← Quay lại trang sách

III QUA DÃY NÚI ĐÁ…-MỘT CHỦ QUÁN KÌ DỊ - CÁC THÁNH THỜI TẬN THẾ

Ba ngày sau họ tới đồn Laramie. Đây cũng như Independance là giao điểm của nhiều con đường mòn, chỗ nghỉ chân của những kẻ lữ hành, di cư từ bốn phương. Đồn nằm ở gần bờ sông, chung quanh toàn là những kho mênh mông chứa đầy thực phẩm và hàng hóa mọi thứ, xen lẫn với những quán chuyên bán rượu rom (rhum) và một thứ bia đắng nghét. Quán nào cũng chật ních, sặc mùi mồ hôi, mùi thịt, cá nướng và mùi rượu. Khách vừa uống rượu vừa đánh bạc: trên các bàn gỗ nhơ nhớp bầy la liệt chai rượu, li rượu, cỗ bài cáu bẩn, tiền bạc, súng lục, đồng hồ, nón. Kẻ nào không đánh bài thì hát bản Oh! My Suzannah:

Anh sẽ đào núi,

Anh sẽ tát sông,

Anh sẽ tìm vàng ở California,

Hỡi em Suzannah

………………….

hoặc bản Jim Bowers:

Tên tôi là Jim Bowers

Tôi có một em gái tên là Line

Tôi lên đường đi California,

Quê tôi ở xa lắm, quê tôi ở Pine…

Nghe câu cuối cùng, ít ai không rưng rưng nước mắt. Vì người nào trôi nổi tới đây cũng cùng một tâm sự đó cả, quê ở rất xa, xa nhất chắc chắn là Lê Kim. Lê Kim buồn việc riêng, muốn mạo hiểm, đi cho biết khắp thế giới, nhưng còn những kẻ khác thì đều bị vàng thu hút như đá nam châm hút sắt. Họ từ biệt quê hương, gia đình, từ biệt cánh đồng, ngôi nhà của họ, từ biệt cô tình nhân Suzannah, hoặc cô em Line của họ, trải biết bao nỗi gian nan nguy hiểm trong mấy tháng trời, cả chục lần suýt chết, chết đói, chết khát, chết bệnh, chết vì Da đỏ… mới tới được đây, mà đã thấy được gì đâu! Họ mới đi được hai phần ba đường, còn phải leo một dãy núi cao tuyết phủ nữa, phải băng qua một bãi sa mạc mênh mông nữa mà họ chỉ được nghe kể những cảnh rùng rợn, chứ không biết được gì hơn. Họ có đủ sức chịu những nỗi gian nan đó không? Mười kẻ đi mới có vài kẻ tới chỗ! Rồi ở cái miền này không gặp cọp, beo, chó sói thì gặp trộm cướp còn ghê hơn chó sói, beo, cọp! Mà may mắn tới được miền Tây, họ sẽ tìm được vàng không? Hay là các mỏ bị chiếm hết rồi? Vàng! Vàng! Có thật đấy không, hay chỉ là một ảo ảnh, một ảo ảnh ngút ngàn ghê gớm. Tâm sự Lê Kim, người Việt Nam đầu tiên tới mạo hiểm ở Mĩ, lúc đó ra sao?

Quê tôi ở xa lắm, quê tôi ở Pine… Pine dù có xa tới mấy, cũng vẫn là ở trên đất Mĩ. Còn Xuân Lũng, cách biểt bao đại dương, biết bao sông núi. Anh thuộc thơ Đỗ Phủ không?

Cổ viên kim nhược hà?

(Vườn cổ bây giờ ra sao?)

Anh nhớ thơ Lý Bạch không?

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

(Ngẩng đầu trông trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương).

Đoàn xe vừa tới thị trấn Laramie thì một nhân viên trong đồn ra hỏi:

- Trong đoàn có người bị bệnh dịch tả không? Có thì đoàn phải ra thị trấn liền.

“Bác sĩ” Olivier đáp:

- Dịch tả ư? Không, tuyệt nhiên không.

Nhân viên đó vừa quay đi, Olivier nói nhỏ với Max mấy câu và Max ra lệnh ai muốn mua bán gì thì mua bán cho xong nội trong ngày hôm đó, sáng sơm hôm sau sẽ lên đường.

