II TỪ SAINT LOUIS TỚI ĐỒN LARAMIE-GẶP NGƯỜI DA ĐỎ
Họ khởi hành vào một ngày đầu tuần, trước khi mặt trời mọc, một là để đi cho mát, hai là để dân chúng ở Saint Louis và các người đi tìm vàng khỏi bu tới coi.
Đoàn gồm ba chục chiếc xe và trên sáu chục con ngựa. Xe là thứ bốn bánh bằng gỗ, hai bánh sau lớn, hai bánh trước nhỏ, không có thùng, mui bằng vải dày hoặc bằng da căng trên những cái sườn hình bán nguyệt bằng sắt. Ngựa vừa để kéo xe vừa để cưỡi. Ở đầu và cuối đoàn là những người lực lưỡng nhất, mỗi người đeo hai khẩu súng sáu. Đoàn chia ra nhiều nhóm: nhóm người nói tiếng Pháp, nhóm người nói tiếng Anh, nhóm người nói tiếng Mễ Tây Cơ vân vân… Bốn người thiện xạ cưỡi ngựa đi đi lại lại canh phòng ở hai bên. Lê Kim làm thông ngôn, thường đi ở gần Max, tại đầu đoàn.
Đoàn xe ra khỏi thành Saint Louis, như một con rắn khổng lồ dài hơn một cây số, bò trên đường đất. Mặt trời vừa ló thì có tiếng harmonica từ một chiếc xe phát ra và khúc hát Oh! My Suzannah! Vang lên trên cánh đồng vắng:
Nín đi em Suzannah
Để anh đi California!
Anh sẽ đào núi
Anh sẽ tát sông
Ở California,
Hỡi em Suzannah!
Rán chờ anh một hai năm.
Anh sẽ trở về
Vàng sẽ đầy túi
Anh sẽ cất nhà
Cho em, em Suzannah!
Khúc đó là khúc hát của bọn tìm vàng, không rõ ai đặt ra, truyền bá rất mau, giọng thổn thức, nghẹn ngào, cuối cùng kéo dài ra, cực kì bi thảm.
Buổi trưa, trời nắng gắt có nhiều chiếc xe đi chậm, đoàn kéo dài ra trên hai cây số. Họ cho ngựa nghỉ ngơi ăn cỏ vài giờ, rồi lại tiếp tục đi, chiều tối hôm đó mới tiến được có mười sáu cây số.
Phải mất hai tuần họ mới đến được Independance, một thị trấn nhỏ bên bờ sông Mississipi. Không có tai nạn gì ở dọc đường cả. Họ ngừng lại, mua thêm thức ăn, và đoàn thêm được tám người: hai gia đình vì có người chết, phải bỏ một đoàn đã đi trước.
Từ đây họ mới thực sự bắt đầu băng qua miền Tây. Có hai con đường mòn: đường phía Bắc đưa tới đồn Laramie, và đường phía Nam đưa tới Santa Fé. Theo lời khuyên của Buck, họ lựa con đường Laramie gần hơn.
Cuộc hành trình bắt đầu cực khổ. Đường gồ ghề, trời nắng chang chang, ngựa gục đầu xuống thở phì phì, kéo xe không muốn nổi. Họ gặp một con sông hẹp nhưng sâu kẹp giữa hai sườn núi, nước trong, xanh lơ nên gọi là Rivière bleue[26]. Họ phải đốn cây, bắc cầu để qua.
Qua bên kia sông được một quãng, một cánh đồng cát đỏ mênh mông trải trước mắt họ tới ngút ngàn, đây đó điểm những đám cát đen như máu khô. Trước kia nơi đó là một cánh đồng cỏ, không hiểu các người Da Đỏ đi đốt đồng từ hồi nào. Trong xe chỉ còn đủ cỏ cho ngựa ăn hai ngày, mà không biết mấy ngày mới qua được cánh đồng cháy đó. Nhiều người nản chí, muốn quay trở về theo con đường Santa Fé. Nhưng Buck phản đối, bảo:
- Từ đây tới sông Nebraska chỉ vào khoảng sáu chục cây số. Rán đi thì bốn ngày tới. Chỗ cỏ khô đó đủ cho ngựa ăn được hai ngày thì chúng có thể nhịn đói được hai ngày nữa. Tới sông Nebraska rồi thì không lo gì cả.
