm thấy thoải mái hơn bây giờ, vào cái ngày trở về, mặc dù trên đường đi tôi nhớ nhà như một thằng điên, đứng ngồi không yên, thậm chí trong giấc mơ tôi cũng luôn luôn nhìn thấy hình ảnh của nàng trước mặt. Một lần (ở Thụy Sĩ), ngồi trên tàu hỏa, trong lúc ngủ mơ, hình như tôi nói chuyện thành tiếng với Polina, khiến những người ngồi cạnh đều phải bật cười. Và lúc này một lần nửa tôi lại tự hỏi: tôi có yêu nàng không? Và một lần nữa tôi lại không thể trả lời được câu hỏi đó, nghĩa là, nói đúng hơn, tôi lại đã tự trả lời mình dễ đến lần thứ một trăm rằng tôi căm thù nàng. Phải, tôi hận nàng. Có những phút (cụ thể là mỗi lần khi cuộc trò chuyện của chúng tôi kết thúc), tôi sẵn sàng hy sinh một nửa cuộc đời để bóp cổ nàng! Tôi thề là, giá có cơ hội có thể cầm con dao nhọn từ từ thọc sâu vào ngực nàng, thì có lẽ tôi sẵn sàng làm việc đó với niềm thích thú. Trong khi ấy, tôi thề trước tất cả những gì thiêng liêng nhất, giá như lúc ở trên đỉnh Shlangenberg, chân đi đôi giày khiêu vũ thời thượng, nàng bảo tôi “hãy nhảy xuống đi”, tôi sẽ không chút do dự lao đầu xuống ngay, thậm chí là với niềm khoái lạc. Tôi biết chắc điều đó. Bất luận thế nào, điều đó nhất định sẽ xảy ra. Nàng hiểu tất cả một cách kỳ lạ, và ý nghĩ rằng tôi hoàn toàn nhận thức được một cách rõ ràng và chính xác toàn bộ khoảng cách không thể với tới được của nàng đối với tôi, tất cả sự bất lực không thể thực hiện được những mơ tưởng hoang đường của tôi, ý nghĩ ấy tôi tin chắc đem lại cho nàng niềm khoái lạc vô bờ; nếu không, làm sao nàng, một cô gái thông minh và chín chắn, lại có thể cư xử với tôi một cách thân mật và cởi mở như vậy? Tôi có cảm tưởng như từ trước tới giờ nàng vẫn xem tôi như một tên nô lệ, còn nàng là vị nữ hoàng cổ đại thản nhiên cởi bỏ xiêm y ngay trước mặt tên nô lệ của mình vì xem hắn không phải là người. Phải, nàng đã nhiều lần xem tôi không phải là người...
Nhưng tôi lại đang được nàng giao phó cho một việc - bằng bất cứ giá nào cũng phải thắng ở bàn rulet. Tôi chẳng có thời gian suy nghĩ: để làm gì và tại sao phải chơi thắng thật nhanh, và còn những suy tính nào sẽ nảy sinh trong cái đầu luôn luôn tính toán này? Hơn nữa, trong hai tuần vừa rồi rõ ràng đã xuất hiện thêm không biết bao nhiêu yếu tố mới mà tôi chưa biết được. Phải sớm suy đoán và tìm hiểu thật kỹ tất cả những yếu tố đó. Nhưng trước mắt tôi chưa có thời gian: tôi phải đến ngay sòng bài rulet.
Chú thích:
[1] Ngài bá tước (tiếng Pháp).
[2] Bà bá tước (tiếng Pháp).
[3] Thầy giáo, gia sư (N.D).
[4] Bàn ăn chung (tiếng Pháp).
[5] Dân Ý (tiếng Pháp).
[6] Cũng không ngốc lắm! (tiếng Pháp).
[7] Đơn vị tiền của Đức, Áo, Hung và một số nước khác từ thế kỷ 17 đến năm 1892 (tiếng Đức).
[8] Cung điện (tiếng Pháp).