Nhiều người cự nự: trải bao gian nan mới tới được đây, mỏ vàng còn ở đâu xa tít, họ muốn nghỉ lại vài ngày đã; vả lại xe cộ cần phải sửa chữa.

Max bảo:

- Ai muốn ở lại tùy ý, đoàn sẽ đi trước.

Và sáng hôm sau, đoàn lại tiếp tục hành trình, vì trong đoàn có một người bị bệnh dịch tả, Olivier giấu nhân viên của đồn, ở lâu sợ bị lộ.

*

Ra khỏi thị trấn, đoàn xe đi vào một cái hẻm ở phía Nam để vượt dãy Núi Đá (Montagnes Rocheuses, Rocky Mountains). Dãy núi này dài cả ngàn cây số, có chỗ cao 6000 thước, chạy song song với bờ biển Thái Bình Dương, y như một vạn lí trường thành thiên nhiên.

Hai bên đường hẻm, núi đá dựng đứng, nóng như thiêu. Lâu lâu mới gặp được bụi cây mọc bên bờ một cái thác nhỏ, dòng nước thấm vào lòng đất, mất tích y như một con rắn chui vào hang. Một con đại bàng bay lượn ở trên không. Một người đưa súng lên bắn trúng, nó rớt xuống khe núi, không ai nghĩ tới chuyện lượm.

Buổi chiều, họ tới một nơi, nhìn lên cao thấy những cây đeo những trái gì to lớn lạ thường kì cục. Một người bảo là một loại bá hương đỏ. Có những cây sống không biết từ bao nhiêu thế kỉ, to lớn tới mấy ôm. Từ các cành thấy có những cuộn gì tròn, dài, thòng xuống đong đưa. Không khí nồng nặc một mùi hôi thối lạ lùng.

Buck ngắm nghía một chút rồi bảo:

- Phải rồi! Đây là nghĩa địa của người Da đỏ. Trông xa tưởng là trái cây khổng lồ; sự thực là những cái bao da đấy! Mỗi bao chứa một xác người. Tự họ không chôn cất người chết mà treo lên như vậy. Chà, chịu không nổi cái mùi này. Quất cho ngựa đi mau lên!

Buổi tối họ ngừng lại ở bờ suối để chôn người bị dịch tả mới chết. Trong đoàn thêm năm người nói chuyện nữa. Không có thuốc chữa, mà không thể trở về Laramie được. Sáng hôm sau, số người mắc bệnh tăng lên gấp đôi, thêm ba người nữa chết. Cả đoàn đều hoảng sợ. Nhưng cũng vẫn phải tiếp tục hành trình. Đành trông ở số mạng từng người thôi. Quả là một thứ bạo bệnh: không sốt, không nóng, thổ, tả, trong phân có máu, thế là vài giờ sau tắt thở. Ngày nào họ cũng phải đào huyệt chôn bạn, cắm một cây thánh giá sơ sài lên trên, ghi tên người chết.

Sau một tuần lễ, trong đoàn chết cả thảy mười tám người.

Một buổi chiều, một cơn dông thình lình nổi lên, mạnh vô cùng: cành cây cổ thụ mà cũng oằn xuống, mui xe tốc lên. Buck la hét, biểu phải cột ngay xe nọ với xe kia, cho ngựa nằm rạp xuống, và núp ở sau mông ngựa dưới gió. Có người chậm chạp chưa kịp núp bị gió thổi ngã, lăn trên đường như cục đá. Mui xe rách tung bay, lượn trên trời như cánh chim. Chỉ một lát sau trời đen như mực, mưa đổ xuống như thác suốt đêm.

Hừng đông trời lại quang đãng như thường. Hai chiếc xe bị gió lật đổ, trên một chục chiếc mất mui. Bao nhiêu đồ đạc mất hết, hại nhất là bột đường và thuốc hút. Mọi người sửa xe qua loa rồi lại đi. Trưa hôm đó thêm ba người chết vì dịch tả nữa, rồi tự nhiên dịch bệnh biến hẳn.

*

Sau hai chặng đường yên ổn, họ tới một con sông nước xanh như lá cây (nên có tên là Rivière verte), một nhánh của sông Colorado.

