← Quay lại trang sách

Chương II (tt)

Bóng tối thưa dần, một làn ánh sáng xám lọt vào căn phòng qua ô kính cửa sổ. Tôi bận rộn với bức tranh mà tôi ngỡ rằng nó khá hơn những bức khác. Nhưng còn đôi mắt? Đôi mắt ấy mang vẻ trách móc như thể chúng nhìn thấy tôi phạm tội không thể tha thứ - tôi không thể nào miêu tả đôi mắt ấy trên mặt giấy. Và rồi bất chợt, hình ảnh đôi mắt kia dường như nhạt nhòa khỏi ký ức tôi. Mọi cố gắng của tôi đều vô ích. Bất luận càng nhìn ngắm gương mặt nàng bao nhiêu, tôi càng không thể nhớ lại vẻ biểu lộ của nó. Vào lúc này, tôi bất chợt nhìn thấy đôi má nàng ửng đỏ, chúng dần dần lan màu đỏ thẫm như màu thịt treo trước cửa hàng thịt. Nàng sống trở lại. Đôi mắt sốt, trách móc của nàng, tỏa ra với một độ chói sáng và nóng sốt, từ từ mở ra, nhìn đăm đăm vào mặt tôi. Đây là lần đầu tiên nàng ý thức đến sự có mặt của tôi. Nàng đã nhìn vào tôi, và rồi một lần nữa, đôi mắt ấy khép lại. Sự kiện này có lẽ kéo dài chưa đầy một khoảnh khắc nhưng cũng đủ cho tôi nắm bắt được vẻ biểu lộ của đôi mắt nàng và diễn tả trên giấy. Tôi đã vẽ sự biểu lộ này bằng đầu bút cọ nhọn, và lần này tôi đã không xé bức tranh. Rồi từ chỗ vẽ tôi đứng lên, khẽ bước tới bên giường. Tôi ngỡ rằng nàng đang sống, nàng đã sống lại, rằng tình yêu của tôi đã truyền sự sống vào xác nàng. Nhưng khi tôi tới gần, tôi cảm thấy mùi của tử thi, mùi của tử thi đang thối rữa. Những con dòi bé xíu đang ngọ nguậy trên thân thể nàng và một cặp ruồi có màu của loài ong vàng, đang lượn vòng quanh nàng trong ánh sáng của những ngọn nến. Nếu nàng đã chết thật, vậy sao cặp mắt đã mở ra? Phải đấy là một ảo giác hay đã thực sự xảy ra? Tôi không muốn ai hỏi tại sao, nhưng quan tâm chính của tôi là gương mặt nàng, đúng hơn, chính là đôi mắt nàng, và giờ đây đôi mắt này là sở hữu của tôi. Tôi đã có cái thần của đôi mắt nàng trên mặt giấy. Còn thân thể nàng, một thân thể phải chịu sự phân hủy, để nuôi dưỡng dòi bọ và chuột dưới lòng đất, đã không còn hữu dụng với tôi. Từ nay, nàng chịu sự làm chủ của tôi và tôi không còn là kẻ lệ thuộc nàng. Hễ khi nào muốn, tôi có thể nhìn vào đôi mắt nàng. Tôi cầm bức tranh lên hết sức cẩn thận, đặt nó vào trong một cái hộp thiếc là chỗ an toàn rồi cất cái hộp vào trong buồng tủ. Đêm đang rón rén rời khỏi. Dường như đêm đã tỉnh lại sau cơn mệt mỏi. Những âm thanh êm dịu, xa xa, như tiếng của con gà rừng hay của chim thiên di khi nó mơ màng trên đôi cánh, hoặc tiếng rì rào của thảo mộc, có thể cảm giác được. Những ánh sao mờ nhạt đang tan biến đằng sau những dải mây. Tôi cảm được hơi thở dìu dịu của buổi sớm mai trên gương mặt mình và cùng lúc đó vẳng tiếng gà gáy đâu đó xa xa. Tôi phải làm gì với cái xác của nàng? Nó đã bắt đầu tan rữa rồi. Thoạt đầu, tôi nghĩ đến việc chôn nó trong căn phòng của mình, sau đó tính đến việc đem ra ngoài rồi ném xuống cái giếng xung quanh mọc đầy hoa triêu nhan nào đó. Nhưng tất cả những toan tính không để người khác nhìn thấy, cần tốn nhiều suy nghĩ, công sức và sự khéo léo. Hơn nữa, vì tôi không muốn bất cứ người lạ nào nhìn vào nàng, tôi phải tự tay làm tất cả việc này một mình. Tôi không nghĩ về bản thân, bởi sau khi nàng đã ra đi, còn gì khác đâu trong đời sống? Nhưng còn nàng - sẽ không có kẻ nào ngoài tôi ra, được nhìn vào thân thể nàng. Nàng đã tới căn phòng của tôi, đã buông thả hình và bóng lạnh lẽo của nàng cho tôi để không ai khác thấy nàng, để nàng không bị tia nhìn của kẻ lạ làm ô uế. Cuối cùng, một ý tưởng đến với tôi. Tôi sẽ cắt thân thể nàng ra, xếp vào trong một cái vali, cái rương cũ kĩ của tôi, đem nó tới một chỗ xa nào đó, rất xa khỏi cặp mắt của thiên hạ, rồi chôn ở đó. Lúc này không còn do dự. Tôi cầm lấy con dao có chuôi bằng xương cất trong buồng tủ, bắt đầu cẩn thận rạch bộ áo dài đen mỏng như tấm mạng nhện quấn nàng bên trong; hay nói đúng hơn, tôi đã xé toang cái duy nhất bao phủ thân thể nàng. Dường như thân thể nàng đã lớn hơn một chút. Rồi tôi cắt lìa đầu nàng. Những giọt máu lạnh vón cục nhỏ xuống từ cổ nàng. Tôi cắt rời đôi cánh tay và cẳng chân, sau đó xếp ngay ngắn phần thân mình cùng với cái đầu và tứ chi vào trong chiếc vali rồi dùng chiếc áo dài đen của nàng phủ lên trên. Cuối cùng, tôi khóa cái rương lại, nhét chìa vào túi. Khi công việc đã hoàn tất, tôi thở phào nhẹ nhõm rồi nhấc lên xem trọng lượng chiếc vali. Thật nặng. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mệt nhọc đến thế. Không, tôi sẽ không thể nào tự mình di chuyển được cái rương. Trời lại kéo sương mù và mưa bụi đổ xuống. Tôi ra khỏi nhà tìm người giúp khiêng chiếc vali đi. Quanh đây không một bóng người. Tôi chăm chú tìm, xa hơn một chút, qua lớp sương mù, tôi thấy một lão già gù đang ngồi dưới một gốc cây trắc bá. Khuôn mặt của lão không thể thấy được vì bị chiếc khăn quàng lớn quấn quanh. Tôi dần dần tới gần lão, nhưng trước khi tôi mở lời, thì lão bật lên một tiếng cười khô khốc, the thé, nham hiểm khiến cho tôi dựng tóc gáy, rồi nói: “Nếu cậu tìm một phu khuân vác, lão có thể giúp cậu. Có phải cậu đang tìm một phu khuân vác? Lão có cái xe ngựa dùng làm xe tang. Hàng ngày lão chở xác tới khu Shah Abdul Azim[3] và chôn cất ở đó. Ừ, lão cũng có làm quan tài. Những cỗ quan tài đủ mọi kích cỡ, vừa khít cho từng người. Lão đã sẵn sàng. Đi thôi.” Lão cười rộ lên làm đôi vai lắc lư. Tôi chỉ tay tới hướng căn nhà mình. Không cho tôi có cơ hội lên tiếng, lão nói, “Được rồi. Lão biết cậu ở đâu. Lão sẽ tới ngay.” Lão đứng dậy còn tôi trở về. Tôi vào trong phòng và chật vật lắm mới đem được cái vali “chết” ra trước cửa. Ở đó, tôi thấy một cái xe tang cũ nát thắng cặp ngựa đen gầy giơ xương. Lão gù đang ngồi chỗ đánh xe đằng trước, tay cầm cái roi dài. Lão không quay lại nhìn tôi. Thật khó khăn tôi mới đem được cái cái rương vào trong xe, ở chính giữa có chỗ lõm đặc biệt để đặt quan tài. Sau đó tôi leo vào trong xe và nằm xuống chỗ đặt quan tài, ngả đầu lên cái gờ để có thể nhìn thấy cảnh vật xung quanh. Cuối cùng tôi kéo cái rương lại phía mình, đặt nó lên ngực và hai tay ôm chặt. Ngọn roi rít trong không trung, cặp ngựa mệt nhọc thở phì qua