Mọi người vững tâm và cuộc hành trình tiếo tục. Đây thuộc về miền bộ lạc Da Đỏ Pawnee, nên Max ra lệnh phải canh gác kĩ lưỡng, nhất là ban đêm. Một đêm nọ, bỗng có một tiếng nổ. Max chồm dậy. Rồi có tiếng la:
- Tụi Da Đỏ!... Tụi Da Đỏ!...
Cả đoàn hoảng hốt, Max, Buck, Lê Kim nhảy phóc lên ngựa, tới chỗ phát ra tiếng súng, hỏi ra thì không phải là Da Đỏ tấn công mà là một người trong đoàn băn một tên ăn trộm, tên này nằm úp mặt trên đất bên cạnh một chiếc xe.
Hans, người Hòa Lan, phân trần, Lê Kim thông ngôn:
- Tôi đoán không sai, biết rằng tính nó tham. Hai đêm trước nó lén vào xe, ăn cắp chiếc đồng hồ của tôi… Chiếc đồng hồ bằng vàng tôi mua ở Amsterdam. Tôi còn chiếc dây bằng vàng nữa… Biết thế nào nó cũng quen mùi muốn ăn cắp nốt. Đêm nay tôi làm bộ ngủ… Quân chó má nó lẻn vô lần túi quần tôi, tôi bắn một phát. Vậy đó.
Max hỏi:
- Hắn chết hay sống?
- Sống làm sao nổi. Bộ tôi bắn dở lắm hả?
Người ta lật thây kẻ bị bắn lên: một người Mễ Tây Cơ tên Dack. Viên đạn xuyên qua tim.
Hans bước lại lục túi quần Dack, lấy ra một chiếc đồng hồ vàng, reo lên:
- Tôi đoán có sai đâu. Chính hăn lấy chiếc đồng hồ của tôi đây.
Max cau mày, rầy Hans:
- Phải hắn ăn cắp thật. Nhưng tại sao anh không cho hay mà lại tự tiện giết bạn như vậy? Ai chỉ huy ở đây? Ai muốn làm gì thì làm chăng? Còn trật tự gì nữa. Tôi sẽ phạt anh.
Một người trong đoàn bảo:
- Giết người mà chỉ bị phạt thôi ư? Còn ai dám theo cái đoàn này nữa?
Lê Kim xen vào:
- Lỗi ở hết thảy chúng ta. Chúng ta đã không tiên đoán được những trường hợp như vậy để tìm biện pháp phòng ngừa. Việc đã lỡ rồi. Chúng ta không thể đuổi anh bạn Hans ra khỏi đoàn. Vậy tôi đề nghị với anh em tịch thu cái đồng hồ của anh ấy, cho vào của công. Còn anh Hans, bây giờ hết giận rồi, anh chắc thấy rằng chiếc đồng hồ của anh dù quí tới mấy cũng không bằng một mạng người chứ?
Hans cuối mặt, làm thinh. Mọi người gật đầu. Hans chìa chiếc đồng hồ cho Max.
Lê Kim nói tiếp:
- Bây giờ chúng ta chôn cất bạn Dack để sáng mai lên đường sớm.
Max bảo:
- Lần này thì thôi. Nhưng lần sau, kẻ nào bắn một bạn trong đoàn thì sẽ bị xử tử đa.
Một người mỉm cười:
- Tướng quân Max hăng quá!
*
Ngựa đã nhịn đói một ngày rưỡi, có con muốn hóa điên, chạy lồng lên. Trong đoàn đã có vài người bệnh. Lê Kim phải theo “bác sĩ” Oliver để làm thông ngôn cho các bệnh nhân.
Trưa hôm đó, họ thấy một luồng gió mát, trên trời, đã có lác đác mấy cánh chim. Buck bảo:
- Chúng ta sắp tới sông Nebraska. Nào rán lên đi.
Quả nhiên đi được ba bốn cây số nữa thì thấy một đường cỏ xanh ở chân trời, rồi lát sau thấy dòng nước lấp lánh của sông Nebraska. Mọi người reo hò. Đoàn ngựa đánh hơi nước, ngóc đầu, hỉnh mũi lên, hăng hái chồm tới trước.