Sông không rộng, chỉ khoảng năm chục thước, nhưng không có phà, mà chung quanh không có một ngôi nhà nào cả. Mọi người chán nản, có kẻ rủa Buck là không biết đường mà cũng hướng dẫn, Buck đáp:

- Con sông này còn có tên là sông Cạn, chắc là xe qua được. Mùa này là mùa đông. Các đoàn khác qua được thì tại sao chúng ta lại không qua được?

Một người bảo:

- Bà con cứ đánh ngựa cho xe qua đại đi xem nào.

Một người hỏi:

- Lỡ gặp chỗ sâu thì làm sao?

Lê Kim đề nghị:

- Để tôi cưỡi một con ngựa lội qua trước xem sao. Tôi nhỏ con, ngựa khỏi phải chở nặng.

Lê Kim quất ngựa, cho ngựa dò từng bước, qua được bờ bên kia. Chỗ nào sâu nhất, nước chỉ mấp mé lưng ngựa mà không chảy mạnh.

Một lát sau, chiếc nọ nối chiếc kia, cả đoàn xe qua được con sông. Thế là họ vượt được dãy Núi Đá; đường từ đây dễ đi hơn, ít đá mà nhiều cát và đất, cây cối nhiều hơn. Hai ngày sau họ tới đồn Bridger.

*

Đồn Bridger cũng như đồn Laramie, cũ kĩ, nhưng rộng hơn có những kho rẩt lớn chứa đủ thứ hàng hóa: nhưng chung quanh ít có quán rượu, vì chính đồn là một quán rượu, khách bốn phương tới đây ít hơn ở Laramie.

Đoàn xe ngừng lại để mua các thức ăn, nhất là quần áo vì qua dãy Núi Đá, quần áo của họ móc vào gai, đá, đã rách tươm hết.

Rời đồn Bridger, người nào cũng hăng hái, tưởng chừng như đã ngửi thấy mùi vàng rồi, vì họ đã đi được bốn phần năm con đường qua miền Tây. Khúc hát Oh! My Suzannah! lại vang lên trong đoàn xe.

Đi được khoảng ba cây số, tới một khu rừng họ thấy một cái quán rượu cất toàn bằng khúc cây tùng, mặt trước treo một tấm bảng lớn có hàng chữ:

Juan Pachero: đủ các thứ rượu.

Đi khỏi quán được một chặng, họ thấy một tấm bảng nữa ở bên đường, nét chữ nghuệch ngoạc:

Salt Lake city, cách đây 50 cây số

Từ đây tới đó không có rượu rom đâu

Hỏi khách qua đường, khách có khôn.

Thì nên trở lại quán Pachero.

Một nữa cả đoàn đòi trở lại quán Pachero.

Joan Pachero thật là một con người kì dị: to lớn, da đỏ như đồng, tai đeo hai cái vòng vàng lớn, y như phụ nữ Da Đỏ! Hắn kéo một cây vĩ cầm, theo điệu Oh! My Suzannah! Hắn khoe xưa làm thủy thủ, đi khắp các biển. Rồi bỏ nghề đó, đi tìm vàng. Mọi người nhao nhao lên hỏi:

- Thế có đào được vàng không, mà lại đây mở quán?

- Đào trong bao lâu thì được bao nhiêu vàng? Miền nào nhiều vàng nhất?

Hắn mỉm cười, hai cái vòng vàng ở hai tai hắn đong đưa, chói sáng:

- Vàng à?... Có chứ!... Thiếu gì!... Nhưng phải tìm ra được, rồi phải đãi!... Cực thấy mồ đi, chứ đâu có dễ!... Tôi muốn gẫy lưng về đào vàng, đãi vàng. Bây giờ vẫn chưa hết nhức mỏi đây… Tôi không muốn làm nản lòng các vị đâu… Cái đó là nhờ Chúa cả… Có người lượm được một cục bự bằng quả cam nửa kí lận! Mà vàng ròng nhé! Nhưng riêng phần tôi cả mấy năm chỉ vừa đủ ăn và dư được hai cái vòng ở tai này thôi.

Hắn lúc lắc cái đầu để cho hai cái vòng thêm lấp lánh.

Bọn người tìm vàng chán nản ngó nhau. Nhưng có người cho là chủ quán nói đùa, hỏi thêm chi tiết. Pachero đáp:

- Nè, tôi nói thật với các bạn này. Nếu tôi là các bạn thì tôi trở lại đồn Bridger mở một quán tạp hóa hay một quán rượu. Thiên hạ còn ùa về miền Tây, sẽ còn nhiều đoàn đi tìm vàng nữa. Tha hồ mà lượm bạc.