lỗ mũi như những cột khói trong làn mưa bụi và bắt đầu di chuyển với những bước dài nhưng uyển chuyển. Cặp chân trước của chúng gầy như hai cánh tay của tên trộm đã bị chặt cụt ngón tay theo luật hình rồi bị nhúng vào dầu sôi, đang gõ xuống mặt đất khẽ không gây tiếng động. Trong bầu không khí ẩm ướt, chùm lục lạc đeo ở cổ chúng reo lên một âm điệu kỳ lạ. Một cảm giác nhẹ nhõm khôn tả mà tôi không hiểu tại sao thâm nhập vào tôi suốt từ đầu xuống chân tới độ sự chuyển động của chiếc xe tang không mảy may truyền vào thân thể tôi. Điều duy nhất tôi cảm thấy là sức nặng của cái rương trên ngực mình. Cái xác chết của nàng, gần như thể sức nặng này đã luôn đè lên ngực tôi. Một làn sương mù dày che phủ quang cảnh bên đường. Bằng tốc độ phi thường và nhịp nhàng, cỗ xe tang băng qua những ngọn đồi, đồng bằng, những con suối, rồi một phong cảnh mới mẻ và đáng chú ý mở ra trước mắt tôi, phong cảnh tôi chưa từng thấy trong mơ và lúc tỉnh. Ở hai bên đường có những quả núi răng cưa, những đỉnh lởm chởm và những cây cối kỳ lạ, thu mình lại, gây khó chịu. Giữa cây cối, những ngôi nhà xám tro hình dáng như những kim tự tháp, những khối lập phương và lăng trụ, với cửa sổ thấp, u tối không có kính. Những ô cửa sổ như đôi mắt dại của người mê sảng. Không biết những bức tường này bên trong có gì mà có thể truyền hơi lạnh buốt của chúng sang quả tim người qua đường. Vì không ai có thể cư ngụ trong những ngôi nhà đó, có thể chúng được xây để đón tiếp những hồn ma. Hình như người đánh xe đang chở tôi đi trên một con đường phụ hoặc một tuyến đường đặc biệt nào đó. Ở một số nơi, con đường bao quanh toàn những thân cây đã bị đốn và cây cối vặn mình, cong queo. Sau rặng cây kia là những ngôi nhà hình kỉ hà cao, thấp, một số hình nón, những cái khác hình nón cụt. Mọi ngôi nhà đều có ô cửa sổ hẹp, vặn vẹo, có những đóa triêu nhan ló ra và cuốn trên những ô cửa và cả trên tường. Thế rồi quang cảnh này đột ngột biến mất trong lớp sương dày đặc. Những đám mây nặng trĩu như có chửa, ôm lấy đồi núi và ngột ngạt trùm xuống. Gió hắt một cơn mưa phùn như đám bụi phơ phất trong không trung. Sau khi đã đi được một thời gian đáng kể, chiếc xe tang ngừng lại dưới chân một quả đồi khô cằn, không một dấu vết cây xanh. Tôi đẩy cái rương ra khỏi ngực rồi ra ngoài. Phía sau quả đồi có một địa điểm biệt lập, yên tĩnh và xanh tươi. Một nơi tôi chưa từng thấy trước đây, thế nhưng trông lại khá quen thuộc, nó không nằm ngoài trí tưởng tượng của tôi. Mặt đất phủ đầy những nhánh hoa triêu nhan không hương thơm, như thể cho tới giờ chưa hề có bàn chân nào đặt tới đây. Tôi kéo cái rương ra đặt xuống đất. Lão đánh xe ngoảnh lại nói, “Chỗ này không xa khu Shah Abdul Azim. Cậu khó tìm ra chỗ nào tốt hơn chỗ này. Ngay cả một bóng chim cũng không bay lại đây. Đúng không nào!” Tôi thò tay vào túi định trả cho người đánh xe, nhưng toàn bộ số tiền tôi còn lại trong túi là hai đồng kran và một đồng abbasi. Người đánh xe bật lên tiếng cười the thé, khô khốc rồi nói, “Thôi được. Đừng bận tâm. Trả lão