← Quay lại trang sách

II NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN QUA MĨ?

Làng Xuân Lũng hồi đó thuộc phủ Lâm Thao, nổi tiếng là văn học và phong túc trong tỉnh Phú Thọ, dân số khá đông (trên dưới bốn ngàn người) nhưng ít thời có người đỗ cao. Thời anh Bảng, được vài ba người lên tới Cao đẳng tiểu học Pháp Việt[6], anh là một trong những người đó. Ruộng hiếm, nhà nào giàu có cũng được mươi mẫu ta, khoảng ba héc-ta; nhưng đồi sơn khá nhiều; lại thêm có nghề buôn nứa và lá lợp nhà.

Nhà anh Bảng cất ở dưới chân một ngọn đồi trông ra một cái hồ hẹp, dài bên bờ có mấy gốc si. Nhà năm gian, lợp lá cũng như hầu hết các nhà khác vì miền này lá gồi rất nhiều. Ngoài ngôi nhà chính, còn một căn nhỏ, gọi là nhà học, ở gần ngay cổng, dành riêng cho anh Bảng. Vườn rộng nhưng trồng ít cây, chung quanh là hàng rào tre.

Anh dắt tôi lên nhà chính chào thân phụ anh. Cụ gần sáu mươi, góa vợ, tóc bạc, trán cao, râu thưa, người mảnh khảnh, ít nói, có vẻ nghiêm. Từ mấy năm nay cụ thôi dạy học vì trong làng trẻ theo học trường Pháp-Việt cả. Trong nhà còn vài người nữa, nhưng anh chỉ giới thiệu qua loa rồi đưa tôi xuống nhà học. Trong mấy hôm ở chơi, tôi ăn, ngủ tại căn này, không bước lên nhà trên mà cũng gần như không tiếp xúc với mấy người khác trong nhà, chỉ khi nào gặp nhau mới chào nhau, thế thôi. Chắc họ ngại tôi là người Hà Nội, có biết đâu, ở quê tôi, tôi cũng sống như họ vậy.

Tối hôm đó, trăng non, anh Bảng dắt tôi đi tắm giếng. Giếng miền này nhiều mà nước trong. Hôm sau, chúng tôi đi chơi khắp trong làng. Nhà cửa cách nhau hàng trăm thước, không trù mật như dưới quê tôi, không nhà nào giàu mà hình như cũng không có nhà nào nghèo quá. Xóm đông đúc nhất là xóm buôn nứa ở bờ một con sông nhỏ. Trừ một dải đồng hẹp, còn thì toàn là đồi thấp, trồng sơn, và lác đác ít bụi chè xanh, làm cho tôi nhớ câu hát:

Rủ nhau lên núi hái chè,

Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi.

Mới ở đây được một ngày tôi đã coi hết cảnh Xuân Lũng, và nay tôi còn giữ lại hình ảnh một ngọn đồi tròn cỏ xanh mướt, với một mái miếu cổ dưới gốc một cây chẩu[7] tán xòe như cái quạt, in hình lên nền trời lãng đãng một bóng mây.

*

Cuộc đi chơi núi Hùng hai hôm sau thực vui. Chúng tôi mang theo thức ăn, khởi hành từ sáng sớm, ra khỏi làng một quãng thì đến một con đường tỉnh trải đá rất vắng mà cũng rất sạch. Đi cả cây số chỉ gặp một hai bóng người, tuyệt nhiên không thấy một chiếc xe. Cơ hồ con đường chỉ để dùng trong mấy ngày giỗ Tổ. Hai bên là rừng, đồi chè. Có những gốc thị cao, quả chín vàng cành. Có những giếng nước xây bằng đá ở sát bên đường, xa xa gặp một ngọn đồi trồng dứa với căn nhà lá của chủ trại. Thật tĩnh mịch, mát mẻ, nhờ cảnh thay đổi, nên chúng tôi không thấy chán.

