III RỦ NHAU ĐÀO VÀNG
Khi ở thị trấn Salt Lake, họ nôn nao, mong cho mau tới. Bây giờ tới rồi, họ không vội vàng chút nào, ở lại đồn Sutter ít bữa hưởng sự tiếp đãi của chủ nhân. Vả lại vài người cần phải nghỉ ngơi: Hans sau cơn điên tinh thần đã khá, nhưng chưa thật bình phục, mắt của Watson vẫn còn sợ ánh sáng, mặc dầu trông đã tỏ.
Trong mấy ngày nghỉ ngơi đó, đại úy Sutter thường mời Max lên đàm đạo, hai người có vẻ rất tương đắc và Max đôi khi góp ý kiến với đại úy về việc tổ chức sự canh phòng, lập lại trật tự trong miền. Rõ ràng là chàng có tinh thần phiêu lưu, hoạt động chứ không ham đào vàng.
Kit thích vô rừng săn bắn, ngày nào cũng vác một con nai tơ về cho anh em “bổ dưỡng, lấy lại sức” như chàng nói.
Lê Kim và Hans, anh chàng Hòa Lan, trái lại suốt ngày đi thăm trại, nhận xét đất đai, các giống lúa, giống cây trái, cách canh tác. Và các công việc dẫn thủy, kiến thiết của Sutter. Hans trầm trồ khen:
- Đất đâu mà phì nhiêu thế. Ở xứ anh ra sao không biết, chứ ở xứ tôi, phải chăm non, bón phân mà năng suất chỉ bằng một phần tư ở đây. Mà lạ lùng, không có sâu nữa, khỏi phải bắt. Cứ gieo trồng rồi đợi ngày gặt. Anh coi kìa, những chùm nho thấy ham chưa! Khí hậu ở đây không biết có thể trồng được đủ các giống hoa quả ở Hòa Lan không… Đồng cỏ thì mơn mởn mà bò thì con nào con nấy phởn phơ chưa. Coi vú nó kìa, y như những bầu sữa no tròn, một ngày mỗi con, chắc vắt được hai chục lít… Cái xứ này, từ hồi khai thiên lập địa, còn nguyên vẹn để dành cho ông Sutter. Dù không có mỏ vàng thì cũng đã đáng gọi là Eldorado[32] rồi.
Lê Kim nói:
- Miền tôi ở đã được khai phá cả ngàn năm rồi, đất đá cằn cỗi, mỗi người chỉ có một khoảnh ruộng nhỏ, phải dùng phân bón, phải làm cỏ, bắt sâu như xứ anh. Còn nhiều miền hoang vu, nhưng không phì nhiêu. Nhưng phải đào một ít vàng làm vốn đã.
Họ cứ thơ thẩn theo bờ sông và các suối, chiều tối mới về.
Mỗi người trong đoàn đã có chủ trương riêng, muốn mở quán bán hàng(?). Chàng bảo:
- Lão chủ quán Pachero ở cánh rừng khỏi đồn Bridge(?). Thế mà có lí đấy. Chắc hắn đã đào được một số vàng, làm đôi vòng bự đeo tai đó – kì cục! Và có tiền mở cái quán đó. Hắn có vẻ gian hùng lắm. Thằng “Jack ba ngón tay” tưởng có thể nạt nộ hắn được. Ờ mà bọn thằng Jack tách ra khỏi bọn mình, không biết lúc này ở đâu? Đã tới đây chưa? Còn sót được bao nhiêu mạng?
Salmon, Oliver và hai người Smith, Donald nhất định đào vàng và mong kiếm được một số kha khá rồi trở về quê quán làm ăn.
Đêm đêm, trên bờ sông, họ tâm sự với nhau và hát lên khúc Oh! My Suzannah!
Anh sẽ đào núi
Anh sẽ tát sông
Anh sẽ tìm vàng
Ở California
Hỡi Szannah!...
Nhưng điệu hát lúc này không não ruột nữa. Hát xong họ vỗ vai, vỗ đùi nhau mà cười.