sau. Lão biết chỗ ở của cậu mà. Có còn việc nào khác cho lão không? Nói cậu nghe, về việc đào mồ, lão có kinh nghiệm cũng kha khá. Đừng ngại! Chúng ta hãy lại bên con suối gần đây, cạnh cây trắc bá. Lão sẽ đào một cái huyệt vừa kích thước cái rương cho cậu, rồi sau đó lão phải đi.” Lão già với sự nhanh nhẹn mà tôi khó có thể tưởng tượng, nhảy xuống khỏi chỗ ngồi. Tôi nhấc cái rương lên rồi chúng tôi đi tới một thân cây chết cạnh một con suối khô cạn. Rồi lão nói, “Chỗ này không tốt sao?” Không đợi trả lời, lão bắt đầu đào xuống đất bằng cái cuốc chim và cái xẻng nhỏ mang theo. Tôi đặt cái rương xuống và nhìn lão với sự ngạc nhiên. Lão già lưng khòm làm xong việc bằng sự khéo léo của người quen với công việc. Trong lúc đào, lão bắt gặp một vật trông giống như cái hũ tráng men. Lão gói nó lại trong một cái khăn tay bẩn, rồi đứng dậy nói, “Cái huyệt của cậu đây rồi. Đúng với kích thước cái rương, hoàn toàn vừa vặn!” Tôi thò tay vào túi lấy tiền ra trả công cho lão. Tất cả số tiền tôi có là hai kran và một abbasi. Lão già bật lên một tiếng cười khô khốc làm tôi rợn cả da gà, và nói: “Đừng bận tâm. Thôi được. Lão biết chỗ cậu ở. Vả lại, lão tìm thấy cái hũ này có thể thay cho tiền công. Đây là một cái bình Rhages từ thành phố cổ Rey đấy.” Rồi lão cười mạnh tới nỗi đôi vai gù gập người lại lắc lư. Lão kẹp cái hũ gói trong cái khăn bẩn vào dưới nách rồi bước về phía cái xe tang. Với sự nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên, lão nhảy phóc lên rồi ngồi vào ghế đánh xe. Ngọn roi vút trong không trung, cặp ngựa thở hổn hển bắt đầu bước đi. Trong bầu không khí ẩm ướt, tiếng lục lạc quanh cổ chúng vang lên một âm điệu kỳ lạ. Chúng dần dần biến mất vào trong sương mù dầy đặc. Vừa khi còn lại một mình, tôi thở phào nhẹ nhõm, như thể vừa trút khỏi một gánh nặng ra khỏi lồng ngực. Một niềm thư thái tràn ngập toàn thân. Tôi nhìn xung quanh. Tôi đang ở giữa một khu vực nhỏ kín đáo, bao bọc mọi phía là những núi đồi xanh lam nhấp nhô. Dọc theo một dãy đồi, có một số những phế tích những toà nhà cổ xây bằng gạch khối dày. Gần đó là một lòng sông cạn. Đây là một nơi hẻo lánh, tịch mịch. Tôi cảm thấy hết sức vui sướng và nghĩ tới đôi mắt to kia khi tỉnh giấc ngủ trần gian, hẳn sẽ nhìn thấy một nơi thích hợp với khí chất của chúng. Vả lại, hệt như nàng đã sống xa khỏi cuộc đời của người khác khi nàng còn sống, vì thế nàng cũng phải ở xa người đời còn lại, xa khỏi những người chết khác. Tôi nhấc cái rương lên cẩn thận hạ vào lòng huyệt, kích thước huyệt vừa vặn với rương, thật là khít. Tuy vậy, lần cuối cùng, tôi muốn nhìn vào bên trong rương một lần nữa. Tôi nhìn quanh. Không một bóng người. Tôi rút chìa khóa khỏi túi rồi mở nắp rương. Vừa khi tôi vén chiếc áo dài đen của nàng ra, kìa, giữa khối máu đông đặc và dòi ngọ nguậy, tôi thấy hai con mắt to, hai con mắt đen ngây nhìn đăm đăm vào tôi. Sinh mạng tôi như bị nhận chìm vào đôi mắt sâu thẳm ấy. Tôi vội đóng nắp rương lại rồi phủ đất lên. Khi huyệt đã lấp đầy, tôi giậm chân cho chắc đất, và đem