Tôi đã bắt đầu mệt thì bỗng qua một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên sừng sững trước mặt, cao và thanh tú hơn các núi chung quanh, tôi hồi hộp như ngẹt thở. Đường dốc, tôi vừa bước vừa ngửng lên nhìn tam quan, và cứ mỗi bước, núi như càng dâng cao lên nền trời xanh, thật uy nghi. Núi có tên là Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, dân trong vùng thường gọi là Núi Đền. Có khoảng 300 bực xây đưa lên đỉnh. Ở dưới chân núi có đền Hạ, cũng gọi là đền Giếng (vì trước đều có mạch nước tụ lại thành giếng) thờ hai bà công chúa Tiên Dung và Ngọc Dung, con một vua Hùng.

Chúng tôi leo lên tới tam quan của đền Trung ở lưng chừng núi. Trước đền có một tấm bia lớn nét chữ còn rõ, nhắc lại lịch sử các vua Hùng. Đúng như anh Bảng nói, ở đây chỉ nghe thấy tiếng khỉ và tiếng bìm bịp, mà tiếng bìm bịp khoắc khoải lạ thường, gợi ta nhớ lại biết bao cuộc hưng vong của dân tộc. Mới mấy năm trước Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang cũng đã leo lên những bục này để lên đến nơi thề đồng sinh đồng tử trước bàn thờ Tổ.

Nghỉ ở đấy một lát, chúng tôi lại leo một đỗi nữa lên tới đền Thượng trên đỉnh, thờ mười tám Đức Hùng Vương phía trước có bức hoành phi rất lớn khắc bốn chữ, tôi nhớ mại mại là Việt Nam triệu tổ, nét rất hùng kính.

Đền nhỏ thôi, có học giả bảo xây từ đời Lí; đã trùng tu năm 1914, và có lẽ năm nào cũng quét vôi lại, nên không có vẻ cổ. Rẩt tiếc hôm đó ông từ đi vắng, cửa đền khóa kín, chúng tôi không được vào thăm.

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Sơn Tây – vì thời xưa Phú Thọ thuộc về Sơn Tây), năm Tự Đức thứ 13 (1860). Hộ đốc Sơn – Hưng – Tuyên[8] là Bùi Ái, nhân có hai cây trụ đá, mới cất một gian bàn thờ Tổ. Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi[9] đề một bài thơ:

“Quốc tịch Văn Lang cổ,

Vương thư Việt sử tiên.

Hiển thừa thập bát đại,

Hình thắng nhất tam xuyên.

Cựu trủng[10] cao sơn bán,

Sùng từ tuấn lãnh điên.

Phương dân ngưng trắc giáng,

Hương hỏa đáo kim truyền.

Nghĩa:

Thời xưa (vua Hùng) khai sáng nước Văn Lang,

(Lập nên) triều đại đầu tiên trong Việt sử.

Truyền được mười tám đời,

Cảnh đẹp nhất đất Tam Xuyên.

Mộ cũ ở lưng chừng núi,

Đền dựng ở đỉnh núi,

Nhân dân chiêm ngưỡng khi thần trắc giáng

Hương hỏa đến nay vẫn còn.

Không hiểu Tam Xuyên đó là ba con sông nào. Có lẽ là sông Đà, sông Lô và sông Hồng, cả ba đều đổ vào Việt Trì, xưa là thành Phong Châu. Theo truyền thuyết, chính điện của các vua Hùng xưa ở trên núi này, nghĩa là cách kinh đô tới hai chục cây số, điều đó e không đúng.

Bài thơ nói mộ cũ ở lưng chừng núi, không rõ nơi nào, cũng chỉ là lời truyền. Hiện nay bên trái phía sau đền, có một cái tháp, không có vẻ gì cổ kính, gọi là Lăng Tổ, chắc chỉ là tượng trưng. Tuy biết vậy mà lòng tôi cũng cảm xúc dào dạt, khi thăm Lăng rồi đứng nhìn qua cành lá thấy loang loáng ở xa xa, dòng nước ngã ba Bạch Hạc. Cái khu rộng mấy chục cây số này gợi cho chúng ta biết bao cố sự, biết đâu đào sâu chẳng kiếm được rất nhiều cổ tích.

Anh Bảng đọc cho tôi nghe một đôi câu đối mấy năm trước một đoàn sinh viên trường Đại học Hà Nội cùng vào đền Tổ:

Con cháu ba kì thăm mộ Tổ,

Non sông muôn thuở rạng nòi Tiên.

và một đôi câu đối nữa, có từ trước, không rõ của ai:

Vật đổi sao dời, phúc Tổ vẫn lưu nền Cổ Tích

Nước nguồn cây cội, đạo người nên nhớ mộ Hùng Vương.

