III MỘT BỨC THƯ CHỮ NÔM
Tới nhà thì gần xẩm tối. Chúng tôi tắm xong rồi mới ăn cơm.
Tối đó, tôi nhắc anh Bảng kể tiếp chuyện cụ Khiêm. Anh gật đầu, lên nhà trên một lát, rồi trở xuống, vặn to ngọn đèn dầu, đưa tôi coi một tờ giấy bản vàng khè, sờn, lũng một vài lỗ, có nhiều nếp gấp gần muốn rách, nét chữ đã mờ nhưng còn đọc được.
Gia đình tôi đã giữ được tới tôi là sáu đời. Năm ngoái thầy tôi đã định hủy nó chứ, tôi dùng mẹo mà giữ lại được. Một thầy giáo trường tiểu học ở đây hoạt động cho Việt Nam Quốc Dân đảng, lén lút chế tạo tạc đạn trong một cái trại bên cạnh trường, vô ý làm sao để cho nổ, bị thương ở mặt và cánh tay, nhưng không nặng. Lí trưởng tới nơi thì thầy đã trốn mất, được nhiều dụng cụ và vài mảnh tạc đạn. Trên tỉnh tức tốc phái lính và mật thám xuống. Bùi Tư Toàn[12] là người đầu tiên trong số mười ba liệt sĩ hô “Việt Nam…” trước khi bị Pháp chém ở Yên Bái ngày 17-6-1930, và người cuối cùng là Nguyễn Thái Học. Pháp lại cho triệt hạ một xóm làng ở Xuân Lũng, vì vậy cụ Phan Bội Châu có bài Văn tế dân làng Cổ Am và Xuân Lũng, để ghi cái tội tàn sát trả thù của chúng. Có vài người bị bắt lên án tử hình như Bùi Tư Toàn, Hoàng Văn Hợp. Khi mới hay tin, thầy tôi vội gọi tôi vào phòng riêng, bàn tính đốt bức thư này đi, đề phòng lính tới lục xét. Tôi suy nghĩ một chút đáp:
- Vâng, thầy để con đốt. Con đem xuống nhà học đốt cho không ai để ý tới.
Nhưng xuống nhà học, tôi lấy một bức thư khác ra đốt, còn bức này anh biết tôi cất vào đâu không? Tôi luồn vào sau lớp bìa bọc cuốn tự vị Larousse. Anh nghĩ coi, nếu họ có xét nhà học này thì lục thư từ giấy má, các tập vở trong ngăn kéo kia chứ mở chi cuốn tự vị nhất là khi tôi lại cẩn thận viết chữ Dictionnaire Larousse thật lớn ở ngoài giấy bao nữa. Đề phòng vậy thôi, chứ tôi đoán rằng họ không xét nhà này đâu vì trong làng có ai mà không biết rằng chúng tôi không làm cách mạng, nhất là thầy tôi không bị người nào oán cả. Quả nhiên tôi đoán đúng. Bọn mật thám xét mấy nhà thường giao du với thầy giáo, không xét nhà chúng tôi. Bảy tám tháng sau êm rồi, tôi thú thực với thầy tôi, trả lại bức thư. Thầy tôi cười: “Con gan thật”, rồi cất bức thư vào chỗ cũ, tức trong cuốn gia phả, đặt trong khán thờ. Tôi mới xin thầy tôi lấy cho anh xem đây.
Vừa nghe anh kể, tôi vừa nhìn bức thư, gần khoảng hai chục hàng, mỗi hàng lõm bõm đọc được vài chữ. Tôi ngẩng lên hỏi:
- Hình như thư viết bằng chữ Nôm?
- Phải.
- Anh đọc được không?
- Không đọc được nhưng thuộc hết nội dung. Mấy hàng đầu này cụ Khiêm hỏi thăm hết thảy gia đình bên mình và bên vợ. Rồi cho hay từ khi bỏ nhà đi, oán trả rồi, xuống Phố Hiến làm ăn, được người giới thiệu xuống làm trên một tàu buôn ngoại quốc, theo tàu qua Hương Cảng, vừa làm việc vừa học tiếng ngoại quốc. Sau đó theo tàu buôn qua Anh Cát Lợi, Hà Lan, Pháp Lan Tây, cuối cùng qua Hoa Kì cùng với một đoàn người đi tìm vàng, nhưng rồi chán cảnh hỗn độn, trụy lạc của xứ đó, nhất là nhớ quê hương, nhân một chuyến tàu, trở về Hương Cảng, nhập tịch Trung Hoa, cùng vài người bạn Trung Hoa về tỉnh Định Tường, hiện đã có ruộng đất nhà cửa ở làng Hòa An, phủ Tân Thành, đủ sống. Đã tục huyền với một thiếu nữ trong miền, họ Phan, có được hai con trai, tên là Xuân Lãm và Xuân Lương.