những dây hoa triêu nhan màu thiên thanh không hương thơm trồng trên mộ. Rồi tôi đi gom cát và sỏi rải quanh để xóa dấu vết chôn cất một cách hoàn hảo đến nỗi ngay cả tôi cũng không thể phân biệt được nấm mộ của nàng với phần đất xung quanh. Khi xong việc, tôi nhìn vào mình, quần áo bị vấy đất và rách, một cục máu đen bết lại. Hai con nhặng có màu ong vàng, đang lượn quanh tôi và những con dòi bé xíu đang ngọ nguậy, dính lên quần áo tôi. Tôi cố gắng gạt vết máu khỏi vạt áo choàng. Tôi càng thấm tay áo bằng nước miếng và chà lên chỗ hoen, vết máu càng loang ra có màu càng đậm hơn rồi chúng ngấm vào người tôi, tôi cảm thấy độ nhớp nháp của máu trên da tôi. Hoàng hôn tới gần. Một cơn mưa bụi rơi xuống. Vô tình, tôi bắt đầu bước đi theo vết chiếc xe tang. Vừa khi trời sẩm tối thì tôi mất dấu xe nhưng vẫn tiếp tục đi trong bóng tối thăm thẳm, chậm rãi và không mục đích, vô thức, như một người trong mộng mị. Tôi không biết mình đi về hướng nào. Vì nàng đã đi rồi, vì tôi đã nhìn thấy đôi mắt to kia giữa một khối máu đông đặc, tôi đang đi trong một màn đêm thăm thẳm tẩm liệm kín toàn bộ đời mình. Đôi mắt ấy là đèn soi đời tôi, đã bị dập tắt vĩnh viễn, và giờ đây tôi có đi tới một nơi nào hay không chẳng còn quan trọng nữa. Một sự yên lặng hoàn toàn bao phủ mọi vật. Tôi cảm thấy cả nhân loại bỏ rơi mình. Tôi tìm sự an trú cùng với những vật vô hồn. Tôi ý thức về mối liên hệ giữa tôi với nhịp đập của tự nhiên, giữa tôi với đêm sâu đã đáp xuống linh hồn tôi. Sự im lặng này là một ngôn ngữ mà chúng ta không thể hiểu. Đầu tôi choáng váng như trong cơn say ngất. Tôi cảm thấy buồn nôn. Đôi chân bắt đầu kiệt sức và cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Tôi đi vào trong một nghĩa địa bên đường rồi ngồi trên một bia mộ. Hai bàn tay ôm lấy đầu và tôi gắng bình tĩnh tìm giải đáp về tình cảnh của mình. Đột nhiên, một tiếng cười khô khốc the thé lay tôi về thực tại. Tôi quay đầu nhìn thấy một bóng người với khuôn mặt bị che khuất bởi cái khăn quấn cổ. Bóng người ngồi bên cạnh tôi, cánh tay kẹp vật gì đó gói trong một tấm khăn. Bóng người quay sang tôi và nói, “Lão đoán là cậu muốn vào thành phố, và cậu bị lạc đường à? Có lẽ cậu đang thắc mắc lão đang làm gì trong nghĩa địa vào đêm hôm khuya khoắt này? Không cần phải sợ. Công việc thường xuyên của lão là giải quyết những xác chết. Đào mồ là nghề của lão. Nghề không tệ đấy hử? Lão rành mọi ngóc ngách ở đây. Chẳng hạn, hôm nay đi đào mộ, lão tìm thấy cái hũ này trong lòng đất. Cậu biết không? Là một cái bình hoa Rhages từ thành phố cổ Ray. Nếu như nó là cái hũ vô dụng, lão tặng cậu giữ làm kỉ niệm.” Tôi thọc tay vào túi lấy ra hai đồng kran và một abbasi. Lão già có tiếng cười khô khốc làm toàn thân tôi sởn gai ốc, nói, “Ối dào, quên nó đi! Lão biết cậu. Lão biết chỗ cậu ở. Kìa, lão có cỗ xe tang đậu ngay đây. Để lão đưa cậu về, hử. Xe chỉ cách đây có mấy bước thôi.” Lão đặt cái hũ vào lòng tôi rồi đứng dậy. Lão cười dữ dội tới nỗi hai vai lắc lư. Tôi cầm cái hũ lên và đi heo cái bóng khom khom của