Chúng tôi trải một tờ báo dưới bóng cây bày xôi gà, muối chanh ra rồi vừa ăn, anh Bảng vừa kể cho tôi nghe về hội Đền Hùng. Mùng 10 tháng 3 là ngày giỗ Tổ, nhưng từ ngày mùng 9, thiên hạ khắp nơi đã đổ tới, đông nghẹt một vùng mà ngày thường chỉ nghe thấy tiếng chim bìm bịp và tiếng khỉ, vì hôm đó đã có hai đám rước tưng bừng, một từ làng Phù Ninh kéo lên, một từ làng Cổ Tích kéo xuống đám nào cũng có một kiệu bày bánh chưng và bánh dày.

Hôm sau, một vị đại thần đại diện Nam triều và các quan ở Phú Thọ lên tế. Suốt ba ngày đó, có đủ các trò chơi: leo dây, múa rối, hát chèo, hát xẩm, tổ tôm điểm, bài chòi, đu tiên, gieo cầu… Cầu làm bằng nhiễu đỏ nhồi bông lớn bằng quả bưởi. Nam thanh nữ tú đứng riêng thành hai bên cách nhau ít thước. Một người bên nữ hát một câu rồi tung quả cầu qua bên nam: người nào bên nam bắt được, cũng hát đáp rồi tung cầu trả lại bên nữ. Thanh nhã nhất là trò cờ người - một lối thi hoa hậu đặc biệt của dân tộc ta. Các thiếu nữ được tuyển làm quân cờ đều phải là con nhà lễ giáo và nết na. Cô đẹp nhất được làm “tướng”, vấn chiếc khăn vòng dây nhiễu điều, bận áo thụng vóc vàng, quần lãnh đen, chân đi vân hài, tai đeo hoa cánh phượng. Khách xem cờ chen chúc nhau ở chung quanh, một số ít vì thích cờ, còn đa số để ngắm sắc đẹp, tìm dâu hoặc kiếm vợ.

Anh Bảng còn cho tôi biết thêm hai tục về giỗ Tổ. Dân ở đây không ăn Tết mùng 3 tháng 3 mà ăn Tết mùng 10 tháng 3. Ngày đó, nhà nào cũng cơm canh đón ông bà ông vải về để đi chầu Tổ.

Tục thứ nhì là tục đưa đón đức thánh Tản Viên, ở lại một làng huyện Bất Đạt (Sơn Tây) trên bờ sông Đà. Ngày mùng 9 dân làng hạ một chiếc đò nan mới; giữa đò trải một chiếc cạp điều, một mâm xôi gà, với đèn nhang rồi chèo qua bờ bên kia sông, chèo đi chèo về ba lần, như vậy là Lễ đưa (đức Thánh Tản Viên đi dự Tổ). Chiều hôm sau, cũng lại chèo đi chèo về ba lần, gọi là Lễ đón, sau cùng bưng bát nhang lên kiệu rước về Đình, vào Đám.

Ăn xong, chúng tôi ngả lưng trên bệ trước cửa đền nghỉ một lát. Tuy mệt vì phải leo mất trăm bực xây, mà bóng cây mát rượi, gió lại hiu hiu, nhưng chúng tôi cũng không ngủ được, vì nặng lòng hoài cảm.

*

Đột nhiên anh Bảng quay lại phía tôi, cặp mắt mơ màng như đang suy tư rồi cất tiếng hỏi:

- Anh có biết người Việt đầu tiên qua Hoa Kì là ai không?

Tôi đáp:

- Sử chép là Bùi Viện, triều Tự Đức. Nhưng tại sao anh lại hỏi tôi như vậy? Tôi đương nghĩ đến truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, truyện bánh chưng bánh dày, đến cố đô Phong Châu đây.

