← Quay lại trang sách

IV MỘT SỰ NGẪU NHIÊN KÌ THÚ

Mỗi người đi một ngả thì tình cũng lơi dần, thêm bạn mới thì bạn cũ hóa xa. Vào Nam được non một năm tôi mới viết bức thư đầu tiên cho anh Bảng. Nhân bữa đó tôi đến thăm núi Sam ở Châu Đốc, nhớ tới núi Hùng nên mới kể cuộc đời mới của tôi và nhắc lại kỉ niệm cũ với anh. Nửa tháng sau, tôi nhận được hồi âm.

Anh Nguyễn thân mến,

Được thư anh, mừng quá. Đời anh sướng nhỉ? Được đi khắp nơi này nơi khác, “lênh đênh trên các kinh rạch, mỗi sáng ăn chợ một nơi”. Chả bù với tôi, mấy năm làm Kí cóp ở cái bàn giấy tăm tối này. Anh tưởng tượng được không? Từ hồi đó, nhớ Hồ Tây và trường Bưởi lắm mà vẫn chưa xuống thăm được. Chôn chân ở đây suốt đời thôi.

Cụ tôi đã qui tiên năm ngoái rồi anh ạ. Vợ chồng tôi đã được hai cháu, một trai một gái. Tôi vẫn ở trọ tại tỉnh, nhà tôi không thể theo tôi ra đây được vì ai trông nom cửa nhà, ruộng vườn cho. Mỗi tháng gặp nhau một lần, hoặc nhà tôi ra đây, hoặc tôi về trong đó. Xuân Lũng vẫn chẳng có gì thay đổi.

Nghĩ tới nông nỗi ít năm nữa, cho cháu lớn đi học, hết trường tỉnh rồi lên trường Bưởi, rồi nó cũng lại làm kí cóp, sáng vác ô đi tối vác về, chán quá. Cứ theo cái vòng đó mãi ư?

Tôi muốn nhờ anh chút việc. Anh bảo có dịp đi nhiều nơi trong đó, vậy khi nào tới miền Định Tường, anh có tiện thì tìm lại làng Hòa An hỏi thăm xem con cháu họ Lê còn ai không, rồi cho tôi hay. Anh còn nhớ chuyện tôi kể anh nghe hôm đi thăm núi Tổ không? Tôi nhắc lại; cụ Lê Kim sống ở làng Hòa An, phủ Tân Thành vào khoảng 1860, có hai người con trai đầu lòng là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Cụ bà họ Phan. Anh dò la hộ cho. Đã trên bảy chục năm rồi, không chắc gì tìm được, nhưng anh cũng cứ thử đi nhé. Cám ơn anh trước.

Nghe nói thiếu nữ trong đó đẹp, tự nhiên, mà hoa quả có nhiều thứ rất ngon như măng cụt, xoài, sầu riêng vân vân… anh ngạc nhiên sao tôi biết rõ như vậy cơ? Có gì đâu, ở đây có một tư chức quê ở Vĩnh Long.

Chúc anh bình an. À, tìm được cô nào chưa?

Trần Văn Bảng

Được thư tôi hồi âm liền, hứa sẽ tìm nhà họ Lê, rồi tôi nhờ các bạn làm sở Địa Chánh Mĩ Tho, Gò Công, Sa Đéc dò la giùm vì tỉnh Định Tường xưa kia, nay gồm cả mấy tỉnh đó. Hai tháng sau, anh bạn Sa Đéc mới cho hay đã hỏi một hương chức coi về địa bộ của làng Hòa An, người đó đáp trong làng có một họ Lê nhưng không có ông tổ nào tên như vậy, và họ này mới tới lập nghiệp ở làng được ba đời nay. Còn hai bạn kia cho hay không có làng nào tên như vậy thuộc phủ như vậy. Tôi vẫn tin bức thư chữ Nôm anh Bảng cho tôi coi là đúng, nhờ anh bạn địa chánh điều tra lại, hỏi các ông già bà cả trong làng xem. Lần này anh nhờ viên chủ quận sở tại chơi thân với anh, điều tra, và kết quả là một ông cựu Hương Cả trong làng, tìm kiếm các sổ sách cũ ở đình, có thấy tên cụ Lê Kim, người Minh hương (tức người Trung Hoa qua ở Việt Nam). Cụ tới lập nghiệp ở làng trong triều Tự Đức, vào khoảng 1854, 1855, có con cái, nhưng mười năm sau, cả gia đình bỏ đi nơi khác. Hình như theo Thiên Hộ Dương chống với Pháp ở Đồng Tháp Mười, nhưng tin đó không chắc, vì cụ là người Minh hương thì sao lại theo nghĩa quân của mình. Lại có tin rằng con cháu của cụ sau lập nghiệp ở Rạch Giá; một ghe thương hồ ở Hòa An, cách đây bốn chục năm, có lần qua Rạch Giá, gặp một người hỏi thăm nhà cũ của họ Lê. Chủ ghe thương hồ này là một người trong họ ông Hương Cả, mất đã hai chục năm rồi, nên không thể điều tra thêm được nữa, không rõ người con cháu họ Lê đó tên gì, ở làng nào.

Tôi viết thư kể rành rọt cho anh Bảng hay và kết: “Như vậy chắc chắn rồi đấy, cụ Trần Trọng Khiêm tức Lê Kim quả có hồi ở làng Hòa An, nhưng con cháu đã qua lập nghiệp ở Rạch Giá, và manh mối tới đó đứt, không thể lần thêm được nữa”.

Anh trả lời tôi, mừng lắm, bảo rằng đã sắp bức thư của tôi vào hồ sơ về cụ Trần Trọng Khiêm, và lúc nào rảnh sẽ chép lại tiểu sử của cụ và gia phả. Anh thêm một câu chua chát: “Ít nhất, trong đời tôi, cũng lưu một chút tài liệu đó cho con cháu, cũng là một di tích phải không anh?”

Từ đó, không có chuyện gì nữa, và mỗi người mải lo sinh kế, nên thư từ lại thưa.

*

Ít năm sau, từ 1939, biết bao nhiêu biến cố xảy ra: Thế giới chiến tranh, Pháp đầu hàng Đức, Nhật vô Lạng Sơn, Nhật phản dân tộc Việt mà chia quyền với Pháp, rồi lật Pháp, bom Đồng minh trút xuống Sài Gòn, Hà Nội, bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật đầu hàng, quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ lên Sài Gòn.

Tháng mười năm 1945, tôi bỏ lại hết sách vở, đồ đạc ở Sài Gòn, chỉ xách một chiếc vali nhỏ chứa ít quần áo, bản thảo lên đường tản cư. Quân Pháp đã chọn ngay đường Sài Gòn – Tân An, con đường huyết Lái Thiêu, kiếm ghe đi băng vào miền hai con sông Vàm Cỏ rồi trở ra Mĩ Tho. Tới Mĩ Tho chiều hôm trước thì có tin quân Pháp sáng hôm sau sẽ đổ bộ lên Mĩ Tho. Lại rút lui nữa. Tôi nghĩ con đường Mĩ Tho xuống miền Tây là con đường chính, quân Pháp thế nào cũng lo chiếm trước, tôi hãy tạm lánh vào Đồng Tháp Mười đã. Tôi qua Sa Đéc, Long Xuyên, ở lại nơi này một tuần, nửa tháng, nơi kia một hai tháng, nghe ngóng tin tức, mà toàn là những tin hoang mang, vẫn còn mong rằng liệt cường sẽ can thiệp không cho thực dân Pháp tái chiếm nước mình. Tôi ngây thơ quá, từ cổ tới kim có một cường quốc nào mà không thực dân? Mà bọn thực dân tuy nghịch nhau chứ vẫn chia quyền lợi với nhau, và họ đã chia thế giới từ một năm trước khi chiến tranh chấm dứt.