Sông rộng, khoảng tám trăm thước, nhưng không sâu, lòng đầy cát, nước cũng đầy cát, đỏ như gạch. Họ rán qua sông trước khi mặt trời lặn. Chỉ có mỗi một chiếc “bắc” bằng lòng chở xe và phụ nữ, còn đàn ông và ngựa phải lội qua. Người chống phà khuyên họ cởi quần áo, nếu không thì ít nhất cũng phải lộn túi áo, túi quần ra ngoài ròi hãy lội. Một người không nghe xông càn xuống trước, tới giữa dòng, cát trong nước sông vào đầy các túi, nặng quá, lội không nổi, chới với, chìm lỉm, các bạn cứu không kịp.
Qua bên bờ bên kia rồi, Max hội họp các bạn đồng hành lại, đề nghị dựng một một bia sơ sài bằng đá ở chân đồi để ghi tên người xấu số đã hi sinh cho cả đoàn.
Họ nghỉ đêm ở đó, sáng hôm sau thẳng tiến về phía đồn Laramie. Miền này là một cao nguyên ở khoảng 1000 thước trên mặt biển; ở giữa cánh đồng cỏ bát ngát xanh rợn tới chân trời thỉnh thoảng nhô lên những ngọn đồi sáng sớm phơn phớt màu tím mà buổi chiều thì đỏ rực ánh tà dương.
Đi được khoảng hai ngày họ gặp một đoàn xe tiến ngược chiều họ, gồm khoảng năm chục người. Họ vẫy lại nhưng đoàn kia không hiểu vì lẽ gì không ngừng.
Từ đó, gần như không ngày nào họ không thấy một đoàn ở xa, không gặp dấu vết một chỗ cắm trại: bếp lửa (có khi còn ấm), rác rưởi, và cả những ngôi mộ nhỏ nữa: mươi phiến đá chồng chất lên nhau, ở giữa cắm một cây thánh giá bằng gỗ khắc tên người chết. Cảnh thực thê lương, họ mủi lòng nghĩ đến thân phận của chính họ. Nhưng cũng có một số càng nóng lòng mau tới miền Tây, sợ những đoàn đi trước kiếm được hết các mỏ vàng, chiếm hết chỗ khai thác rồi.
Các đoàn đi tìm vàng xuất hiện mỗi ngày mỗi nhiều, y như đi trảy hội. Nhìn về phía nào cũng thấy một đoàn xe dài, hoặc một vài chấm đen di chuyển ở chân trời.
*
Một hôm, trong đoàn có người la lớn:
- Tụi Da đỏ!... Tụi Da đỏ!...
Trong đám cỏ ở phía trước mặt, họ thấy nổi lên một hàng khoảng hai chục nóc lều coi y như những nón lá của ta, dựng cách đều nhau, trên bờ một dòng sông: lều bằng da, trên nóc cắm một chùm lông. Không thấy một bóng người Da đỏ, nhưng cả đoàn đều hồi hộp, đưa súng ra, lên cò; có người xanh mặt, nhưng vẫn làm bộ anh hùng:
- Phen này được lột da đầu tụi nó đem về nhà làm kỉ niệm!
Buck, người hướng đạo, hét lớn:
- Xin bà con bình tĩnh. Không có gì mà phải sợ.
Lê Kim phóng ngựa đi dọc theo đoàn, nhắc lại lời của Max:
- Ai không được lệnh mà nổ súng thì sẽ bị ăn đạn liền.
Mọi cây súng lại hạ xuống.
Có người đề nghị đi vòng, lánh xa những lều Da đỏ. Buck phản đối:
- Không nên. Đừng khiêu khích họ, nhưng cũng đừng tỏ ra mình có vẻ sợ họ. Cứ thẳng đường mà tiến.
Và đoàn xe qua mặt dãy lều. Nhìn vô trong lều, họ thấy vào bà già Da đỏ ngồi may những chiếc áo sặc sỡ. Một đám con nít trần truồng gầy tong teo, bụng ỏng ngạc nhiên ngó họ. Tới gần cuối dãy, họ mới thấy một người đàn ông Da đỏ lực lưỡng, cao lớn, gần khỏa thân, chỉ đeo mỗi một cái khố, ngực vẽ một hình con sếu đứng một chân, hai bên gò má vẽ hai hình trắng giống hai dấu phết, hoặc hai giọt nước mắt vĩ đại, coi vừa kì cục, vừa ghê tởm. Người đó khoanh tay trước ngực, lừ lừ ngó đoàn xe đi qua mà không hề nhúc nhích.