- Phải, có sách chép rằng Bùi Viện dâng sớ lên vua Tự Đức xin mở mang việc buôn bán với ngoại quốc, sau được nhà vua cho phép xuất ngoại dò xét tình hình. Ông qua Hương Cảng kết giao với viên lãnh sự Hoa Kì, định nhờ Hoa Kì giúp khí giới để chặn bước xâm lăng của Pháp. May mắn làm sao, vị đại sứ Hoa Kì mà sử không chép tên, biết Hán văn, hai người khỏi phải dùng thông ngôn, lại ngâm vịnh với nhau nữa – thơ Đường luật của ông Hoa Kì đó hay đáo để anh ơi - cảm tình đối với nhau thật nồng hậu. Bùi Viện mừng quýnh. Khi về nước thấy nhà vua đổi ý, không còn sốt sắng như trước, ông cả gan mạo quốc thơ, trở qua Hương Cảng lần nữa, theo một người bạn qua Hoa Kì, được tổng thống Hoa Kì là Grant tiếp kiến, hứa giúp đỡ. Vì lúc đó Hoa Kì đương xích mích với Pháp. Ông thú thực là đã giả mạo quốc thư, xin về tâu lại với vua đã. Về nước vua Tự Đức tha tội cho ông và chánh thức cử ông cầm đầu sứ bộ sang cầu viện Hoa Kì. Nhưng lần này chính Tổng thống Grant thay đổi ý kiến, tìm cách thoái thác. Ông thất vọng, lủi thủi xuống tàu và không còn trông mong gì ở Hoa Kì nữa.

Đó là một thuyết. Còn một thuyết nữa bảo vị Tổng thống Hoa Kì đó không phải là Grant mà là Lincoln. Lincoln mà người Hoa Kì coi là quốc phụ, làm tổng thống từ 1859 tới 1865. Còn Grant, vốn là một vị tướng dưới thời Lincoln, đã thắng tướng Lee của phương Nam trong cuộc Nam Bắc phân tranh, làm tổng thống hai khóa liên tiếp từ 1868 đến 1872 rồi từ 1872 đến 1876.

Hai thuyết đó biết tin thuyết nào? Bùi Viện đã qua Hoa Kì trong khoảng nào, trước 1865 hay sau 1868? Tôi đã rán tra khảo về tiểu sử Bùi Viện, thấy có sách chép ông người làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình, đỗ cử nhân khoa Mậu Thìn 1868. Nếu tài liệu đó đúng thì thuyết thứ nhất đáng tin hơn: vì chắc ông phải đậu cử nhân rồi mới được vua Tự Đức phái qua Hoa Kì; vậy ông đã cầu viện Tổng thống Grant chứ không phải Tổng thống Lincoln. Vả lại Lincoln còn lo dẹp nội chiến, vừa dẹp xong thì bị ám sát, đâu có tâm trí nào mà nghĩ tới Việt Nam. Còn Grant mới đầu tính giúp Việt Nam, sau tìm cách thoái thác, điều này cũng tin được: về khoảng cuối nhiệm kì thứ nhất của ông, khoảng 1871 – 1872, tài chánh trong nước không khả quan, ông không thể giúp Việt Nam được. Vậy theo tôi, Bùi Viện đã qua Mĩ trong khoảng từ 1870 đến 1872. Nhưng khi tôi tra Quốc triều đăng khoa lục thì không thấy ghi rằng Bùi Viện đậu cử nhân năm 1868[11], vậy thì thuyết của tôi vẫn chưa thực là vững.

- Tôi phục anh sát đất. Sao mà anh thuộc sử nước mình và nước người quá vậy? Y như một học giả.

- Giả với thật gì! Tò mò muốn biết thì tìm kiếm, tìm kiếm thì phát kiến ra được chứ có gì đâu… Nhiều lúc nghĩ mà ngán anh ạ. Bỏ ra mấy ngày tháng mới tìm được một tài liệu, hí hửng tưởng là nắm được sự thật rồi. Những lúc đó sướng như gặp giai nhân. Nhưng vài tháng sau, một năm sau lại kiếm được một tài liệu khác phản tài liệu trên, thất vọng nhé! Lại phải kiếm thêm nữa, càng kiếm càng rối như tơ vò! Mà không kiếm cho ra thì thắc mắc chịu không nổi!... Nhưng cũng có cái lợi anh ạ. Sách vở để ngổn ngang ở chung quanh, mà xoay trần ra đọc và ghi chép, thì quên được cái nóng nướng người như vụ hè này anh ạ.