Kí tên là Lê Kim, viết ở làng Hòa An, ngày rằm tháng hai năm Canh Thân, tức năm 1860.
Tôi hỏi:
- Thư kí tên Lê Kim, đâu phải Trần Trọng Khiêm?
- Phải, mới đọc tên Lê Kim, cụ tổ tôi chắc hơi bỡ ngỡ, nhưng đọc kĩ cả bức thư thì không còn ngờ gì cả. Ba chữ “oán trả rồi”, thì rõ ràng là chính cụ Khiêm đã giết tên chánh tổng. Rồi anh để ý, tên hai người con: Xuân Lãm, Xuân Lương đều bắt đầu bằng mùa xuân tức hai chữ đầu của làng Xuân Lũng, rõ là để cho con cháu nhớ nơi quê cha đất tổ. Còn tên Lê Kim, thì Lê là tên họ bà vợ trước ở Phú Thọ, Kim với Khiêm cũng phát âm na ná như vậy.
Tôi hỏi:
- Thư đó do ai đưa?
Anh Bảng đáp:
- Ừ, còn điểm đó cũng là thêm một chứng cứ nữa. Do một người Trung Hoa buôn bán ở Bạch Hạc giao lại cho ông cụ năm đời của tôi, tức là một trong những người cháu gọi cụ Khiêm là chú ruột. Cụ đó cũng buôn gỗ, thường tới Bạch Hạc. Hỏi người Trung Hoa đó thì họ không biết gì cả, chỉ bảo do một người bà con ở Phố Hiến gửi lên, người bà con này buôn bán lớn, vào trong Nam mỗi năm một kì, gốc gác ở Quảng Đông, thường về thăm quê nhà, qua Hương Cảng. Mà chính cụ Khiêm trước khi bỏ nhà đi, thường giao thiệp với Hoa Kì ở Bạch Hạc, nghe nói nhiều về Phố Hiến. Vậy chắc là khi đó, cụ nói xuống Hà Nội làm ăn, nhưng sự thực là lén lút ở trong rừng, giết được tên chánh tổng, trả thù cho vợ rồi mới xuống Phố Hiến đổi tên họ và làm cho một tàu buôn ngoại quốc. Cụ thông minh, biết chữ Hán, chữ Nôm, học tiếng Trung Hoa và tiếng Anh chắc mau. Không còn ngờ gì nữa, chính cụ là người Việt đầu tiên đã qua Hoa Kì, tìm vàng ở Hoa Kì và sống ở Hoa Kì mấy năm. Khoảng hai chục năm sau, Bùi Viện mới đặt chân lên đất Mĩ. Bây giờ anh tin tôi chưa?
Tôi đáp:
- Kể ra cũng đáng tin đấy.
- Tôi đã tra trong sử, vào khoảng 1848 – 1850, ở Hoa Kì có phong trào đi tìm vàng thật. Tiếc rằng cụ Khiêm không cho biết đặt chân lên đất Hoa Kì năm nào; nhưng cụ rời quê hương xuống Phố Hiến năm 1844 thì trong những năm từ 1848 tới 1850 cụ có thể tới Hoa Kì được lắm. Lại thêm điểm này còn chắc chắn hơn nữa. Anh đọc được mấy chữ này không?
Anh Bảng vừa nói vừa chỉ cho tôi một hàng chữ ở vào khoảng giữa bức thư: Tôi đọc được chữ Sanh, Pháp và chữ Cổ, còn hai chữ ở giữa không đọc được. Anh bảo:
- Hai chữ đó là Lan, Xích. Sanh Pháp Lan Xích Cổ.
Tôi hỏi:
- Nghĩa là gì?
- Là San Francisco.