- Mà tới miền Tây, còn chỗ để đào không?

- Còn chớ, thiếu gì!... Cứ hai chục người tới thì mười bữa sau chỉ còn lại năm người, các bạn cứ việc nhào vô thay! Nghe tôi tính này: mười người chết vì dịch tả, dịch hạch, hoại huyết, đau ruột… ba người bị giết, và hai kẻ làm nghề ăn cướp… Nghề ăn cướp ở California lại chính là nghề mau phát nhất…

Mọi người buồn xo, trừ Buck, Max và Lê Kim. Một người Mĩ biệt danh là Jack ba ngón tay – vì bàn tay phải chỉ còn ba ngón mà vẫn khoe là dư một ngón, chỉ ngón cái và ngón trỏ là đủ bóp cò rồi - đập bàn, hét lớn:

- Tên chủ quán này nói láo; mi muốn ta treo cổ mi vào cái bảng ở trước cửa quán mi không?

Pachero điềm nhiên đáp:

- Nếu chú em nghĩ rằng bọn của chúng có thể nạt ta được, thì chú em lầm rồi. Làm chủ quán ở khu rừng này, chú em thử nghĩ…

Buck tiến lại can. Bọn tìm vàng bước ra, cho rằng Pachero nói bậy. Tiếng vĩ cầm và giọng hát Oh! My Suzannah! lại nổi lên ở phía sau lưng họ, mỗi lúc một nhỏ dần.

*

Miền này có người Da đỏ, nên đoàn phải phái một người phi ngựa đi trước dò đường. Họ gặp một bọn mười người Ute nghèo đói và có vẻ hiền hơn bộ lạc Pawnee. Không có chuyện gì xảy ra cả.

Đi được ba ngày họ đến Salt Lake city: thị trấn Hồ nước mặn, vì ở đây có một hồ nước mặn. Thị trấn phong phú, có nhiều ngôi nhà đẹp đẽ, hơn hết thảy các nơi họ đã qua. Quả là một ốc đảo trên con đường họ đi. Dân trong thị trấn toàn là người theo giáo phái Mormon.

Giáo phái này tự xưng là “Giáo phái các vị thánh thời tận thế”, do Joseph Smith thành lập năm 1839 ở tiểu bang New York. Thánh kinh của họ là cuốn “Sách Mormon” phỏng theo Cựu ước kinh của Đạo Ki Tô. Các tín đồ cũng tin như người Do Thái rằng chúa sẽ cho họ một “đất hứa”; họ siêng năng làm việc, cữ rượu mạnh, có tinh thần bao dung; nhưng khác hẳn Ki Tô giáo, Do Thái giáo, họ chấp nhận chế độ đa thê, lấy lẽ rằng đàn bà nhiều hơn đàn ông mà như vậy mới tránh được tệ mại dâm. Vì lối sống và tu hành của họ đặc biệt, họ bị dân chúng nghi kị, đả kích; năm 1840 họ di cư lại Illinoise, cũng bị xua đuổi nữa. Năm 1844, giáo chủ Smith bị dân chúng giết, Brigham Young lên thay, dắt tín đồ vượt dãy Núi Đá, tới một miền hoang vu. Họ bỏ hết nhà cửa, đất đai, khăn gói lên đường, cứ ngày đi đêm nghỉ. Tháng bảy năm 1847, giáo chủ Young ngừng lại ở một sa mạc có một dòng sông từ trên núi chảy xuống, bảo với tín đồ rằng đó là Đất hứa mà chúa dành cho họ. Nơi đó là miền Utah. Họ đắp đập, đào kinh, trồng trọt, nhờ siêng năng nên lần lần phát đạt, số người di cư tới mỗi ngày mỗi đông và thành lập một thị trấn tức Salt Lake city.

Khi đoàn tìm vàng tới thì thị trấn mới có hai tuổi[27], mà đã thịnh vượng, lộng lẫy, đã tiết ra cái mùi “hoàng kim” rồi, làm cho mọi người cảm thấy mỏ vàng ở gần đâu đây… Có một cái quán mang tên kì cục là “Bóng tối” tại đó khách qua đường có thể đổi bất kì một món gì lấy bất kì một vật gì: đem lại một cái cưa, một cái mền, một con ngựa hoặc một chiếc xe, chủ quán cũng nhận; và muốn đổi lấy rượu, bột đường, hoặc một đùi bò, một chiếc đồng hồ thì chủ quán cũng có sẵn tiền.