*
Sáng sớm hôm đó cả chín người cùng lên chào và cảm ơn chủ nhân đồn điền “Nouvelle Helvetié” để lại mỏ vàng. Đã tới đây, dù không muốn đào vàng cũng phải lại coi cho biết, vả lại mỗi người cũng cần có chút tiền làm vốn, như vậy phải đào vàng trong một thời gian đã rồi có đổi nghề sẽ đổi. Sutter ân cần mời họ có dịp thì ghé chơi và nếu có cần gì thì ông sẽ giúp.
Họ theo giòng sông Sacramento. Con đường mòn như bị cày nát lên vì biết mấy ngàn xe cộ đã qua lại. Đất đỏ như son. Ở bên phải họ, một dãy núi chìm trong đám sương tím nhạt. Gió hơi lạnh, thời tiết sắp thay đổi.
Họ đi mười lăm cây số mà vẫn chưa gặp một người nào, đã ngờ rằng lạc đường.
Họ bận sơ mi đỏ, mỗi người vác một cái cuốc, một cái rây và một cái “ba tê” (batté) mới mua ở đồn Sutter. Coi đúng điệu dân tìm vàng lắm! Họ không hấp tấp, cứ thủng thỉnh đi, tin chắc rằng vàng sẽ nhảy vào trong túi họ.
“Chú Marshall chẳng bảo vàng nhiều vô tận, tha hồ mà đào đấy ư? Chú ấy thật là người thủy chung với chủ. Người đầu tiên tìm được ra vàng là chú, vậy mà chú không đào, chủ đi đâu thì theo đó. Lời chú nói có lẽ mà đúng: vàng không tạo được hạnh phúc, chỉ gây họa. Nhưng lỗi đâu phải tại vàng. Tại không biết dùng vàng, làm nô lệ cho vàng. Mình mà có được mươi kí vàng thì nhất định là gây được hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình chứ!... Phải bao lâu mới kiếm được mười kí nhỉ. Chú ấy nói trung bình mỗi ngày kiếm được ba ounce, khoảng 74 gam. Cho tiêu pha rồi, mỗi ngày còn lại được 59 gam thôi; hai mươi ngày được một kí, sáu bảy tháng sẽ được mười kí… Mà biết đâu chúng mình chẳng gặp may, đào mỗi ngày được 200 gam, 300 gam. Làm trong sa mạc nửa năm rồi có thể nghỉ suốt đời! Bõ cảnh khổ qua sa mạc!”
Một số người nghĩ bụng như vậy. Không có gì là vô lý, không có gì là ảo tưởng.
Họ tới một khúc quẹo của sông Sacramento. Một chiếc xe bò ở phía trước đi lại. Họ hỏi người đánh xe:
- Chú ơi, đã gần tới mỏ vàng chưa?
Người đó đáp:
- Đi khoảng ba cây số nữa, tới chân một ngọn đồi sẽ gặp một số người đào vàng. Mỏ bắt đầu từ đó.
Một đám người bận sơ mi đỏ lúi húi, lố nhố ở chân một ngọn đồi xanh, từ xa trông như những bông đỏ trên bãi cỏ. Salmon la lên:
- Tới mỏ rồi! Chạy lại đi!… Xem hạt vàng nó ra sao.
Họ đã biết được vài tiếng lóng của bọn đào vàng, như claim, digging[33] trỏ chỗ mỗi kíp đào; gulch[34] trỏ chỗ các người đào vàng cắm trại; color[35] trỏ đất có vàng…
Khi tới sát người đào vàng thứ nhất, họ đứng lại nhìn một hồi lâu. Người đó có vẻ bực mình, chửi thề, chắc từ sáng chưa kiếm được hạt nào.
Họ lại chỗ khác, ngừng trước một cái hố hẹp, sâu độ ba thước, ở dưới, một ông lão đương lúi húi đào.
Olivier lấy giọng thật ngọt ngào hỏi ông ta:
- Có khá không ông lão?
Ông già chỉ hơi ngửng đầu lên, chùi mồ hôi trên trán, rồi lại cúi xuống đào mà không đáp.
Kit nói kháy:
- Chắc là khá lắm nên ổng mới không trả lời mình.