Từ trong các lều, xông ra một mùi lợm giọng: mùi mỡ gấu, mùi da thú phơi khô, mùi dầu và sơn bôi trên mình bọn thổ dân đó.
Cách đó ít cây số họ lại gặp một làng Da đỏ như vậy. Cũng yên ổn không xảy ra chuyện gì. Mọi người đã quen, hỏi nhau:
- Sao mà chúng hiền khô như vậy? Người ta bảo chúng dữ tợn lắm, hễ gặp tụi mình là không tha mà?
Họ hết sợ, còn vui mừng nữa vì biết rằng ở đâu có Da đỏ thì ở đó có mồi, có từng bầy bò rừng (brion), tha hồ có thịt ăn. Quả nhiên, tiến thêm ít cây số nữa, họ gặp một đoàn bò rừng nặng nề, đầu rất lớn mà cổ rất ngắn.
Buck cho phép bắn hai con đủ ăn thôi; mà muốn bắn loài đó thì phải là thiện xạ: bắn xuyên qua vai cho viên đạn qua trúng tim, còn bắn vào trán thì lớp lông và da ở đó dày quá, con thú chỉ bị thương nhẹ chứ không chết.
Đã lâu lắm, bây giờ đoàn mới được ăn thịt tươi, một thứ thịt ngon hơn thịt nai nhiều. Sau bữa ăn, tiếng harmonica lại nổi lên hoà với điệu hát Oh! My Suzannah!
*
Sáng hôm sau, họ vừa mới đi được một quãng thì Buck đi dò đường trước, phi ngựa về báo:
- Cả đoàn ngừng lại! Các xe quay lại thành vòng tròn, gọng xe sau cột vào bánh xe trước! Mau…
Mọi người nhao nhao lên hỏi:
- Tại sao vậy! Có gì vậy?
Buck giảng giải:
- Tôi đã thấy một chiếc mền đỏ ở phía trước, cách đây vài cây số.
Có người phì cười:
- Tưởng là gì! Một chiếc mền đỏ! Tại sao phải ngừng lại vì gặp một chiếc mền đỏ?
Buck quát toáng lên:
- Đồ ngu! Không biết gì về tục Da đỏ hết. Tôi dẫn đường cho bà con, bà con có chịu nghe lời tôi không? Chiếc mền đỏ là dấu hiệu cản đường. Tụi Da đỏ không cho chúng ta qua. Nếu chúng ta đụng tới chiếc mền đó, hoặc không đụng tới mà chỉ đi vòng qua thôi thì tức là gây chiến. Tụi Da đỏ này là tụi Pawnee, thứ dữ đấy.
- Dữ thì dữ, mình có súng mà sợ cái gì.
Ý kiến phân vân. Max xen vào:
- Bà con nghe tôi nè! Buck có kinh nghiệm về tụi Da đỏ hơn chúng mình. Chúng ta phải nghe lời khuyên của Buck. Đành rằng không một người nào trong bọn chúng ta sợ tụi Da đỏ, nhưng chúng ta muốn tìm vàng chứ không muốn bỏ thây ở đây. Quay xe lại thành vòng tròn ngay đi, đợi xem tình hình ra sao. Tôi chỉ huy ở đây. Mọi người phải tuân lời tôi.
Nhưng đã quá trễ; họ chưa kịp quày xe xong thì sáu người Pawnee đã xuất hiện trên một ngọn đồi cách họ khoảng trăm thước.
Buck ra lệnh:
- Không ai được nổ súng!... Để tôi thương thuyết xem chúng muốn gì. Tôi biết được ít tiếng Chippaway, tiếng Sioux, tiếng Ottawa, may ra có thể hiểu lõm bõm tiếng của tụi này được.
Max và Buck bèn tiến lại phía đồi, sáu người Pawnee xuống đồi, khi hai bên cách nhau độ ba thước thì đều ngừng lại. Sáu người Pawnee đó đều to lớn như lực sĩ, chỉ thắt mỗi một chiếc như dây lưng bằng da thả những tua bằng len màu rực rỡ che phía dưới bụng, tóc bới lên thành một của cải lớn cắm lông chim, khắp mình sơn các hình kì dị, thân thể họ tiết ra một mùi hôi tanh nồng nặc.