Anh khẽ nhếch mép, rồi lại trầm ngâm, một lát sau nói tiếp:

- Tôi thường nghĩ nếu việc đó thành công - việc cầu viện Hoa Kì đó – thì là cái phúc hay cái họa cho mình? Không, không thể là phúc được vì chẳng có ai giúp không cho mình cả, đuổi được Pháp đi thì Hoa Kì tới, phải không anh? Tôi chỉ muốn nói, nếu việc đó thành công thì dân tộc mình bị cái họa nặng hơn hay nhẹ hơn thế thôi.

Tôi suy nghĩ một lát rồi bảo:

- Tôi nhớ hôm đó trong giờ sử, anh có chê dân tộc Hoa Kì là ham vật chất, không có truyền thống văn hóa mà cụ Laffont cũng nhận rằng anh phán đoán đúng.

- Phải nhưng họ rất giàu và có lẽ họ không bóc lột mình tàn nhẫn như người Pháp.

- Điều đó chưa chắc. Không phải cứ giàu có thì không bóc lột. Trong thôn quê của mình, những kẻ giàu nhẩt thường tàn nhẫn nhất, vì tàn nhẫn nên mới giàu. Anh đọc nhiều về sử, chắc anh biết chính sách cai trị thuộc địa của người Hoa Kì chứ?

- Tôi chưa có thì giờ đọc lịch sử các thuộc địa của họ. Nhưng có thể anh hữu lí. Chuyện đó để sau này sẽ bàn. Hôm nay tôi muốn kể anh nghe một chuyện khác…

Anh ngừng lại mắt long lanh, môi hé một nụ cười. Tôi làm thinh, đợi anh kể:

- Lúc nãy anh bảo người Việt đầu tiên qua Hoa Kì là Bùi Viện. Sai. Người đầu tiên là cụ Trần Trọng Khiêm.

- Trần Trọng Khiêm là ai? Ở thời nào vậy? Tôi không nghe tên đó.

- Cũng sống ở triều Tự Đức như Bùi Viện, nhưng sanh ở đầu đời Minh Mạng, hơn Bùi Viện khoảng hai chục tuổi. Chúng ta không biết rõ Bùi Viện qua Hoa Kì năm nào, nhưng biết chắc cụ Trần Trọng Khiêm đặt chân lên đất Hoa Kì năm 1849 và đã sống ở Hoa Kì bốn, năm năm.

- Lạ nhỉ. Một điều quan trọng như vậy mà sử không chép.

Tôi ngồi dậy, tu một hớp nước trà tươi mang từ nhà. Anh cũng ngồi dậy và bắt đầu kể.