- San Francisco thì là Cựu Kim Sơn chứ?
Anh Bảng mỉm cười:
- Cựu Kim Sơn là tên mới đặt ra sau này, mà do người Trung Hoa đặt. Còn người Việt mình qua bên đó, nghe người Hoa Kì phát âm ra sao thì cứ phiên âm theo vậy. Tôi không biết người Hoa Kì phát âm ra sao, cứ tạm theo cách phát âm của Pháp: San phiên âm ra Sanh, Franphiên âm ra Pháp Lan, cũng như France thành Pháp Lan Tây - người Trung Hoa không có âm r nên phiên âm r thành l như: Paris thành Ba Lê, Madame Roland thành La Lan phu nhân – còn cisco thì thành xích cổ là đúng rồi. San Francisco chính là nơi có nhiều vàng – mà cũng là nơi nhiều trộm cắp, đĩ điếm vào thời đó – như trong thư đã nói. Chính vì nhiều vàng nên người Trung Hoa mới dịch là Cựu Kim Sơn. Anh tin tôi chưa.
Tôi gật đầu: Có lẽ.
Anh gấp bức thư lại, cất vào trong cuốn tự vị Larousse, vặn nhỏ ngọn đèn, kéo tôi ra trước hiên.
Nhà ở dưới chân đồi, nên không khí rất hầm. Một đom đóm lập lòe, mở hội trong bụi si ở bờ hồ, chiếu xuống nước như một vũ khúc sao. Cảnh thật tĩnh mịch, không một tiếng động. Anh Bảng ngồi trầm ngâm rồi nói tiếp:
Chí hướng của con người đôi khi do một sự ngẫu nhiên quyết định, anh ạ. Tôi đâu có khiếu riêng gì về sử đâu, kí ức của tôi còn kém các anh nữa. Nhưng ba năm trước, khi tôi mới đậu vào trường Bưởi, thầy tôi, lấy bức thư đó cho tôi coi, dịch cho tôi nghe và kể về đời cụ Khiêm như tôi mới kể cho anh. Tôi hãnh diện rằng tổ tiên đã có người đi khắp nơi như vậy, từ Á qua Âu qua Mĩ trong khi cả nước mới chỉ có vài người biết châu Âu. Từ đó tôi muốn tìm trong sử Việt, sử Pháp, sử Hoa Kì xem có hàng nào nhắc tới cụ Khiêm không. Tôi xin thầy tôi dạy thêm cho tôi chữ Nho là vì vậy. Hễ có giờ nhàn là tôi chỉ đọc về sử thế kỉ XIX, cũng vì vậy.
Tôi bảo:
- Bây giờ tôi mới hiểu tại sao anh không hề đọc tiểu thuyết và sách khoa học như chúng tôi. Anh đã tìm được gì chưa?
- Về sử Việt thì không tìm được gì cả - cụ Khiêm, quên cụ Kim, cụ Lê Kim có danh tiếng gì đâu, không thể có tên trong sử được. Còn sử Pháp và Hoa Kì thì lại càng không chắc. Một chú “Chinois” giang hồ - vì chắc người Âu người Mĩ, gọi cụ là Chinois chứ đâu có biết dân Việt mình, đâu có biết nước Việt mình thì sử nào mà chép. Cho nên đọc cả chục cuốn sách tôi chỉ mới kiếm được vài chứng cứ đã trình với anh đó: Khoảng năm 1848 – 1850 quả có phong trào tìm vàng ở phía tây Hoa Kì, và Sanh Pháp Lan Xích Cổ chính là San Francisco, là Cựu Kim Sơn… Muốn có thêm chứng cứ nữa thì phải vào Nam kiếm cháu chắt họ Lê ở làng Hòa An. Nhưng đã năm sáu đời rồi, chắc gì có chút di tích. Vả lại đường xa quá, làm sao tôi có thể đi được…
Anh ngừng một chút rồi tiếp:
- Nhưng tôi tưởng bấy nhiêu chứng cứ, suy luận của tôi cũng đủ thuyết phục người trong nước tin rằng chính cụ Khiêm là người Việt đầu tiên qua Hoa Kì, phải vậy không anh?