Mùa xuân năm Bính Tuất (1946), tôi ngừng bước ở làng Phước Thạnh (Cần Thơ)[16] vì bệnh đau ruột. Cơn nổi lên thất thường, có khi một ngày hai ba lần, có khi vài ba ngày một lần. Hễ thấy đói bụng đau quặn ở bụng dưới là phải đi ngoài liền, bệnh đó thật bất tiện. Tôi ăn kiêng, cháo với muối, uống toàn nước nấu chín, mà cũng không hết. Thuốc tây hồi đó không sao kiếm ra được. Ngay những thuốc rất thường như kí ninh cũng không có. Người nào mua được vài ba viên kí ninh vàng thì giữ kĩ lắm, nhưng nếm thử thì thấy là thuốc giả, không đắng bằng kí ninh thật. Tôi nhớ thuốc tây có dùng chất “charbon” (than) chế biến ra sao đó để trị bệnh đau ruột. Có lần tôi lấy than củi tràm nghiền thật kĩ, trộn chút đường thẻ, rồi uống đại, nghĩ bụng Dự Nhượng thời Xuân Thu nuốt than đã có sao đâu. Thấy dễ chịu đâu được vài ngày – không rõ có do tự kỉ ám thị không - rồi bệnh lại trở lại như cũ. Thuốc bắc thì chợ quê nào cũng có một hai tiệm bán, nhưng đa số cũng là thuốc giả: phục linh, hoài sơn là bột khoai mì – ngoài bắc gọi là củ sắn – hoàng bá là gỗ cây gáo ngâm với một chất gì đăng đắng, ngay vị đương qui họ cũng làm giả được, phải là người sành, hỏi mua nguyên con qui mới không bị gạt, nhưng thứ đó họ không bán cho người lạ. Thuốc nam nhiều vị rất công hiệu, nhưng không ai nghiên cứu, phổ biến: những ông thầy thuốc bắc rất ít người biết thuốc nam; còn những ông thầy thuốc nam thì ít học, cũng chẳng có sách nào để học, chỉ nghe truyền khẩu được mươi phương thuốc và vài ba chục vị thuốc.

Tôi không muốn phí tiền uống thuốc giả, phải rút sự chi tiêu xuống mức tối thiểu, rồi ghé làng này để uống thuốc nam.

Sáng hôm đó, tôi lại nhà việc[17] trình diện với ông Chủ tịch Ủy ban hành chánh xã. Nhà việc nằm bên cạnh một ngôi đình cổ, trông ra chợ ở ngã ba một con rạch và một con kinh. Kiến trúc thuộc vào kiểu 1925 – 1930: vuông vức chừng sáu thước một chiều[18], mái ngói, tường gạch mỏng, bằng đá xanh.

Ánh nắng vàng lấp lánh trên mặt nước, ngọn sao và tàu dừa. Chợ đương họp, cảnh thật nhộn nhịp. Không khí đã thay đổi hẳn: thanh niên nam nữ vui vẻ, tự do ra vào Nhà việc, không có vẻ e dè, ngại ngùng như nửa năm trước. Không còn những hương chức trịnh trọng chít khăn đóng, bận áo dài thâm; dưới rạch cũng không thấy một chiếc ghe hầu, thứ ghe nhẹ nhàng, ba chèo, sơn xanh, có cửa lá sách, y như những chiếc du thuyền.

Tôi bước vào Nhà việc, nông dân bu quanh ba cái bàn, cười nói ồn ào, không ra một công sở: người xin giấy di chuyển, người lại trình báo việc này việc khác, người lại xin cắt đặt công việc để làm. Trên kệ, trên bàn không thấy sổ sách.

Ông chủ tịch bận đồ bà ba trắng, trạc bốn chục tuổi, ngồi ở bàn giữa đang bàn việc với vài ủy viên khác đều trẻ tuổi. Nước da ông tai tái như người bị sốt rét kinh niên, ông đã bị đày Bà Rá ba năm – môi dầy, lưỡng quyền cao, hoạt bát, cương nghị, hơi tự đắc mặc dầu bề ngoài rất bình dân.

Tôi tự giới thiệu là công chức tản cư, đã lại xin chỉ thị của ông Chủ tịch từ mấy tháng trước, ổng bảo chưa có công việc gì, hãy kiếm nơi nào mà “nghỉ”, hôm đó ổng bận tíu tít vì giặc Pháp có thể sắp tới, ủy ban phải tản cư, sau khi phá hủy mọi công sở và ra lệnh cho dân chúng trong thành tiêu thổ, nghĩa là dỡ nhà đi, không cho địch có chỗ ở - sau đó tôi qua những miền nào, và bây giờ lại đây, ở trọ nhà ai, tôi tự khai ra hết.

Tôi trình giấy tờ cho ông coi, nói thêm:

- Tôi đương đau ruột, cần nghỉ ngơi để điều trị, nhưng vẫn có thể giúp ủy ban trong những việc nhẹ nhàng được… Hôm qua khi mới tới đây, tôi đã để ý thấy hai cái miễu ông Tà bị lật đổ ở bờ rạch. Trừ thói tin dị đoan như vậy là phải.

Ông ta lộ vẻ vui bảo:

- Tôi đã ra lệnh cho các thanh niên phải hất xuống lòng rạch kia, nhưng họ làm biếng chỉ mới lật đổ thôi. Tôi phải rầy họ mới được.

- Tôi nghĩ cái đó không quan trọng. Không ai dám dựng lại đâu. Điều quan trọng là có đủ thầy đủ thuốc trị bệnh cho dân; dân uống thuốc mà hết bệnh thì tự nhiên không cúng ông Tà nữa. Mà thuốc Bắc thuốc Tây lúc này thiếu, nên khuyến khích dùng thuốc Nam và tập cho dân sống hợp vệ sinh.

- Đồng chí nói phải lắm. Có dịp, nhờ đồng chí giảng giải cho dân chúng về vệ sinh. (Ông đã có thiện cảm với tôi, rồi đột nhiên ông hỏi). Đồng chí có đọc tiểu thuyết Lê Văn Trương không, tôi phục nhà văn đó lắm.

Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc về Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, trong khi sáu bảy người bu lại nghe. Rồi tôi cáo biệt, ông bắt tay tôi, bảo “cứ về nghĩ đi, khi nào mạnh và có việc gì vừa sức, tôi sẽ giao cho”. Ông lại chỉ cho tôi một thầy thuốc Nam nữa.

Ở nhà việc ra, tôi đi dạo chung quanh. Sau đình, trong một vườn xoài, một đam khoảng hai chục thanh niên,vác tầm vông vạc nhọn, đương tập đi thành hàng. Người nào cũng bận bà ba đen, đi chân không, nét mặt vui vẻ. Nghe tiếng hô “một hai, một hai”, và tiếng chân họ nện trên mặt đất, lòng tôi cũng sôi lên, tim đập mạnh.

Không khí mùa xuân năm đó có cái gì khác thường, kích thích như một luồng điện hay một làn gió bấc. Trên đường chỉ thấy thanh niên, nông dân, vài anh vác tầm vông vạt nhọn hay đeo dao găm. Họ ăn mặc đều sạch sẽ, nhất là các chị thì còn có vẻ làm dáng nữa: quần hàng mới, tay đeo vòng đồng, vai vắt chiếc khăn quàng sặc sỡ phất phơ dưới gió. Người nào cũng vội vã – mà mùa đó chưa bắt đầu cày bừa - gặp nhau chào hỏi niềm nở, nhưng nhìn kĩ thì nét mặt họ nghĩ thầm tới tương lai hoặc cảm thấy một chút trách nhiệm nào đó làm cho họ nửa hãnh diện, nửa ngài ngại. Không còn tiếng hò trên sông, mà những tiếng đờn ca vọng cổ cũng tắt hẳn. Chỉ còn tiếng ca bản Thanh niên hành khúc ở khu chung quanh Nhà việc. Tuyệt nhiên không thấy bóng một ông điền chủ nào giàu lớn. Đi ngang dinh cơ của họ: những ngôi nhà nền đúc đồ sộ, dãy ngang dãy dọc, những lẫm lúa dài rộng hơn nhà lồng chợ, ta thấy cửa đóng, lạnh lẽo như bỏ hoang. Họ đã tản cư hoặc lại nhà bà con ở làng khác, hoặc “ra thành”, chỉ để một hai gia nhân thân tín ở lại coi nhà. Ngay những tiểu điền chủ, hầu hết làm làng thời trước, bây giờ cũng lẩn quẩn ở nhà sau, ít khi ra đường. Thời này là thời của thanh niên, nông dân. Thôn quê như trẻ lại.