- Cụ Trần Trọng Khiêm là em ruột ông cụ sáu đời của tôi, cụ Trần Mạnh Trí. Nhà chỉ có hai anh em trai, gái còn mấy người nữa nhưng gia phả chúng tôi không ghi. Cụ Khiêm sanh năm Tân Tị (1821), năm thứ nhì triều Minh Mạng, mắt sáng, da ngăm ngăm, thân hình vạm vỡ, mười tám tuổi đã học đủ các lề lối khoa cử, nổi tiếng văn hay chữ tốt trong miền, được thầy học quí trọng lắm, hi vọng sẽ làm vẻ vang cho trường. Nhưng tính tình cương cường, hào hiệp, coi thường khoa cử, không thích công danh. Hồi đó làng tôi còn hoang vu, chỉ có một lỏm ruộng ở gần bến Nứa mà hôm qua tôi dắt anh đi coi, còn chung quanh là rừng. Cụ Khiêm ưa săn bắn, ham tập võ nghệ, cho rằng khai thác được một cánh rừng sướng hơn một ông huyện phải ra luồn vào cúi. Cha mẹ khuyên gì cũng không nghe, bảo việc khoa cử xin nhường anh (tức cụ sáu đời của tôi). Năm hai mươi tuổi mới cưới vội, bà họ Lê ở trong tổng. Vợ coi sóc vườn tược cửa nhà, còn chồng mướn một số dân làng phá rừng, được thứ cây nào quí thì đóng bè chở ra Lâm Thao, có khi xuống cả tới huyện Bạch Hạc để bán. Nhờ vậy cụ mau phát và giao thiệp với nhiều thương nhân ở miền xuôi, biết được tình hình ở Hà Nội và Phố Hiến, nơi các thương nhân ngoại quốc thường lui tới. Vợ chồng quí mến nhau lắm nhưng hơi buồn rằng sau ba năm vẫn chưa có con. Bà cụ họ Lê nhu mì lại có nhan sắc, hồi chưa về làm dâu họ Trần tên chánh tổng trong miền đã có lần hỏi cưới làm vợ lẽ, bị bà từ chối. Hắn đâm lòng oán, lại thêm cụ Khiêm tính ngang tàng, coi hắn không ra gì, nên hắn tìm cách hãm hại. Năm 1843, nhân lúc cụ Khiêm và gia nhân chở gỗ ra Lâm Thao bán, ở nhà chỉ còn bà vợ và một ông lão bộc thân tín, hắn sai bọn đàn em bôi đen mặt xông vào nhà, giết bà vợ và ông lão bộc, rồi nổi lửa đốt nhà. Hôm sau hắn cũng làm bộ tới điều tra, tuyên bố là do một bọn cướp, để rồi truy nã; nhưng ai cũng đoán thủ phạm chính là hắn. Về tới nhà hay tin, cụ Khiêm điếng người đi một lúc, rồi bình tĩnh chôn cất vợ mà không tỏ một lời oán thán, nguyền rủa nào cả. Ba ngày sau, cụ đi thăm cha, anh, gia đình bên vợ, vì muốn xuống Hà Nội buôn bán với một người quen một ít lâu cho khuây khỏa. Không ai cản cả vì biết tính cụ cương quyết. Từ đó bặt tin của cụ. Nhưng khoảng một năm sau, bỗng có tin tên chánh tổng bị giết ở ven rừng, tại gần cái quán nước mà lúc nãy tôi bảo để lúc về sẽ vào. Hồi đó chưa có quán, chưa có đường cái, và cách đó khoảng một cây số mới có nhà. Mới đầu ai cũng cho là bị kẻ cướp giết, nhưng sau có người nhớ rằng ngày hắn bị giết chính là ngày chết của bà vợ cụ Khiêm năm trước, mà tiền bạc trong người còn đủ, nên người ta đoán cụ Khiêm đã trả thù cho vợ: suốt một năm cụ cải trang sống lén lút trong rừng, dò la tin tức của tên chánh tổng, biết hắn cứ đúng hạn lui tới nhà một người vợ lẽ ở miền đó, nên đã chọn sẵn, lựa ngày hạ thủ. Người ta chỉ thì thầm bàn tán với nhau như vậy thôi, chứ tuyệt nhiên không ai thấy bóng dáng cụ Khiêm ở đâu, cũng không có một tin tức gì về cụ cả. Hoàn toàn bí mật. Vụ đó quan như không tìm ra được manh mối. Cụ tổ sáu đời của tôi bị gọi lên phủ mấy lần để họ điều tra, nhưng cứ sự thực mà thưa, rốt cuộc êm. Ba bốn năm sau, không ai nhắc tới nữa.

- Bỗng mười sáu năm sau… (anh Bảng ngừng lại một chút, nở một nụ cười rất tươi, nắm tay tôi, kéo tôi đứng dậy)… đây mới là điểm chính trong truyện, bỗng mười sáu năm sau, trong khi cả họ hàng bên tôi và bên bà cụ Lê, cả làng xã đều tin rằng cụ Khiêm đã mất tích rồi – vì đã mấy lần nhờ người hỏi thăm ở Hà Nội mà không được tin tức gì cả - thì cụ tổ tôi, tức anh ruột cụ Khiêm nhận được một bức thư. Bức thư đó hiện nay thầy tôi còn giữ. Thôi, chúng mình đi về thì vừa. Xế bóng rồi.

- Bức thư đó của cụ Khiêm?

- Phải.

- Từ đâu gửi về?

- Từ Nam Kì?

- Thế là cụ Khiêm đã vào lập nghiệp trong Nam, mà sao lúc nãy anh bảo cụ là người đầu tiên ở nước mình qua Hoa Kì?