Tôi đáp:
- Kể ra bấy nhiêu cũng tạm đủ rồi. Anh có tính công bố lên báo không:
Anh mỉm cười đáp:
- Quan trọng gì mà công bố? Giá cụ Khiêm đi sứ như Bùi Viện thì lại là chuyện khác. Có công bố thì chẳng có ai coi đó là một tài liệu lịch sử mà chỉ cho là chuyện trà dư tửu hậu. Nhưng mấy năm nay tra cứu trong các sách tôi đã bắt đầu thấy cái thú của công việc sưu tầm anh ạ. Loại sách đó nhiều cuốn đọc cũng mê như các tiểu thuyết Graziella, Paul et Virginie của các anh mà lại thêm cái vui đôi khi ngẫu nhiên kiếm được một tài liệu mới.
Im lặng một lát, rồi giọng anh cất lên trầm trầm:
- Nguyện vọng của tôi là làm công việc khảo cứu, như ở viện Viễn Đông Bác Cổ, không thì ở Thư viện Trung ương cũng được. Làm việc mười năm, hai mươi năm, vừa học thêm thì thế nào chẳng lưu được một công trình cho hậu thế. Nhưng thầy tôi bảo sang năm thi ra, kiếm một việc nào trong một công sở ở Phú Thọ cho gần nhà. Tôi không có anh em trai mà thầy tôi lại già. Tôi phải trông nom sản nghiệp của tổ phụ: vài mẫu ruộng, vài đồi sơn và chè. Thầy tôi đã lo trước cả việc vợ con cho tôi rồi nữa. Chắc anh cho chúng tôi là lạc hậu?
- Sao anh lại nói vậy? Bạn học của mình, vài anh đã có vợ, có con rồi. Đó là chuyện thường. Người ở đâu đấy?
- Anh còn nhớ chiều hôm kia, lại thăm bến Nứa, chúng mình gặp một thiếu nữ bẽn lẽn đứng nép bên đường chào chúng mình không?
- Chính cô ấy ư? Sao anh không giới thiệu?
- Các anh ở Hà Nội có khác. Đây là nơi sơn dã mà. “En”[13] luýnh quýnh, muốn díu chân lại mà giới thiệu cái gì?
Tôi cố gợi lại hình dung thôn nữ đó, chỉ nhớ lờ mờ rằng vóc người mảnh khảnh, thanh, nước da bánh mật, mặc chiếc áo tứ thân màu nâu non, nhưng có vẻ đậm đà lanh lẹn. Tôi khen:
- Cụ khéo lựa đấy. Tôi đoán cô ấy nhu mì mà đảm đang.
Anh Bảng làm thinh. Mấy tháng trước đi chơi trên đê Yên Phụ, có lần anh trỏ một bụi chuối ở chân đê nói với tôi:
- Các thôn nữ của mình không khác gì bụi chuối kia. Họ chỉ mơn mởn được trong mấy năm, có được một hai đứa con rồi thì mau già lắm, không như phụ nữ ở thành thị. Lá chuối non kia khi còn cuốn thì óng ánh như lụa, mà nở ra rồi, chỉ một hai ngày gió đánh rách hết, thật tiều tụy.
Buổi tối hôm đó, nhớ lại, tôi đoán rằng lần ấy anh nghĩ đến vị hôn thê của anh. Tình anh đằm thắm thật. Đời sống nội tâm của con người ấy quả là phong phú.
Chúng tôi trở về phòng, tắt đèn đi ngủ. Vì leo núi mệt, tôi ngủ say như khúc gỗ, sáng hôm sau ánh nắng giọi qua khe cửa lên bức vách rồi tôi mới thức dậy.
Hôm sau nữa, tôi ăn sáng xong, lên chào cụ đồ và mấy người trong nhà rồi về. Anh Bảng tiễn tôi ra ga. Tôi về Sơn Tây nghỉ một tháng nữa, gần tới ngày tựu trường mới xuống Hà Nội.