Lần này ông lão chẳng buồn ngửng đầu lên nữa, chỉ “hừ” một tiếng. Tiếng “hừ” đó như từ lòng đất phát ra.
Olivier vẫn giữ giọng ngọt ngào:
- Ông lão hãy nghỉ tay một chút, nhồi một cối thuốc với tụi tôi nào.
Lần này thì ông ta đứng thẳng người lên và bảo:
- Thuốc đâu, liệng xuống đây cho tôi.
Olivier liệng túi thuốc xuống; ông ta chậm rãi nhồi đầy ống điếu rồi tung túi thuốc lên trả. Olivier trách:
- Ông lão không lịch sự chút nào hết.
- Trời ơi! Các chú có làm mửa mật như lão rồi mới biết, không có thì giờ để nói chuyện bá láp. Bộ các chú mới tới hả? Kiếm một chỗ nào đó mà đào đi, đừng quấy rầy người ta nữa.
Max hỏi:
- Kiếm chỗ nào hả ông lão?
- Muốn kiếm đâu thì kiếm. Chỗ nào chưa có người đào ấy.
- Vậy chúng tôi đào chỗ này, gần ông được không?...
- Ít nhất phải cách chỗ lão bốn thước! Nếu không thì chỉ làm phí một viên đạn của lão thôi.
Olivier bảo:
- Ô kê! Thôi anh em mình kiếm một chỗ rồi bắt tay vào việc.
Họ lại một chỗ cách hố của lão độ mươi thước. Olivier hăng hái nhất, cắm ngay lưỡi cuốc xuống, Pain bảo:
- Bọn mình chín người đào bốn hố đi. Hai người hoặc ba người một hố, mỗi hố cách nhau bốn thước.
Rồi họ chia nhau ra đào.
Đất khô, cứng, rớt ra từng cục. Họ đoán rằng vàng không ở trên mặt, nên đợi khi xuống được hai thước rồi, đào được cục đất nào họ mới đập vụn cục đó ra rồi rây. Cái rây của họ mắt nhỏ nên công việc đó thật mất công. Khi rây được đầy một thùng rồi, họ san vào một cái thùng thiếc miệng rộng độ nửa thước, sâu một tấc (họ gọi là cái ba tê) và chạy ùa xuống dòng suối để đãi. Họ dìm thùng xuống nước, nước ngập thùng, họ đưa đi đưa lại, vàng nặng chìm xuống dưới, đất nhẹ ở phía trên. Gạn bớt đất đi, rồi làm lại như vậy, năm sáu lần là xong, có vàng hay không thì biết.
Chung quanh họ lúc nào cũng có chục người chạy ra bờ suối như bị ma đuổi và trên bờ suối cứ cách dăm thước lại có một người lúi húi đãi vàng.
Bọn Max hẹn với nhau mỗi kíp kiếm được bao nhiêu thì chia đôi hay chia ba (tùy kíp có hai hay ba người), kíp nào may thì được nhiều, chẳng may thì được ít. Lê Kim với Hans vào một kíp, Salmon với Olivier vào một kíp. Smith với Donalt vào một kíp. Max chung một kíp với hai người khác: chàng đào cho biết và cho vui chứ không quan tâm tới công việc.
Kíp Olivier rây xong trước, xuống suối đãi. Chàng và Salmon cúi gầm trên cái “ba tê”, mắt trố ra, vục tay vào vớt, nhưng không có một hạt vàng nào cả.
Olivier bảo:
- Đừng nản chí! Không ai kiếm được vàng ngay từ lần đầu… Ta làm một ba tê khác.
Họ hì hục đãi cả chục ba tê mà vẫn công toi. Salmon bực mình muốn văng tục.
- Tại sao những người khác đãi lần nào cũng được một vài hạt vàng chẳng lớn thì nhỏ mà mình thì xui xẻo như vầy?
Salmon đã đào sâu tới hai thước rưỡi, đất có lộn đá. Chàng la:
- Chắc tới lớp vàng rồi đây. Ông già lúc nãy cũng rây thứ đất này đây. Olivier, nào chúng ta làm thử một thùng nào.