Những gia đình khá giả lo đào hầm ở dưới tán xoài hay ô môi sau nhà để tránh đạn; những bộ ván gõ dày cả tấc được dùng làm nắp hầm. Nhưng khi phi cơ địch bắt đầu xuất hiện, nã đạn liên thanh thì dù có hầm, các ông già bà cả và những người lớn tuổi cũng ngày ngày vô trong đoạn rạch. Người ta nấu cơm sớm, khoảng chín giờ đã ăn xong, rồi mỗi người đeo một khăn gói, hoặc ngồi xuống, hoặc đi bộ, vô trong ngọn rạch, cách mặt tiền chừng vài ba cây số. Phi cơ địch thường xuất hiện vào hồi mười giờ sáng, bay sà xuống tưởng như sát ngọn sao, tiếng ầm ầm, thấy chỗ nào có mái nhà ngói thì ria liên thinh xuống, rồi vù vù bay đi, một lát đảo trở lại, ria một hai lần nữa, sau cùng bay bổng lên cao đi mất. Làng lúc đó vắng hoe, mỗi nhà chỉ còn một hai thanh niên núp dưới hầm hoặc dưới sàn. Khoảng hai ba giờ chiều, có thể coi là yên, những người tản vô ngọn lại kéo nhau trở về nấu cơm, đường trong xóm lại tấp nập. Địch khủng bố như vậy suốt mấy làng dọc theo bờ rạch, luôn trong nửa tháng, chuẩn bị để đổ bộ. Chúng gây tại hại không biết bao nhiêu về vật chất: Tại làng Phước Thạnh, một số nhà bị đạn lỗ chỗ - có nhà bị bốn năm chục lỗ - mà chỉ có mỗi một người bị thương ở chân, cố lết tới hầm, và hai con trâu bị đạn phải mổ thịt. Nhưng ảnh hưởng về tinh thần hơi đáng kể: dân chúng có vẻ lo lắng hơn, và một ông già đã nói nho nhỏ với người thân:

- Chúng có máy bay, có súng đạn, mình chỉ có tầm vông vạt nhọn sao chống cự nổi.

Nhưng người cháu nội ở trong tổ chức Thanh niên cứu quốc bảo:

- Nội đừng lo. Chính phủ mình đã mua hoặc cướp được của Nhật một số súng và lựu đạn. Với số khí giới đó, mình sẽ đánh du kích địch, phá đồn địch rồi lại cướp khí giới của địch. Chỉ sợ mình không đoàn kết, không có chí chiến đấu, không chịu hi sinh thôi. Nếu chịu thì không khi nào thiếu khí giới. Khí giới của chúng là của mình.

Khi phi cơ luôn năm sáu ngày không xuất hiện nữa, đời sống bình thường trở lại. Những thiếu nữ tròn trĩnh, tươi mát như trái xoài lại rạo rực, thoăn thoắt đi hội họp, việc nhà các ông bà già phải đảm nhiệm hết.

Mấy tuần đó tôi cũng theo người trong xóm vô ngọn. Ở trong đó tôi lần theo các bờ ruộng, bờ lạch kiếm thuốc nam, rửa rồi phơi để chiều về cắt và sắc. Kiếm một ngày thì dùng được ba ngày. Không có việc gì khác. Ở không tôi thấy buồn. Muốn giúp nước mà không biết giúp cách nào. Muốn gom ít trẻ lại để dạy vần quốc ngữ, nhưng chưa ai nghĩ đến chuyện đó. Không có sách để đọc, tôi mượn cuốn Minh Tâm bửu giám của một người trong xóm để ôn lại chữ Hán. Muốn chép nhật kí mà sợ người ta nghi ngờ. Tin tức trong nước và cửa nhà, chẳng biết một chút gì cả.

Buồn quá, tôi thường lại trạm canh ở Vàm Kinh, gần chợ giúp mấy anh thanh niên xét các ghe xuồng qua lại. Và tôi làm quen với anh Năm Dõng, một thanh niên 25 tuổi, cao, trán thấp, vai rộng, ngực nở, tóc rậm và hơi quăn, tai vểnh, thường tươi cười nhưng trong cặp mắt thỉnh thoảng hiện lên một tia sáng hung dữ. Anh làm tá điền cho một ông Hội đồng – ông đã trốn đi nơi khác – hơi biết võ nghệ, ca vọng cổ hay, giọng trầm. Anh dạy võ cho một số thanh niên ở trước đình làng, gặp tôi là kể chuyện võ nghệ, vừa kể vừa biểu diễn cho tôi coi.

Một hôm anh lục xét một chiếc ghe cui, thấy mấy cuốn sách, cầm một cuốn lên coi, rồi nạt người đi ghe:

- Sách này của anh hả?

Người đi ghe khoảng ba mươi, ba lăm tuổi, mảnh khảnh, bận đồ bà ba đen, nhưng có vẻ học thức đáp:

- Dạ phải.

- Sao thời buổi này mà anh dám đọc sách này? Phải sách của địch không?

Thầy nọ trố mắt nhìn, không biết đáp sao.

Anh Năm quát:

- Phải sách Pháp không?

- Dạ phải. Nhưng là sách khoa học, sách y học, không bàn gì về chính trị hết.

- Anh nói sách gì… gì học?

- Dạ sách y học, tức sách thuốc.

Giọng thầy ta nhỏ nhẹ, gần như van lơn.

- Sách gì thì gì, hễ của Pháp cũng không được giữ. Mà làm thầy thuốc sao mà đọc sách thuốc. Đâu đưa giấy tờ coi.

Thầy nọ lúng túng móc giấy tờ ra, tay run run. Miệng đáp:

- Dạ không, tôi dạy học, dạy trường tư Lê Bá Cang ở Sài Gòn, tản cư về Tân An, Tân An không êm, nay tản cư nữa về quê vợ ở Gò Quao[19].

Anh Năm coi giấy tờ rồi bảo:

- Dạy học mà sao đọc sách thuốc. Chắc nói dốc rồi. Ghe đậu lại đó, còn anh thì lên bờ để đợi điều tra.

Thầy nọ hoảng hốt, đưa mắt như cầu cứu với tôi. Tôi nhìn bìa cuốn sách: L’homme cet inconnu của bác sĩ Alexis Carrel, bèn nói nhỏ với anh Năm:

- Tôi biết nội dung cuốn này, tác giả là một bác sĩ nổi danh, có dạy học ở Hoa Kì; sách thuộc loại phổ thông viết về cơ thể con người, ai cũng đọc được, không cần là thầy thuốc. Đồng chí ở đây canh gác, để tôi mang sách về hỏi đồng chí Chủ tịch, xem đồng chí Chủ tịch có tha thầy này được không.

Lúc đó chính quyền muốn lấy lòng Hoa Kì, không tán thành (nhưng cũng không ngăn cản) chính sách thực dân của De Gaulle.

Anh Năm suy nghĩ một lát, hỏi tôi:

- Phải là sách của một bác sĩ hả?

Tôi đáp:

- Đúng 100 phần 100. Tôi có thể đảm bảo.

Vừa nói tôi vừa cầm cuốn sách rảo bước về phía Nhà việc tìm ông Chủ tịch Ủy ban Hành chánh.

Tôi mới đi được độ chục bước thì bỗng anh Năm gọi giật tôi lại:

- Thôi, trở lại, khỏi kiếm nữa. Tôi tin ở đồng chí. Với lại giờ này đồng chí Chủ tịch không có ở Nhà việc đâu. Vô trong ngọn rồi.

Rồi quay lại nói với người đi ghe:

- Tôi tha cho anh. Cho ghe đi.

Thầy nọ mừng quá, cảm ơn tôi rối rít. Tôi đưa trả cuốn sách, bảo:

- Cuốn này hay đấy. Tôi nghe báo phê bình chứ chưa được đọc.

- Nếu vậy tôi xin tặng thầy đấy. Tôi đọc xong rồi.

Tôi đáp:

- Cảm ơn thầy. Nhưng trong lúc phiêu bạt này, mang theo thứ đó chỉ thêm bận. Để sau này diệt được tụi Pháp, bình an trở lại, mình sẽ gặp nhau. Thầy dạy ở Lê Bá Cang? Tên Hồ Hữu Ngãi?

Thầy hỏi tên họ, chức nghiệp của tôi rồi cho ghe đi. Tôi nhìn theo bùi ngùi.

Khi ghe đã khuất bóng, tôi quay lại nói với anh Năm:

- Thèm đọc sách muốn chết, cuốn sách đó lại rất hay, mà không thể nhận như vậy được, coi sao tiện.

- Sao lại không tiện? Mình tha cho họ, họ có tặng mình cả trăm cuốn cũng chưa đáng nữa. (Tôi mỉm cười). Mà đồng chí thèm đọc sách lắm hả? Sao không cho tôi hay. Thiếu gì sách!

- Ở đâu vậy?

- Ở nhà tôi chứ đâu?