lão. Ở khúc rẽ con đường là cỗ xe tang cũ nát với hai con ngựa đen gầy bị thắng vào. Lão già vọt người lên bằng sự nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên rồi ngồi vào chỗ đánh xe. Tôi leo vào xe rồi nằm duỗi người trong khoảng trũng đặt quan tài, đầu gối vào cái gờ cao để có thể nhìn ra bên ngoài. Tôi đặt cái bình lên ngực và giữ chặt nó. Ngọn roi vun vút trong không trung, cặp ngựa hổn hển lên đường. Chúng di chuyển bằng những bước dài và uyển chuyển. Móng guốc của chúng chạm xuống đất nhẹ nhàng và yên ắng. Tiếng lục lạc đeo cổ của chúng vang lên âm điệu kỳ lạ trong bầu khí ẩm ướt. Từ những kẽ hở ra giữa mây, những ngôi sao nhìn chằm chằm xuống mặt đất như những con mắt ló ra khỏi khối máu đông đặc. Một cảm giác thư thái tràn ngập khắp người tôi. Chỉ còn cái bình đè lên ngực tôi như sức nặng của một tử thi. Trong màn đêm, như sợ bị trượt ngã, đám cây quấn quít vào nhau với những cành xoắn lại như thể những bàn tay ôm ghì lấy nhau. Dọc bên đường, có những ngôi nhà với những hình kỉ hà dị dạng và vài ô cửa sổ đen trơ trụi. Một ánh quang mờ mờ, xanh xao như ánh đom đóm phát tỏa ra từ các bức tường của những ngôi nhà ấy. Cảnh tượng đáng sợ khi cây cối lướt qua từng nhóm từng cụm rồi lao vút khỏi chúng tôi. Nhưng dường như chân của chúng bị vướng vào những dây triêu nhan khiến chúng ngã xuống đất. Mùi xác chết, mùi thịt thối rữa đã thấm vào người tôi như thể cả đời tôi đang nằm trong một cỗ quan tài đen, trong khi một lão già gù mà gương mặt tôi không thể thấy được đang chở tôi đi giữa sương mù cùng những hồn phách đang lởn vởn. Cỗ xe tang dừng lại. Tôi nhấc chiếc bình lên rồi nhảy xuống đất. Tôi đang ở trước nhà mình. Tôi vội vào trong căn phòng, đặt cái hũ lên bàn, lấy ra cái hộp thiếc mà tôi dùng như ống heo tiết kiệm được cất giấu trong buồng tủ. Tôi ra cửa định biếu lão đánh xe thay cho tiền công, nhưng lão đã biến mất, không một dấu hiệu nào về lão cũng như cỗ xe tang. Thất vọng, tôi trở về phòng, thắp đèn, lấy cái hũ ra khỏi cái khăn, rồi dùng tay áo lau sạch lớp bụi đất bao phủ. Đó là một cái bình cổ tráng men tím trong suốt và đã ngả sang màu cánh nhặng vàng. Trên bụng bình, một bên có khuôn dạng quả hạnh được viền khung bằng những đóa triêu nhan màu thiên thanh, và ở giữa cái khuôn... Ở giữa cái khuôn hình quả hạnh là chân dung nàng... gương mặt một người nữ có đôi mắt đen to, đôi mắt lớn hơn bình thường; đôi mắt mang vẻ trách móc như thể tôi đã phạm phải tội không thể tha thứ mà tôi không hay. Đôi mắt mê luyến, sợ hãi, mang vẻ vừa lo âu và ngạc nhiên, vừa đe dọa và hứa hẹn. Đôi mắt làm tôi kinh hãi, nhưng lại quyến rũ, từ đáy mắt là ánh tỏa dị thường và say sưa. Gò má nàng cao, trán rộng, đôi mày mảnh mai và giao nhau, đôi môi đầy đặn, hé mở, và mớ tóc rối, một lọn tóc dính bết vào thái dương nàng. Tôi lấy ra từ cái hộp thiếc bức chân dung nàng đã vẽ vào đêm hôm trước và đem so sánh hai bức. Không mảy may khác nhau giữa bức vẽ của tôi với bức vẽ trên cái bình. Có thể nói cái này là phản chiếu của cái kia trong tấm