Đoàn tìm vàng nghỉ lại ở thị trấn Salt Lake hai ngày; vì họ nghỉ rằng đã sắp tới California, tại đó không thiếu gì hàng hóa, cho nên có bao nhiêu đồ họ cho là không cần thiết, đem theo chỉ thêm nặng, họ đem đổi hết lấy một li rượu, một đĩa thịt áp chảo… Các vị “Thánh thời tận thế” tha hồ bóc lột họ: một chiếc xe hai trăm Mĩ kim đổi lấy một con ngựa năm chục Mĩ kim, một cây súng đổi lấy một hộp bánh… Thị trấn mau phát là nhờ vậy, Đất hứa này còn phước địa hơn Đất hứa Palestine của dân tộc Do Thái nữa.

*

Từ Salt Lake có hai con đường đưa tới California: một đường bọc phía Nam Hồ nước mặn, một đường đi vòng lên phía Bắc, cả hai đều gặp nhau lại ở trên sông Carson. Đường phía Nam ngắn hơn trăm rưỡi cây số nhưng phải qua một sa mạc phèn: Buck khuyên theo đường đó vì đường phía Bắc dài hơn nhiều mà cũng vẫn phải qua một khúc sa mạc. Mọi người đồng ý.

Nhưng khi đoàn ra khỏi bãi cỏ ở bên bờ Hồ nước mặn thình lình trông thấy một cảnh hoang vu, nắng chát không một ngọn cỏ, trải ra mênh mông bát ngát ở trước mặt, thì một số người đâm nản chí. Đất ở đây là tro lấp lánh và những phiến đá hoa cương nóng bỏng một màu đen và xám ảm đạm. Chân người, ngựa và bánh xe bị lún, tiến tới vô cùng mệt nhọc.

Buck bảo:

- Đây là đại sa mạc của châu Mĩ, sa mạc phèn đây! Trước khi tới mỏ, chúng ta phải chịu cảnh gian nan cuối cùng này nữa. Có thể là bỏ thây tại đây… Chỉ nhờ phúc phận từng người thôi.

Mọi người ngơ ngác. Chung quanh cỗ xe của bọn Mễ Tây Cơ, một số người tụ họp lại xì xào với nhau, khi Max hoặc Buck cưỡi ngựa đi tới thì họ im bặt.

Buổi chiều ngày đầu, khi đoàn xe đương đi “Jack ba ngón tay” tiến lại phía Max bảo:

- Tôi thay mặt anh em, muốn được nói chuyện với anh. Chúng tôi không muốn đi xa hơn nữa. Chúng tôi mệt rồi, ngựa cũng kiệt lực rồi, chúng tôi không muốn đi qua bãi sa mạc này, sẽ gởi xương ở đây thôi.

Max suy nghĩ một chút rồi ra lệnh cho đoàn xe ngừng lại, mời hết thảy mọi người trong đoàn tụ họp lại, rồi dõng dạc tuyên bố:

- Hồi khởi hành chúng ta đã thề đồng cam cộng khổ với nhau, đoàn kết với nhau. Bây giờ có một số người không chịu theo con đường phía Nam này. Những ai đâu không chịu xin đứng ra một bên.

Jack và trên hai chục người nữa tách ra đứng chung với nhau.

Max bảo:

- Những bạn còn lại có quyết tâm theo đường phía Nam với chúng tôi hay không?

Những người đó đáp: Quyết.

Max nói tiếp:

- Thật là điều đáng tiếc, nhưng đã như vậy, chúng ta sẽ chia lương thực cho công bằng rồi phe nào đi theo đường nấy.

Phe chọn đường phía Nam còn lại 14 người có Max, Buck, Olivier, Lê Kim…; phe kia đa số gồm người Mễ Tây Cơ.

Họ chia lương thực ngay lúc đó để sàng hôm sau đi sớm.

[27] Sau thế chiến vừa rồi, thị trấn có khoảng 200.000 dân, nhiều cao ốc và một trường đại học.