Tôi ngạc nhiên vì biết rằng anh Năm mới chỉ đọc được chữ Quốc ngữ. Anh ta bảo:

- Hết phiên gác, tôi dắt đồng chí về nhà tôi, tha hồ mà lựa.

Một giờ sau tôi theo anh Năm về một căn nhà lá nhỏ, trước hiện có một lu nước và một hàng so đũa. Tôi bước vào, thấy một thiếu phụ bồng con ngồi ở võng, trong một chỗ tối, tôi khẽ gật đầu chào:

- Chị Năm đấy hả. Cháu được mấy tháng rồi?

Chị vẫn đưa võng, đáp gọn:

- Tám tháng.

Anh Năm chỉ cho tôi đóng sách ngổn ngang ở dưới bàn thờ gỗ mộc, bảo:

- Đó, cứ việc ôm đi.

Tôi thấy toàn là sách Pháp, quay lại hỏi:

- Tịch thu hả?

Anh Năm gật đầu, cười:

- Ba bốn chục chiếc ghe như chiếc lúc nãy. Rồi trong nhà mấy điền chủ ở đây, vô số kể.

- Họ bỏ nhà, tản cư hết rồi sao?

- Không, một số còn ở lại, nhưng thời buổi này mà, ai còn ham giữ thứ đó. Mình cứ việc vô mà khiêng. Có những cuốn lớn như vầy nè – anh trỏ một bức tranh sơn thủy thường thấy trong các tiệm hớt tóc thôn quê vẽ một thiếu nữ ngồi ngắm trăng trên bờ rạch dưới bóng dừa – bìa rất dày, giấy láng và có nhiều hình, nặng quá trời. Những thứ đó vô dụng, thứ nho nhỏ, giấy mỏng này mà lại có ích: đi cầu nè, vấn thuốc nè…

Tôi ôm hết cả chồng ra gần cửa để coi cho tỏ, lựa được cuốn La Sonate à Kreutzer của Léon Tolstoi, một cuốn nữa của Léon Blum, một cuốn của Pierre Gaxote và một cuốn nữa đã mất bìa và mấy chục trang đầu, chỉ đọc được nhan sách: La ruée vers l’or (Đổ xô đi tìm vàng) nêu lên ở mỗi đầu trang.

Tôi hỏi mượn mấy cuốn đó. Anh Năm gật đầu:

- Cứ việc mà… Nhưng nè, có coi thì coi ở nhà đừng đem ra chỗ canh gác nghen. Mình phải làm gương cho đồng bào chớ.

Tôi đáp:

- Đồng chí nói phải lắm… Mang về coi đỡ buồn, chứ lúc này được một số báo Cứu quốc thì mới thích.

- Để hôm nào có, tôi cho mượn.

- Vậy thì tuyệt!

Anh chàng đó bề ngoài có vẻ dữ dằn mà tốt bụng, không hiểm độc. Anh nạt nộ thầy giáo Ngãi chỉ vì hồi đó hết thảy những người có Tây học đều bị nghi kị, và cũng vì anh muốn tỏ mình nghiêm chỉnh làm hết bổn phận.

Từ hôm ấy cách vài ngày vào buổi sáng tôi lại Nhà việc chào ông Chủ tịch, hỏi xem có việc gì không, nếu không thì ra canh gác ở Vàm Kinh, buổi chiều nằm ở nhà trọ đọc sách, buổi tối vì tiết kiệm dầu cá, không đốt đèn, tôi kiếm các thanh niên trong làng nói chuyện hỏi thăm tin tức xa gần.

Đêm nào thấy trong mình dễ chịu, nhất là nếu lại có trăng, thì ở nhà họ ra về, tôi đi dạo một lát trên bờ rạch, từ vàm rạch vô khỏi chợ, khoảng hai cây số. Trăng tháng hai âm lịch trong này cũng đẹp như trăng tháng tám ngoài Bắc. Các ngôi sao nhường cả vòm trời xanh trong vắt, không một gợn mây cho vầng nguyệt, nước cũng trong mà về đêm thời tiết cũng lành lạnh giống hơi thu ở ngoài Bắc. Không có hương lúa thơm phức, nhưng lại có hương cau, hương bưởi, hương mù u ngào ngạt trong làn gió nhẹ, thoắt hiện rồi thoắt biến. Không có những đám hát ví, hát trống quân, nhưng trong những năm bình yên, tiếng đàn kìm, đàn gáo từ trong vườn đưa ra, từ mặt sông đưa lên, hoặc não nuột như điệu vọng cổ, tứ đại oán, hoặc dồn dập, vui vẻ như điệu Khổng Minh tọa lầu, lưu thủy trường, cứ tiếng đám này chưa chìm ở sau lưng ta thì tiếng đám khác đã văng vẳng ở phía trước mặt như vậy suốt bờ rạch, từ vàm vào tới ngọn. Ánh trăng lấp lánh, nhảy múa trên lòng rạch, chảy trên tàu dừa tàu chuối, trên mớ tóc láng dầu dừa và đôi vai của các thiếu nữ dập dìu từng bọn đi coi cúng đình, hát bội và chấm giải nữ công.

Năm đó làng Phước Thạnh làm lễ cúng đình, nhưng qua loa cho có lệ, không có hát bội, cũng không thi nữ công. Vài hương chức già cũng khăn đóng áo dài lại làm lễ vị Tiên hiền non trăm năm trước đã gây dựng nên làng, nhưng không đọc văn tế, và ông Chủ tịch xã chỉ bận một bộ bà ba lại chứng kiến một lát rồi lui ra, bàn việc canh phòng với mấy thanh niên.

Chó trong làng đã bị mổ thịt hết để bộ đội đêm đi qua khỏi gây náo động mà “thiên hạ sẽ biết”, nhưng hậu quả tức thì là nhà một tiểu điền chủ nọ mới bán được con heo bị cướp vô vơ vét hết tiền bạc, quần áo, mùng mền. Cho nên về khuya cảnh tĩnh mịch lạ thường mà hương đêm càng dậy lên, đậm đà, khêu gợi. Chỉ còn tiếng xào xạc của lá tre, tiếng bập bềnh của nước vỗ vào bờ, tiếng cá đớp trăng, và một đôi chỗ, tiếng thủ thỉ của một cặp trai gái dưới bụi chuối. Gió lùa vào mớ tóc rối của tôi, mơn trớn làn da tôi, tôi đủng đỉnh bước, hít đầy phổi không khí và hương thơm, khoan khoái.

*

Địch đã chiếm tỉnh lị, lập cơ sở hành chánh, và đương ăn lõm vào các quận, theo chiến lược “vết dầu loang”. Chúng đã lập đồn ở một chợ cách chúng tôi ba cây số, mỗi đồn có vài lính Pháp và mười lính Việt. Đã bắt đầu xảy ra những cuộc bố ráp dã man: hãm hiếp một thiếu phụ rồi bắn chết, thả trôi sông. Lâu lâu nghe nói có một bộ đội đi ngang qua miền nhưng ở xa trong đồng và cũng chưa có cuộc đụng độ nào cả.

Trong làng đã bắt đầu xôn xao. Người ta thì thầm bàn chuyện tản cư vô ngọn: nên dỡ nhà cửa chở đi hay để lại? Hạng người nghèo như anh Năm không thắc mắc gì cả: nhà lá thì chúng vô ở làm gì, chở ít đồ đạc đi thôi, còn sườn nhà để lại. Bà chủ nhà trọ của tôi, sau mươi tuổi, góa chồng, không có con, nuôi một đứa cháu gái, vẫn bình tĩnh: “Ai sao mình vậy. Chúng có đốt căn nhà này, đốn hết mấy gốc xoài và vú sữa, mận thì khi về sẽ dựng lại. Còn đất là được rồi. Không lẽ chúng ăn được đất, khiêng được đất của mình đi”. Bà lão gầy như con mắm mà làm việc suốt ngày, thỉnh thoảng ngừng lại, đấm vào lưng cho đỡ mỏi. Bà hay nói - giọng sang sảng – nhưng dí dỏm hiền từ: “Chèng ơi! Thầy Hai, thầy đã xách nước tưới cây giùm tôi đó hả? Đau ốm mà ai cầu”. Rồi chiều đó, thế nào bà cụ cũng bảo đứa cháu gái bưng cho tôi một chén chè hoặc một cái bánh, ít trái cây.