gương. Chúng giống hệt nhau như tác phẩm của một người, và cả hai được vẽ bởi một người trang trí nắp hộp bút xấu số. Có lẽ, vào thời điểm vẽ, hồn người trang trí của cái bình đã nhập vào tôi và dẫn dắt bàn tay tôi. Hai bức không thể phân biệt, ngoại trừ bức của tôi trên mặt giấy, trong khi bức trên bình được phủ bằng một lớp men cổ trong suốt đã truyền một vẻ bí ẩn, một cái hồn kỳ lạ, và dị thường vào trong bức tranh. Từ sâu thẳm đôi mắt, một tia ác tinh đang chiếu ra. Không, thật khó tin: cả hai bức đều miêu tả cùng đôi mắt to, vô tư lự, cùng kín đáo dè dặt nhưng vẻ mặt lại buông thả. Không thể hiểu được những cảm giác của tôi lúc này. Tôi muốn chạy trốn khỏi chính mình. Có thể nào xảy ra một sự trùng hợp đến thế? Một lần nữa, mọi sự sa đọa của đời tôi hiện ra trước mắt. Đôi mắt của một người hãy còn chưa đủ cho đời tôi hay sao? Giờ đây, hai người đang nhìn vào tôi với cùng đôi mắt của nàng. Không, điều này vượt quá sức chịu đựng. Đôi mắt ấy tôi đã chôn cất bên quả đồi, dưới gốc cây trắc bá chết khô, cạnh dòng suối khô cạn, dưới những đám hoa triêu nhan, giữa khối máu đông đặc, giữa đám dòi bọ cùng những sinh vật hôi thối và chúng đang mở tiệc tùng quanh nàng, và chẳng mấy chốc, rễ cây sẽ xâm nhập vào đôi mắt nàng rồi hút cạn, cũng đôi mắt ấy lúc này đây tràn trề sức sống đang nhìn tôi! Tôi không bao giờ nghĩ mình quá đỗi xấu số và bị nguyền rủa đến như vậy. Thế nhưng, cùng lúc, cảm giác về tội lỗi tiềm ẩn đã nảy sinh ra một cảm xúc khoan khoái kỳ lạ không thể lý giải, vì tôi nhận ra rằng mình đã có một người bạn đồng cam cộng khổ từ cổ xưa. Phải chăng người vẽ trang trí ấy thuở xưa, cách đây hàng trăm hoặc hàng ngàn năm đã vẽ bức hình này trên cái bình, y chẳng phải là người đồng bệnh tương lân với tôi sao? Chẳng phải y cũng đã trải qua những kinh nghiệm tâm linh như tôi? Cho tới nay, tôi tự xem mình là sinh vật xấu số nhất, nhưng giờ đây tôi hiểu rằng ở một nơi nào đó trên rặng đồi núi kia, trong những ngôi nhà gạch khối của thành phố đổ nát kia, trong số những xương cốt đã mục nát, những phân tử từ những thân xác ấy giờ có lẽ đang sống cuộc đời khác trong những đóa hoa triêu nhan. Và trong số những kẻ ấy, từng có một họa sĩ bất hạnh, một họa sĩ bị nguyền rủa, có lẽ là một người trang trí nắp hộp bút khốn khổ, và hắn là người giống hệt như tôi. Và tôi biết rằng cuộc đời hắn cũng đã bị cháy và tan chảy vào bóng thăm thẳm của hai con mắt to đen, hệt như tôi. Ý nghĩ này khiến tôi được an ủi. Tôi đặt bức tranh của tôi cạnh bức tranh trên chiếc bình rồi đi nhóm than cho cái lò hơ thuốc phiện. Khi than ngả hồng, tôi đặt cái lò xuống phía trước hai bức tranh. Tôi rít mấy hơi từ ống hút, khi thuốc bắt đầu ngấm, tôi nhìn chăm chú vào hai bức tranh. Tôi đang cố tập trung tư tưởng và chỉ có làn khói thanh thoát của thuốc phiện mới khiến tôi có thể tập trung và có được sự yên bình. Tôi đã hút hết số thuốc phiện còn lại, hy vọng thứ ma túy dị thường này sẽ xua tan mọi trở lực, sẽ vén khỏi bức màn vốn che tâm nhãn của mình. Liệu nó có thể xua tan