Anh Bảng mỉm cười hóm hỉnh đáp:

- Anh này nóng tính quá. Đợi về nhà, tôi cho anh coi bức thư đó rồi sẽ kể tiếp. Bây giờ chúng mình hạ san thôi. Thức ăn, nước uống hết rồi, mấy chai này mình để lại đây cho ông từ, mình về tay không cho nhẹ.

Chúng tôi thủng thẳng xuống núi, ngừng lại ở Tam Quan một lúc vì chỗ này có một sân rộng vừa sạch vừa mát. Tới chân núi tôi quay lại nhìn lên một lần nữa. Quốc Miếu dựng ở đây thực đúng chỗ, nhưng hẻo lánh quá, vắng vẻ quá, một năm chỉ được con cháu tới viếng một lần. Tôi hơi bùi ngùi.

*

Về được già nửa đường, gần tới một ngã ba, anh Bảng ngừng lại, bảo tôi:

- Đây, tên chánh tổng bị ám sát khoảng chín chục năm trước đâu ở vào chỗ này. Anh mỏi chân không? Chúng mình vào nghỉ trong cái quán kia một lát đã.

Quán cất ngay ở ngã ba, rộng rãi, bằng gỗ, nhưng chỉ có một hai người khác. Trước quán là một chiếc xe kéo, từ sáng tới giờ tôi mới gặp một gặp một chiếc xe đó. Chủ quán ngoài tứ tuần, cao lớn, nước da sạm, nhuộm nâu cài nút qua bên trái. Tôi chăm chú ngó ông ta, ông ta vui vẻ hỏi chuyện chúng tôi, biết gia đình anh Bảng. Nhìn vào trong, tôi thấy một chiếc sân rất rộng là hai lớp nhà lớn, tuy lợp lá nhưng cột và vách bằng gỗ rất khắc. Rõ ràng là chủ quán không sống bằng nghề bán quán. Chúng tôi ăn một chiếc banh gai, một trái chuối, uống một chén trà tươi rồi chào chủ quán ra về. Ông ta lễ phép chào lại.

Ra khỏi quán, tôi nói với anh Bảng.

- Tôi có cảm tưởng vào một quán tả trong Thủy Hử, trên con đường lên Lương Sơn Bạc.

Anh mỉm cười, gật đầu:

- Chủ quán ra vẻ một vị hảo hán lắm, nhưng thời này làm gì có Lương Sơn Bạc. Ông ta sống bằng nghề săn và buôn lâm sản, mở cái quán này để làm trạm thông tin tức, trao đổi văn hóa, thế thôi. Bình thường, cô con gái út của ông coi quán, hôm nay chắc cô mắc việc gì, nên ông coi thay, cô ta mới 15, 16 tuổi, má lún đồng tiền, có duyên đáo để. Tôi tiếc cho anh hôm nay không được gặp mặt. Con gái làng này nổi tiếng… Không kém con gái Bình Định.

- Nếu vậy thì tôi phải kiếm thầy học võ đã.

[6] Tương đương với bằng Thành chung sau này (B.T).

[7] Một loại cây kĩ nghệ cao độ mươi thước, hột dùng để ép dầu (B.T).

[8] Tức Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang.

[9] Nguyễn Bá Nghi (1807…) Danh sĩ, đại thần đời vua Minh Mạng, hiệu là Sư Phần Tử, quê xã Lạc Phổ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Năm 1831 ông đỗ Cử nhân, năm sau (1932) đỗ Phó Bảng, từng làm Án sát Vĩnh Long, Bố chánh An Giang. Có lúc làm khâm sai đại thần cùng Nguyễn Tri Phương chống Pháp xâm lược Nam Kì. Sau khi Pháp chiếm trọn Nam Kì, ông được phái ra Bắc làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên.

Ông mất tại chức, còn để lại đời bộ “Sư Phần thi văn tập” (B.T). [Xem thêm tiểu sử Nguyễn Bá Nghi tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_B%C3%A1_Nghi. (Goldfish)].

[10] Bản nguồn chép là “Cửu trùng”, tôi tạm sửa lại thành “Cửu trủng”. (Goldfish).

[11] Theo Quốc triều hương khoa lục, Bùi Viện đỗ cử nhân năm 1856 lúc mới 15 tuổi (B.T).