Tôi đọc hết mấy cuốn của Tolstoi, Léon Blum, Pierre Gaxote rồi mới tới cuốn La ruée vers l’or. Sách khá dày 400 – 500 trang, chữ nhỏ, in xấu, loại “romance populaire” (tiểu thuyết bình dân thì phải, mà lại mất mấy chục trang đầu, nên tôi không ham lắm. Tôi để ý một người nào đọc trước tôi, cứ mỗi lần gặp tên một nhân vật là Lee Kim thì lại lấy bút mực bôi bỏ chữ e sau và thêm dấu mũ vào chữ e trước, trong tên Lee. Mới đầu tôi cho là ai đó, ngồi buồn tinh nghịch làm cái trò Việt hóa một cái tên Mĩ. Tôi đọc lướt qua già nửa truyện, biết sơ sơ cốt truyện là một bọn người đi tìm vàng ở Mĩ, như nhan đề sách đã nói rõ. Rồi chiều hôm đó, đọc tới chỗ bọn tìm vàng tới San Francisco, không hiểu sao lại nhớ lại lời anh Bảng: San Francisco phiên âm ra tiếng mình là Sanh – Pháp – Lan – Xích - Cổ, tôi mỉm cười. Bỗng một ý thoáng hiện lên, rõ mồn một: Lee Kim, đích là Lê Kim đây, một cụ tổ của anh Bảng, không phải là người Mĩ hay Anh vì tôi chưa bao giờ thấy họ có tên là Kim. Lee là một tên Mĩ, có một tướng Mĩ tên là Lee trong cuộc Nam Bắc phân tranh của Mĩ. Nhưng có thể rằng chính Lê Kim đã tự phiên âm tên mình ra như vậy, hoặc các bạn trong đoàn tìm vàng đã phiên âm ra như vậy. Tôi bèn lật lại những trang trước xem có chữ nào cho biết Lee Kim là người nước nào không, quả nhiên thấy có hai chỗ tác giả gọi Lee Kim là người Trung Hoa (le Chinois).

Tôi mừng vô chừng, đặt sách xuống, quấn điếu thuốc rê rồi đi bách bộ ở cánh đồng sau nhà, nơi đó vắng vẻ… không sợ gặp ai. Hết điếu thuốc đó tôi đốt điếu thuốc khác. Óc tôi bị kích thích dữ. Một sự ngẫu nhiên kì dị, có thể nói là một phép màu. Anh Bảng cố công tìm cả mấy năm thì không gặp, tôi vô tình thì lại gặp. Mà gặp ở một làng hẻo lánh này, trong hoàn cảnh này thì có lạ lùng không chứ. Đúng rồi Lee Kim, tức cụ Trần Trọng Khiêm đây, người Việt đầu tiên qua Mĩ, trước Bùi Viện khoảng hai chục năm.

“Mà người nào sửa tên Lee Kim ra Lê Kim, là làm một việc đùa hay có ý gì chăng? Về coi lại xem”. Tôi trở vô nhà, lấy cuốn La ruée vers l’or lật lật từng trang xem người đọc trước tôi có ghi thêm gì không. Không. Chỉ thấy trong sách có ba bốn chữ con đóng dấu đỏ đề:

Bibliothèque familiale (Tủ sách gia đình)

Lê Xuân Liêm

(Village de Mĩ Quới - Rạch giá)

Lê Xuân Liêm. Ủa! Cũng họ Lê nữa, Xuân Liêm… Xuân Liêm… nhớ mang máng một tên gì… tên gì… Rán nhớ lại xem… Xuân… Xuân Lũng… Phải rồi anh Bảng có cho mình hay cụ Lê Kim đặt tên cho con theo một lối nào đó cho họ nhớ quê cha đất tổ, tới làng Xuân Lũng. Tên có chữ X. và chữ L. Xuân Liêm, hậu duệ của Lê Kim; của… Hai người con trai cụ Lê Kim tên gì nhỉ? Lê Xuân L? À! Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Còn ngờ gì nữa? Lê Xuân Liêm ở làng Mỹ Quới, Rạch Giá chính là hậu duệ của Lê Xuân hay Lê Xuân Lương hay một Lê Xuân nào nữa đây, con trai của Lê Kim, của Trần Trọng Khiêm… lại còn điểm này nữa chứ. Địa chỉ ở Rạch Giá, cũng đúng với lời vị cựu Hương Cả làng Hòa An ở Sa Đéc nói với viên chủ quận mà anh bạn Địa chánh của tôi nhờ điều tra. Vậy là ngẫu nhiên tôi tìm được cái khoen cuối cùng của sợi dây xích rồi. Lê Xuân Liêm – Làng Mỹ Quới - Rạch Giá, bà con xa của anh Trần Văn Bảng, làng Xuân Lũng, Phú Thọ. Chắc ông Liêm này cũng đi ghe qua đây, bị anh Năm tịch thu sách. Nhưng làm sao anh nhớ được ai với ai. Hỏi cũng vô ích. Để ít tháng nữa, hết chiến tranh giành được độc lập lại rồi, mình sẽ đi kiếm. Ông Liêm này chắc có học khá, nhà chắc không giàu có thì cũng phong lưu. Chắc ông ta nhớ rõ gia phả, biết cụ thủy tổ Lê Kim gốc gác ở đâu, làm những gì, đi những đâu, nên mới sửa tên Lee Kim ra Lê Kim như vậy. Ông ta sẽ cho mình biết nhiều điều thú vị lắm. Mình sẽ cho ông ta biết về họ hàng của ông ở Xuân Lũng. Mình sẽ viết thư cho anh Bảng. Ông Liêm sẽ về Xuân Lũng chơi, hoặc anh Bảng sẽ vô Rạch Giá chơi. Sẽ thành một tài liệu ngoại sử, một giai thoại kì thú. Bây giờ thì phải đọc lại cho kĩ cuốn La ruée vers l’or này đã. Coi xấu xí, rách nát vậy mà nó quí như vàng chứ.

Mấy hôm sau tôi chăm chú đọc đi đọc lại ba lần cuốn đó, đánh dấu hết những đoạn nói tới Lee Kim. Ủy ban Hành chánh sắp rút vào trong ngọn, bà cụ chủ nhà cũng đã chuẩn bị xuồng để rút theo. Tôi cũng phải theo. Bệnh đau ruột đã bớt chứ chưa hết. Nhưng tới đâu hay đó. Một tháng sau, nhân gặp người quen, tôi từ biệt anh em, từ biệt bà cụ. “Thầy Hai đi hả? Sau này có dịp ghé thăm tôi nghe. - Dạ - Thôi thầy đi mạnh giỏi. – Bà Sáu ở lại mạnh giỏi”.

*

Sau khi Nhật bị hai trái bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, phải đầu hàng Đồng minh, viên Giám đốc Nhật mời mấy anh em Trưởng ti chúng tôi lại phòng giấy của ông để “giao việc”. Ông ta gầy ốm nhưng gân guốc, nghiêm trang đứng dậy, nhăn mặt, tay phải bấu vào bụng dưới như đương lên cơn đau, mồ hôi vã trên mặt, run run nói với chúng tôi:

- Nước Nhật chúng tôi không mong gì ngóc đầu lên được nữa, nhưng nước các ông sẽ được độc lập, thế nào người ta cũng phải trả lại độc lập cho các ông. Tôi xin chúc các ông may mắn.

- Chúng tôi và cả ông ta nữa chẳng biết chút gì về cuộc cờ trên thế giới cả, tưởng Nga, Mĩ và Trung Hoa không khi nào để cho Pháp tròng cái ách lên dân tộc Việt Nam một lần nữa. Chúng tôi không biết rằng Nga, Mĩ từ khi chiến tranh chưa chấm dứt, ở hội nghị Yalta và Téhéran, đã chia nhau ảnh hưởng rồi; Mĩ muốn cho Việt Nam thành một nước ủy trị, nhưng De Gaulle được Anh ủng hộ cương quyết chiếm lại non sông của chúng ta và Mĩ nhu nhược không ngăn cản được.

Cho nên khi tản cư khỏi Sài Gòn, tôi nghĩ chỉ dăm sáu tháng có thể trở về: Mĩ và Trung Hoa sẽ buộc Pháp phải rút lui. Tôi đã nghĩ lầm. Thực dân Pháp càng ngày càng tỏ ra ương ngạnh, khi phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng cầm đầu vừa mới xuống tàu qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau thì ở Sài Gòn, D’Argenlieu tập hợp được một bọn Việt gian thành lập Nam Kì quốc và gây phong trào đả đảo người Bắc. Mưu mô chia rẻ hiểm độc đó thất bại, thủ tướng Nguyễn Văn Thinh vì quá ngây thơ, theo giặc, đã phải dùng sợi dây để kết liễu đời mình mà tạ tội với quốc dân.