Hai bên đứng yên ngó nhau một chút rồi người cầm đầu phía Pawnee, nói trước bằng một thứ tiếng Anh thô sơ:
- Các anh ở trên đất Pawnee.
Buck đáp lại cũng bằng thứ tiếng Anh đó:
- Phải. Các bạn muốn gì?
- Xếp Pawnee muốn gặp xếp Da trắng.
Buck hỏi:
- Xếp Pawnee muốn gì?
Hắn làm thinh không đáp.
Buck lại hỏi:
- Xếp Pawnee ở đâu?
Hắn chỉ về phía xa ở sau lưng hắn.
Buck đưa mắt hỏi ý kiến Max. Max suy nghĩ một chút rồi bảo:
- Đi! Tụi này biết chút tiếng Anh, không đáng ngại lắm đâu.
Hai người đi theo bọn Pawnee độ tám cây số thì tới làng Pawnee. Các chòi cũng có hình nón, nhưng cất bằng cây, trát bùn. Trước làng có một bầy ngựa đương ăn cỏ. Giữa làng có một cái chòi rộng hơn, cao hơn, đẹp hơn, của viên tù trưởng.
Buck và Max tiến vô chòi. Viên tù trưởng vẫn ngồi yên, trừng trừng ngó họ rồi bảo Buck:
- Các anh ở trên đất của tôi.
Buck đáp:
- Phải.
- Ngựa các anh ăn cỏ của tôi.
- Phải; nhưng ít ngày nữa, cỏ lại mọc cao như trước mà.
- Các anh săn mồi của tôi.
- Cũng phải nữa. Nhưng chúng tôi chỉ bắn có hai con bò rừng để ăn thôi. Nếu chúng tôi biết trước rằng có các bạn Pawnee ở đây thì chúng tôi đã tới xin thịt mà khỏi phải săn bắn.
Viên tù trưởng khoanh tay trước ngực, bảo:
- Bạn tôi nói hay lắm. Bây giờ bạn tôi tính bồi thường cho tôi ra sao đây?
Buck đáp:
- Chúng tôi không làm thiệt hại cho các bạn bao nhiêu; chúng tôi xin tặng các ban vài cây thuốc hút và mươi cái vòng đồng để vợ các bạn đeo cổ tay…
Viên tù trưởng làm thinh, có vẻ chưa mãn nguyện. Một phút sau mới lặp lại rằng: Các bạn giết mồi của tôi, cho ngựa ăn cỏ của tôi… Tôi làm sếp miền này. Tôi có thể cho các bạn một cái “quipo”, có cái đó, các bạn sẽ được thong thả đi qua, không bộ lạc Pawnee nào cản trở các bạn.
Buck cau mày đáp:
- Bạn nói cũng hay lắm. Nhưng chúng tôi không tin ở cái “quipo” của bạn bằng các khẩu súng của chúng tôi. Tôi đưa đề nghị cuối cùng này: hai cây thuốc hút, hai cân đường, mười cân bột, mười hai cái vòng đồng và hai chục cái harmonica, thế thôi!...
Viên tù trưởng gật đầu:
- Bạn của tôi công bằng lắm. Tôi cho người đi theo bạn nhận những món đó.
Thế là cả một đoàn Da đỏ, già trẻ, trai gái đi theo Max và Buck về đoàn xe. Hay tin, nhiều người trong đoàn phản kháng, bảo phải cống nộp cho tụi Da đỏ như vậy là nhục, chỉ bằng lòng đổi những món đó thôi.
Lê Kim can họ:
- Họ là những người chất phác, giữ tín mà không sợ chết. Chúng ta phải giữ tín với họ. Sau chúg ta, còn nhiều đoàn tìm vàng khác qua đây nữa, chúng ta không nên vì cái nhỏ gây nỗi khó khăn cho người sau. Ấy là chưa kể gây với họ thì thế nào cũng có người chết. Thử hỏi bấy nhiêu món có đáng đổi một mạng người không.
Mọi người cho là phải.
[26] Dòng sông xanh.