được mọi ký ức chồng chất, xa xôi và ảm đạm? Trạng thái mà tôi chờ đã xuất hiện và vượt ngoài tiên liệu. Dần dần, tâm tưởng của tôi trở nên tinh vi, huyền ảo và tráng lệ mà chỉ có thuốc phiện mới có thể đem lại, và tôi chìm vào trạng thái nửa ngủ nửa mê. Chẳng mấy chốc, tôi cảm thấy sức nặng đè trên ngực mình được cất khỏi, như thể luật hấp dẫn không còn tồn tại và tôi bay lượn tự do theo những ý tưởng của mình đang càng trở nên khoáng đạt, nhạy bén và chính xác. Một niềm khoái cảm sâu xa không thể tả được xâm chiếm toàn thân, tôi đã thoát khỏi gánh nặng của thân xác trói buộc. Tôi thấy mình đang trong một thế giới yên bình nhưng tràn đầy những hình dạng và màu sắc mê luyến tuyệt vời. Và rồi, chuỗi tâm tưởng của tôi bị ngắt đoạn và phần còn lại hòa tan vào trong những màu sắc và hình dạng này. Tôi ngập vào trong một bể sóng vỗ về nhẹ nhàng lên mình. Tôi nghe được quả tim mình đập, và cảm thấy huyết quản đang luân lưu. Đó là một trạng thái sống đầy ý nghĩa và lạc thú. Từ thâm tâm, tôi muốn quy hàng cho giấc ngủ vô vi của quên lãng. Nếu chỉ sự quên lãng là đạt được, nếu nó kéo dài mãi mãi, nếu đôi mắt tôi khi nhắm lại êm ái vượt qua giấc ngủ rồi hoàn toàn đi vào cõi hư không tới nỗi tôi không còn cảm thấy sự tồn tại của mình, nếu đời tôi có thể tan vào một giọt mực, vào một nốt nhạc, hoặc vào một tia sáng, và rồi những màu sắc và những hình dạng này càng lúc càng lớn ra và trải rộng mãi cho tới khi chúng tan biến, vậy thì những ước muốn của tôi được thỏa mãn. Dần dần, một cảm giác tê liệt xâm chiếm tôi, nó như một cơn mệt lử đầy dễ chịu hoặc như những đợt sóng mềm mại liên tục phát ra từ thân thể tôi. Rồi tôi thấy như thể dòng đời mình đang trôi ngược chiều. Tuần tự, những giai đoạn và những sự kiện trong quá khứ, những kỉ niệm tuổi thơ bị đánh mất, bị xóa mờ đã tái hiện. Tôi không chỉ nhìn thấy, mà còn tham dự vào trong những biến cố rộn ràng của dĩ vãng, và chìm ngập hoàn toàn vào trong đó. Cứ từng khoảnh khắc trôi qua, tôi càng lúc càng nhỏ lại và càng giống như đứa bé. Rồi bất chợt tâm trí tôi trở nên trống không và mờ mịt. Như thể tôi bị treo lơ lửng dưới một cái móc mỏng manh trong một đáy giếng sâu, tối đen. Rồi cái móc được cởi ra và tôi rơi xuống qua khoảng không. Không có chướng ngại nào làm gián đoạn cú rơi của tôi. Tôi đang rơi vào một vực thẳm vô tận trong một đêm vĩnh hằng. Sau đó, một chuỗi những cảnh đã quên lãng lóe hiện tiếp nối nhau trước mắt tôi, rồi tôi đã trải qua một khoảnh khắc của sự hoàn toàn quên lãng. Khi chợt tỉnh lại, tôi thấy mình trong một căn phòng nhỏ và trong một tư thế khác thường, một tư thế gần như kỳ lạ nhưng lại vừa tự nhiên với tôi.

Chú thích:

[3] Một ngôi đền và nghĩa trang tọa lạc giữa những phế tích thành Ray, cách Teheran một vài dặm. Ray (Rhages theo cách gọi của người Hy Lạp) là một trung tâm quan trọng vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên và tiếp tục là một trong những thành phố lớn của Iran cho tới khi bị Thành Cát Tư Hãn phá hủy vào thế kỷ 13. (Chú giải theo D.P Costello)