Đầu tháng mười năm đó tôi lại hay tin hội nghị Fontainebleau thất bại: thế lực của bọn thực dân mạnh quá, đảng Xã hội và ngay cả đảng Cộng sản Pháp cũng ngả về phe chúng và tất cả tài ngoại giao của cụ Hồ chỉ đem về cho dân tộc được một thỏa hiệp án kí vào giờ chót với Marius Moutet,[20] một hứa hẹn suông để vớt vát thể diện và kéo dài thời gian để chuẩn bị thực lực.

Tết năm đó tôi hay tin chiến tranh đã nổ dữ dội ở Hà Nội: gia đình nào cũng đào hầm trong nhà và nhà nọ đục tường thông với nhà kia để các đoàn tự vệ lưu thông trong thành phố mà khỏi ra đường. Có người ví trận Hà Nội với trận Stalingrad; hoàn cảnh khác nhau: Pháp ở ngay trong Hà Nội rồi, còn Đức chỉ bao vây Stalingrad thôi, nhưng sự hi sinh và quả cảm của người mình không kém người Nga mà cuộc chiến đấu có phần ác liệt hơn. Căn nhà tôi ở ngoài đó nằm trong khu ác chiến. Ngồi trên bờ kinh nhìn mặt trời hồng hồng lớn như cái mâm lần lần chìm trong màn sương khói trên một cánh đồng bát ngát trơ chân rạ, tôi theo dõi những cánh chim di thê bay thành đàn mà tự hỏi bà con họ hàng tôi ra sao, những cảnh thân yêu của tôi có bị tàn phá. Trên thế giới, có một kinh đô nào như Hà Nội trong năm sáu trăm năm ba bốn lần bị nạn binh lửa như Hà Nội không?

Hy vọng thỏa hiệp tiêu tan, mà không trông mong ở sự giúp đỡ của một nước nào cả: Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch đã câu kết với Pháp, Anh ủng hộ ngầm Pháp, Mĩ đứng ngoài ngó, Nga ở xa, dân tộc mình phải đoàn kết để tự lực trường kì kháng chiến. Nhưng người ta có muốn đoàn kết không? Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm đã bị giết, kẻ ở Quảng Ngãi người ở Tân Uyên (Biên Hòa) nhóm Đệ Tứ hoảng hốt. Cụ Võ Hoành, nhà cách mạng trong Đông Kinh nghĩa thục bí mật chết trong Đồng Tháp mà không ai biết nguyên do. Rồi ít lâu sau lại có tin Thầy Tư Hòa Hảo tức Huỳnh Phú Sổ[21] “bị nạn”, nghĩa là mất tích ở làng Tân Phú (Đốc Vàng Hạ), Long Xuyên. Tôi đã được nghe đồn về Thầy rất nhiều – có tài xuất khẩu thành thi, loại thơ bình dân có tính răn tín đồ và gợi lòng ái quốc, nhất là tài nói thao thao bất tuyệt luôn mấy giờ, trước công chúng mỗi ngày hai, có khi ba lần, lôi cuốn quần chúng khiến nhiều người quì xuống khóc ròng, đứng dưới mưa mà uống từng lời của Thầy. Vào hồi Nhật, Pháp sắp đầu hàng Đồng minh, một người anh họ tôi, thi sĩ Việt Châu, tín đồ thân tín của Thầy, giới thiệu tôi với Thầy ở đường Miche[22]. Người mảnh khảnh, dong dỏng cao, nước da trắng mà xanh, mắt sáng, tóc chải ngược ra sau, để dài gần phủ vai, cổ cao ba ngấn. Rất từ tốn, nho nhã, vẻ đẹp hơi có tính cách nữ tính đại khái như vẻ đẹp của Chu Mạnh Trinh. Thái độ tự nhiên mà thân mật. Cảm tưởng của tôi là Thầy rất ghét Pháp, có tinh thần ái quốc cao, nhã nhặn, dễ dàng thỏa hiệp với những tổ chức bạn. Ra về, tôi nói nhỏ với anh tôi:

- Không biết thầy còn ẩn tướng nào khác không chứ coi nét mặt tôi e rằng khó thọ.

Và trong thâm tâm tôi nghĩ tới Raspoatine thời Nga hoàng Nicolas II. Lần ấy tôi được đưa lên một phòng kín, nhỏ ở tầng trên cùng, trong đó một tín đồ đương bắt tin tức thế giới bằng một máy thâu thanh. Tháng 8 – 1945 anh Việt Châu được thầy Tư phái ra Bắc tiếp xúc với Việt Minh, tìm hiểu chủ trương và hoạt động của họ, vì anh có vài bạn thơ theo Việt Minh. Anh ngừng ở Huế một ngày, vô yết kiến thủ tướng Trần Trọng Kim, cụ Trần còn hỏi anh về những nhân tài ở Nam Việt có thể giúp cụ được, nhưng khi nào anh ra tới miền Bắc Trung phần (tôi không rõ tỉnh nào) thì gặp phái đoàn Trần Huy Liệu từ Hà Nội vô Huế dự lễ thoái vị và nhận quốc ấn của Bảo Đại, anh bèn theo họ trở về Huế, thời cuộc lúc ấy biến chuyển từng ngày từng giờ!

Điều ấy chứng tỏ rằng Thầy Tư am hiểu tình hình, tuy được Nhật che chở, nhưng không hợp tác với họ mà muốn liên kết với bất kì lực lượng nào đấu tranh cho non sông. Cho nên khoảng một tháng sau, hay tin anh Việt Châu bị Việt Minh giết ở Cần Thơ, tôi điếng người đi – con người đó chân chính ái quốc – và bây giờ lại được tin Thầy Tư mất tích tôi càng sửng sốt, chán nản hoang mang, không ngờ lời đoán trước của tôi lại đúng đến thế! Tôi không biết nguyên do nhưng dù sao thì hậu quả cũng tai hại: mặt trận trong Nam sẽ yếu, vì khối Hòa Hảo ít nhất có trên một triệu người tôn thờ vị giáo chủ của họ như vị thánh, vị Phật: mà thế nào mà vụ đó chẳng ảnh hưởng tới những giáo phái khác như Cao Đài chẳng hạn, cũng có tới cả triệu tín đồ. Miền Nam là miền của tôn giáo. Xẩm tối đi ghe trên các kênh rạch miền Hậu Giang, thấy trên bờ cứ cách vài chục thước lại lốm đốm những ngọn nhang trên bàn thờ ông Thiên như một đán đom đóm, và đây đó vang lên tiếng đọc giảng, không khí buồn và thanh thoát đó Trung, Bắc tuyệt nhiên không có. Ngưòi ta không biết vậy ư?

Nhưng ra khỏi miền Long Xuyên – Châu Đốc, càng về gần miền Đông, tinh thần kháng chiến càng mạnh. Chiến thuật “vết dầu loang” của địch rõ ràng thất bại. Họ chỉ làm chủ được những tỉnh lị, quận lị, và những “vết dầu” đã chẳng loang ra được mà càng về sau càng thu hẹp lại. Ngay những đường huyết mạch, như đường Sài Gòn ra Trung hoặc về miền Tây, ban ngày thuộc về họ, ban đêm thuộc về mình. Họ đóng đồn ở mỗi làng, nhưng nhiều nơi không tái lập được ban Hội tề, không thu được thuế. Lính viễn chinh của họ không chịu nổi khí hậu, nhất là mùa lụt, lội bùn không được không ra khỏi đồn, còn bọn lính Việt của họ thì chỉ cướp bóc vặt, một số làm nội công cho mình và lần lần số đồn rút bớt đi. Những đoàn xe của họ năm sáu chục chiếc, dài cả cây số, lâu lâu bị phục kích tơi bời. Không ngày nào không có một đồn bị phá hủy: khí giới của ta một phần do họ “cung cấp” trong những trận đó.