*
Mới xa Hà Nội được một tháng rưỡi, tôi đã nhớ Hà Nội, lại bỏ ra mươi bữa nửa tháng đi thăm cảnh. Trước hết là khu chung quanh trường Bưởi, nơi có rất nhiều di tích: núi Nùng trong vườn Bách Thảo, sự thực chỉ là một mô đất cao độ mươi thước có thể là nhân tạo mà cũng làm cho tôi xúc động, làng Ngọc Hà chuyên cung cấp hoa cho thành phố với những thiếu nữ nửa quê nửa tỉnh, tình tứ mà lanh lợi, chùa Một Cột kiến trúc độc đáo, như một bông sen nổi ở giữa hồ, rồi đền Quan Thánh tức đền Trấn Võ cất từ 1000 năm trước, có tượng thánh bằng đồng đen cao 4,5 mét, nặng 4 tấn, đúc từ trên 600 năm trước; chùa Trấn Quốc ở giữa đường Cổ Ngư, nơi mà vua Lê cùng chúa Trịnh thường tới ngự lãm cảnh Hồ Tây; xa hơn nữa, bên đây là làng An Thái với những nhịp chầy đập lụa (Nhịp chầy An Thái, mặt gương Tây Hồ - Dương Khuê), bên kia là làng Yên Phụ như còn văng vẳng tiếng ngâm thơ của Hồ Xuân Hương. Chung quanh Hồ Tây có biết bao cổ miếu, cổ tự, nhiều ngôi cất từ đời Lí, cách đây tám chín thế kỉ, hễ bước vào là lòng tôi rung động một cách tuyệt thú.
Tôi thơ thẩn trên con đường Parreau[14] tương truyền một phần là nền cũ lũy thành Đại La của Cao Biền đời Đường từ thế kỉ thứ chín, lên Đống Đa thăm đền Trung Liệt, trở về Quốc Tử Giám, nhớ lại ông nội tôi xưa vô đây học với cụ Đốc học Hà Nội Lê Đình Duyên. Cụ Lê đậu hội nguyên khoa Kỉ Dậu (1849). Trong Quốc triều đăng khoa lục, Sở Tu thư chép là Lê Đình Diên.
Tôi ưa ánh tà dương hơn ánh hồng ban mai, nhất là hồi đó bắt đầu vào thu, chiều thường có một làn sương nhẹ như tấm màn hạ phơn phớt xanh phủ lên đồng ruộng, lũy tre, cảnh vật mờ mờ thật nên thơ.
Thăm hết mọi cảnh rồi thì vừa tới lúc chuẩn bị để nhập học.
Kì tựu trường, lên năm thứ tư, anh Bảng và tôi không học chung lớp nữa, nên không thường gặp nhau như năm trước. Một hai lần tôi hỏi đùa anh:
- Mấy ngày viết thư thăm chị một lần?
Anh xua tay:
- Bậy nào, bí mật đấy. Chỉ được cái miệng…
Tôi lại hỏi:
- Còn kiếm tài liệu về sử không?
Anh lắc đầu:
- Đương lo học thi đây. Ngán giờ Math[15] cụ Sáu quá.
Cuối năm, hai anh em chúng tôi cùng đậu, dắt nhau xuống Văn Miếu chơi. Anh cho hay sẽ thôi học, kiếm việc làm. Thân phụ anh muốn anh cưới vợ ngay, anh xin phép đợi khi nào kiếm được việc làm đã. Tôi nói tôi còn tiếp tục học nữa, sẽ thi vào Cao Đẳng Công Chánh vì không đủ tuổi vào các ban Sư phạm và Y khoa, nếu rớt thì sẽ học ban Tú Tài. Anh tỏ ý hơi buồn: “Cho biết kết quả nhé”. Tôi cũng dặn anh: “Nhớ cho biết tin mừng nhé”. Anh gật đầu.
Cuối thu năm đó, tôi nhận được bức thư của anh cho hay: “Tôi đã thành thầy kí Bưu Điện và ngày 12 tháng sau sẽ làm lễ cưới, nhưng không mời anh đâu, ở đây quê mùa lắm. Nhà tôi hỏi thăm anh”.
Giá anh có mời thì tôi cũng không dự được, vì bận học; tôi gửi đồ mừng và bảo hè sang năm có dịp sẽ lên chơi.
Nhưng luôn mấy năm sau, hè nào tôi cũng bận việc nhà; rồi ở trường ra, tôi được bổ ngay vào Nam, chỉ gần Tết mới gởi cho nhau được một tấm thiếp.
[13] Elle: tiếng Pháp, nghĩa là cô ấy. (BT).
[14] Nay là đường Hoàng Hoa Thám. (Goldfish).
[15] Giờ toán.