*

Trong cuộc trôi dạt nay đây mai đó, lúc theo một phái đoàn, lúc tháp tùng một nhóm kinh tài, một nhóm dân vận, lúc dừng bước ở một làng, tôi được thấy cảnh Nam Việt rất thay đổi, không đơn điệu bằng phẳng buồn tẻ như tôi tưởng tượng hồi học Địa dư ở trường. Có thể phân biệt tám chín miền, mỗi miền có những nét đặc biệt, quyến rũ. Miền Đông từ Biên Hòa trở ra nhiều đồi núi, ít sông rạch, phảng phất như miền Sơn Tây, Bắc Ninh; miền Mĩ Tho, Bến Tre mát rượi, nước trong xanh, vang tiếng hát tiếng hò, có cái vẻ đẹp thướt tha mà mạnh mẽ như cây dừa; miền Trà Vinh rất nhiều cây sao và “Chùa Thổ” gợi ta thấy đất đai này còn thuộc Miên; miền Thất Sơn huyền bí, mộ đạo; miền Đồng Tháp mùa nước như một biển cả; miền Bạc Liêu trắng xóa dưới ánh nắng, ruộng lúa mênh mông; miền Cà Mau, Năm Căn như một rừng ngập nước, chỗ ẩn núp của sấu, kì đà; miền U Minh đất lún, bụi cây chằng chịt, cõi riêng biệt của các loài chim lớn, một “sân chim” thiên nhiên, bát ngát; miền Hà Tiên, một tiểu vũ trụ đủ cả biển, núi, hồ, ruộng, hang động và lăng tẩm…

Tôi lại được biết tính tình rất khả ái của nông dân. Họ không phân biệt Nam Bắc, không phân biệt giai cấp, chỉ phân biệt người tốt và kẻ xấu.

Mới đầu, một số thanh niên nông dân có vẻ nếu không nghi kị thì cũng xa lánh tôi. Một buổi trưa, tôi tới bờ một con kinh ở giữa đồng, rộng chừng năm thước, không lội qua được. Một thanh niên chèo một chiếc xuồng tới, tôi mừng quá, gọi lại, nhờ ghé vào bờ cho tôi qua bên kia. Không khó nhọc chút nào cả, chỉ cần đưa mũi xuồng vào bờ, đợi tôi xuống rồi đẩy xuồng ra là phía lái đã chạm bờ bên kia tôi leo lên bờ được rồi. Vậy mà anh ta làm thinh, chèo thẳng đi, có lẽ vì nghe thấy giọng Bắc của tôi.

Nhưng những người đứng tuổi, nhất là các bà già đối với tôi rất tốt (“Tổ tiên mình ở ngoài mà”); và khi thấy tôi cũng xách nước, giã gạo, bửa củi, cuốc đất như họ thì mọi người quí mến tôi, tránh cho tôi những công việc nặng, có miếng ngon thường dành cho tôi nữa.

Ai cũng biết thân phận điêu đứng của các tá điền trong này: một số đại địa chủ bóc lột họ, có kẻ chiếm đất, chiếm vợ con của họ nữa, vì vậy mà thời cách mạng, bọn phú gia phải bỏ hết dinh cơ, trốn đi nơi khác. Nhưng tôi đã thấy hai người nông dân giữa trưa, ở trần, bì bõm trong bùn tới nửa ống chân đẩy một chiếc xuồng ba lá một quãng hai ba cây số trên một con kinh phơi bùn vì gặp lúc nước ròng, mà ngồi trong xuồng là một thiếu phụ, con một điền chủ. Nắng chang chang,lưng họ bóng nhẫy mồ hôi, lòng kinh là đất sét, xuồng như dính chặt vào, họ hì hục đẩy từng thước một, mà nét mặt vẫn vui vẻ. Thiếu phụ đòi lên bờ đi cho nhẹ xuồng, họ không chịu. Chỉ vì họ biết thiếu phụ đó là vợ “anh Ba” ở ngoài thành vô bưng thăm chồng trong Ủy ban Hành chánh xã. Anh Ba cũng là con một điền chủ, được hết thảy dân trong miền quí mến và họ chịu cực khổ đẩy xuồng như vậy để chị Ba sớm được gặp chồng, khỏi phải đợi lúc nước lớn. “Anh Ba” đó là một con người hơi lạ: mập, trắng, mũi cao, tai dày, khuôn mặt đều đặn, nụ cười hồn nhiên, nhưng trên trán sớm có nếp nhăn, có vẻ lúc nào cũng suy tư, thắc mắc về một điều gì. Hình như anh không ham học, lên tới trung học rồi bỏ dở, về nhà không biết làm gì, ông thân của anh cho anh lại coi một trại ruộng ở xa nhà. Một số tá điền đêm đêm vào xúc trộm lúa. Anh hay được, làm thinh; họ thấy vậy xúc nữa và xúc nhiều hơn trước, anh cũng làm thinh: lần thứ ba họ cả gan xúc cả chục giạ. Anh viết vào một miếng giấy: “Tôi biết anh em nghèo, nhưng anh em xúc vừa vừa thôi, ba tôi biết sẽ rầy tôi”, để lên trên đống lúa. Từ đó không mất trộm lúa nữa.

Lần khác giữa trưa, anh nghe thấy tiếng rớt bịch bịch ở ngoài vườn, ra coi thấy một người đương bẻ trộm dừa. Anh đằng hắng, không nói lớn, sợ họ hoảng hốt mà té. Khi họ trông thấy anh, anh bảo: “Lựa cho tôi một trái rồi thảy xuống cho tôi”. Từ đó khu vườn mênh mông của anh không mất một trái nào cả. Chính tá điền canh chừng cho anh.

Anh theo kháng chiến từ buổi đầu. Khả năng của anh có lẽ không gì đặc biệt, anh chỉ làm công việc giấy tờ. Nhưng nông dân một phần vì yêu anh mà yêu kháng chiến. Cứ ba tháng chị ở thành vô thăm anh, lần nào cũng sách hai giỏ đầy đủ cả áo quần, thuốc men, thuốc hút và dĩ nhiên mang theo nhiều tiền bạc nữa. Bạn bè bu lại hỏi thăm chị; trước mặt mọi người anh mở các giỏ ra phân phát hết cho họ, chỉ giữ lại mỗi bộ bà ba đen cho chị vui lòng, nhưng chị về hôm trước, hôm sau, thấy một nông dân nghèo, anh lại cho nốt bộ đó. Anh bảo:

- Tôi sống ở đây với bà con, hễ thiếu cái gì thì bà con sẽ chia xẻ cho tôi, tôi giữ làm của riêng làm gì cho thêm bận.

Nếu bụng anh phệ hơn, nụ cười anh tươi hơn thì người ta sẽ nghĩ tới tượng Phật Di lặc. Nhưng anh thường ưu tư, cơ hồ như có mặc cảm về giai cấp điền chủ của gia đình anh.

Dĩ nhiên cũng có một số cán bộ xấu, khoe khoang, hiểm độc, ganh tị, ham hưởng lạc, ăn ngon, hút thuốc thơm - thấy họ khoái trá rít một hơi thuốc thơm, mắt bừng sáng lên, tôi nghĩ tới dân làng đẹp – đeo đồng hồ Oméga, bút máy Parker, kính Zeiss, và chỉ có mỗi cái tài là khéo thả câu trên dòng nước đục. Họ thích nhất công việc hơi nguy hiểm nhưng rất có lợi là liên lạc với thành, quyên tiền, mua đồ tiếp tế. Sau này về thành, gặp họ ăn bận bảnh bao, ngồi xe hơi hoặc cặp kè một thiếu nữ đẹp, tôi làm bộ không thấy họ.

Một đêm nọ bọn chúng tôi ba người ghé một làng phong túc trên một bờ rạch miền Sóc Trăng. Tôi mệt nên đi ngủ trước một mình trên một bộ ngựa trong một căn nhà vách ván ba gian, chung quanh là một khu vườn rộng. Tôi ngủ được một giấc dài bỗng tỉnh dậy, nhưng không tỉnh hẳn. Văng vẳng có tiếng đàn tứ đại oán lúc hiện, lúc tắt. Tôi mở mắt nhìn qua cánh cửa sổ nhỏ khép hờ ở bên cạnh giường, thấy ngoài có ánh trăng. Tôi nghĩ bụng: “Thời này làm gì còn có người đàn bản đó”, ngỡ rằng mình nằm mộng. Tôi nhắm mắt lại, nửa thức nửa tỉnh, nằm yên hưởng tiếng đàn kìm, không dám nhúc nhích, sợ tiếng đàn như ở thiên thai đó tắt mất. Trong không khí phảng phất có một thứ hương gì ngọt ngọt, mát mát. Tôi thấy du dương lạ lùng, thân thể nhẹ nhàng, như không chạm vào bộ ngựa nữa, tâm hồn muốn chới vơi theo với tiếng nhạc. Rồi tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm, không dám hỏi chủ nhân có ai đờn ban đêm không, sợ cảm giác huyền ảo của tôi tan mất. Chủ nhận cho hay đêm trước một toán bộ đội tấn công một đồn trên đường lộ Sóc Trăng - Cần Thơ cách đó năm sáu cây số. Toàn thắng, nhờ có nội công, giết được hai tên địch, thu được rất nhiều khí giới, mà bên mình, chỉ có mỗi một thanh niên bị một vết đạn nhẹ ở bắp vế. Tôi lại thăm bộ đội, hầu hết anh em còn ngủ, chỉ có một người đương rửa mặt ở dưới rạch. Tôi thấy nét mặt quen quen, đánh bạo hỏi:

- Có phải cậu Bảy có hồi ở Bình Thủy đó không?

Người đó hơi ngạc nhiên, chăm chú nhìn tôi, cười:

- À, thầy.

Rồi lên bờ, nắm chặt lấy tay tôi.

Hai ba năm trước, có lần đi kinh lí ở Cần Thơ, tôi lại thăm một ông bạn làm hiệu trưởng trường tiểu học ở đó, tên là Cảnh. Anh gốc ở Bạc Liêu, có ruộng đất, mỗi năm thu được ngàn giạ, chị cũng có của riêng, nên sống một đời rất phong lưu. Trưa hôm đó anh mời tôi lại ăn tại một tửu lâu Huê kiều gần cầu tàu.

Ăn xong, anh bao một chiếc xe hơi đi Bình Thủy, cách Cần Thơ độ năm cây số, trên đường đi Long Xuyên. Tôi gạt đi:

- Trời nắng gắt như vầy mà đi chơi!

Anh cười:

- Nơi này đặc biệt lắm. Vì chiều anh đã rời Cần Thơ rồi, không thể ở lại tới tối, nên phải đi giờ này. Dịp này bỏ uổng.

Tôi miễn cưỡng theo, ngồi xe, gió mát, thiu thiu buồn ngủ. Tới cầu Bình Thủy, chúng tôi xuống xe, quẹo qua tay trái, đi bộ theo bờ rạch. Con kinh này rất đẹp, uốn khúc, tại vàm nổi lên một cái bãi như miệng con rồng ngậm châu. Chỉ rộng khoảng ba bốn chục thước, đứng bên đây nói chuyện với người bên kia được, thành thử tuy cách biệt mà vẫn thân mật như sát rào. Nước lúc đó đương ròng, vài chiếc xuồng và tam bản thả xuôi, và con rạch y như một tấm thảm di chuyển trong truyện Ả Rập. Hai bên bờ đều có một đường đất rộng, rợp bóng dừa, bóng xoài, mận, bằng lăng. Một dãy nhà lợp ngói, vách ván hoặc tường gạch nằm theo đường trông ra rạch. Nhà nào cũng có vườn sạch sẽ, cửa nào cũng phấp phới những tấm màn ren. Dăm ba thiếu nữ đi xóm, hoặc xuống rạch giặt dịa; cô nào cũng bận quần hàng áo lụa, đeo vàng, cổ trắng trẻo, tóc đen nhánh. Tôi bảo Cảnh:

- Chỗ nào có nước trong là y như có con gái đẹp. Hai “vưu vật” đó cơ hồ không rời nhau. Cổ nhân cũng tinh lắm, hễ tả một mĩ nhân là mượn một giòng nước: nàng Tây Thi ở bến Trữ La, nàng Kiều ở bên một dòng “nước chảy trong veo”.

- Rất đúng. Và chính vì một mĩ nhân mà hôm nay tôi bắt anh bỏ giấc ngủ trưa nay.

Tôi nghĩ bụng anh bạn muốn làm mói cho mình một đám nào chăng? Sao không cho biết trước, để mình ăn bận lôi thôi như vầy.

Chúng tôi theo bờ rạch tiến vô độ sáu trăm thước, khi gần tới chợ thì anh Cảnh ngừng lại trước một căn nhà lá nhỏ, rộng chừng ba thước, coi bộ nghèo nàn, ở giữa một khu đất hoang hãy còn lau sậy. Tôi ngạc nhiên vì ở sân, trên một sợi dây chì, thấy phơi ba bốn bộ quần áo đàn bà, toàn là thứ hàng tốt: áo màu tươi, quần lãnh đen hoặc lụa trắng, không phải là của hạng nhà nghèo.

Bạn tôi đứng ở cửa gọi:

- Cậu Bảy có nhà không?

Ở trong nhà có tiếng “Dạ”. Hình như chủ nhân và khách đã quen giọng nhau. Một phút sau một thanh niên bước ra, bận bộ pyjama lụa, tầm thước, nhanh nhẹn, lông mày hơi rậm, môi hơi dày. Chúng tôi bước vào. Anh bạn tôi giới thiệu qua loa, rồi thanh niên đó trở vô nhà.

Phòng mỗi chiều ba thước, có một vách lá ngăn với phòng trong, một lối đi ở bên phải hẹp, tối tăm, đưa ra phía sau. Nền là đất nện. Trên đất treo một cây đàn kìm. Đồ đạc chỉ có một bộ ngựa trải chiếu, hẹp, kê sát vách và một bộ salon: bốn chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ, trên có mặt kính mỏng, dưới kính là hai ba chục tấm hình nam nữ đa số bán thân, khổ hình căn cước hoặc bưu thiếp; tôi đoán là hình các “tài tử” trong giới đàn ca, vì người nào cũng bảnh bao, điệu bộ, có người ôm đàn kìm hoặc đàn guitare.

Tôi để ý nhất tới năm sáu ngọn sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa ở góc phòng, lá vì thiếu ánh nắng, có màu vàng vàng, nhưng không úa. Tôi nghĩ bụng: “Chủ nhân hoặc là rất nghệ sĩ, hoặc là rất lười biếng”.

Một thiếu nữ lặng lẽ, khoan thai bước ra, khẽ gật đầu chào chúng tôi, không ra vẻ quí phái, nhưng rất nền nếp. Mặt anh bạn tôi tươi hẳn lên. Nàng khẽ vén áo ngồi xuống bộ ngựa đối diện với anh Cảnh. Khoảng hai mươi tuổi, nước da trắng mịn, mớ tóc đen búi ra sau. Tôi chỉ nhớ đã say mê vì một cảm giác mát mẻ, dịu dàng, thanh thoát toát ra từ y phục – áo dài lụa màu xanh nhạt, quần nhiễu trắng - tới thân hình rất cân đối, khóe mắt, nụ cười, ngôn ngữ, cử chỉ của nàng và tôi tưởng ngồi trước không phải một người trần mà một bức tranh tố nữ linh động.

Nàng hỏi thăm tôi vài câu rồi nói chuyện với anh Cảnh về những bạn chung của họ, về những buổi hội họp tuần trước. Có khói ở nhà sau bay ra; một lát cậu Bảy sách ra một ấm nước sôi, nàng pha trà mời chúng tôi. Trà Thiết Quan âm, rất ngon. Cậu Bảy cũng ngồi trên bộ ngựa, ở đầu kia, lên dây cây đàn kìm rồi gẩy một bản Văn Thiên Tường. Giờ đó tĩnh mịch, chỉ có tiếng xào xạc của bụi sậy ở ngoài vườn và tiếng ru em ở xa vẳng lại. Giọng đàn của cậu Bảy thật đặc biệt: buồn nhưng già dặn, mạnh, mà hùng nữa.

Hết bài, cậu hai tay đă cây đàn cho anh bạn tôi. Hai người đổi chỗ cho nhau vì ngồi ở ghế salon không đàn được. Lên dây lại rồi, anh Cảnh sửa lại tư thế, xốc lại áo, mỉm cười liếc thiếu nữ, nàng mỉm cười, gật đầu. Dạo xong một khúc, anh gõ “cắc” vào mặt đàn, vô bài “Phụng cầu hoàng”. Nàng cất tiếng hòa theo. Ngón đàn anh rất “mùi” mà giọng nàng thanh, ấm, ngân nga rõ từng tiếng. Nàng ngước cặp mắt long lanh lên ca, cặp mắt bồ câu tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt trên đùi, móng tay hồng hồng; lúc này tôi mới nhận thấy nét mặt nàng phảng phất buồn. Bạn tôi vừa đàn vừa đăm đăm nhìn nàng, và mỗi khi xuống nhịp nào, giọng đàn, giọng ca rất hòa hợp nhau, thì hai người mỉm cười ngó nhau, cậu Bảy cũng mỉm cười. Sự hân hoan tương đắc đó chỉ hạng nghệ sĩ mới cảm được. Tôi thấy mình là ngư?