Họ lại khiêng xuống suối đãi. Vẫn không có kết quả.
Bỗng Paine chạy lại bảo:
- Anh em ơi, chúng mình ngu quá sá! Chẳng biết cóc khô gì hết. Chúng ta rây đất khô, làm sao có vàng cho được. Thiên hạ nhào cho đất thành bùn rồi mới rây.
Max tỏ ý nghi ngờ:
- Nếu đất có vàng thì khô cũng có vàng: không có vàng thì nhào thành bùn cũng vẫn không có vàng.
Nhưng Paine không nghe, lại hì hục làm theo lối mới. Kết quả cũng vẫn là con số không.
Một người đổ quạu:
- Vậy mà có kẻ ở thị trấn Salt Lake bảo chỉ trong ba tuần là làm giàu, về đó cất vi-la, lập trại ruộng. Bọn “Thánh” chó gì mà nói láo!
Lê Kim đề nghị:
- Chúng mình đào không nhằm mạch vàng. Thử đổi chỗ coi. Có lẽ chính vì đây ít vàng nên ít người đào.
Họ bèn kéo nhau tới một chỗ cách nơi đó năm thước, có nhiều người đào hơn. Nhưng lúc đó đã quá trưa, họ lấy thức ăn ra ăn đã.
Ăn xong họ mới nghĩ tới chỗ ngủ vì họ không có lều.
Họ bèn lại một cái gulch (trại) gọi là trại Micheltorena, vì hồi xưa đất ở đó thuộc về một người Mễ Tây Cơ mang tên đó. Trại là một căn nhà lớn, cất bằng gỗ, có phòng uống rượu, đánh bạc. Khi họ bước vô, một người đương thiu thiu ngủ, giật mình tỉnh dậy, la lên:
- A, tụi mới tới!
Olivier hỏi:
- Chú chỉ giùm một chỗ ngủ cho chúng tôi đêm nay.
Chủ quán trố mắt nhìn họ:
- Ủa, không mang theo lều sao? Anh em có thể ngủ đây được, tiền trọ là ba Mĩ kim một người. Nếu không có lều mà cứ ở trọ, ăn quán thì không dư được đồng nào đâu. Cái gì ở đây cũng đắt đỏ lắm.
- Cảm ơn chú, nhưng sao chú không đào vàng?
- Tôi ư? Có cái quán này, mỗi ngày tôi kiếm được gấp năm gấp sáu một người đào vàng, anh hiểu rồi chứ? Ngồi mát ở đây chẳng hơn là khòm lưng cuốc đất đổ mồ hôi suốt ngày ở dưới hố ư?
Paine gật đầu:
- Tôi cũng làm theo chú, kiếm được ít vốn rồi thì mở quán.
Ở trại ra, họ lại chỗ đào vàng. Tại trung tâm, thật là một cảnh nhộn nhịp, nhiều màu sắc: sơ mi đỏ lố nhố qua lại bên cạnh các lều nhỏ trắng hoặc xanh hoặc các chòi bằng gỗ cất sơ sài, vội vàng. Trướcmỗi lều thường có một bếp lửa, tro đã tàn. Nhìn qua cửa mỗi lều thấy quần áo, đồ đạc ngổn ngang. Miền mỏ có nhiều trộm cướp mà họ để cửa ngỏ như vậy vì quân gian chỉ rình vàng thôi mà vàng thì người nào cũng nhét vào một chiếc dây lưng da rộng có túi, không khi nào rời họ, cả trong khi họ làm việc.
Ở bờ sông, một dãy người khom khom đãi vàng, mỗi lần đãi xong, họ lại mở cái túi da, nhét vào đó một vài hạt vàng, mảnh vàng.
Bọn Max đi suốt một dãy cây số để nhận xét. Có kíp bốn người đào chung một cái hố rồi khi đãi thì không dùng cái “ba tê” họ còn gọi là cái “xoong” vì nó giống cái xoong – mà dùng một cái thùng lớn dựng lên một cái giá, coi xa y như một cái nôi, nên họ gọi là cái “nôi”. Trong cái nôi đó có một cái rây. Người ta đưa cái thùng từ phải qua trái, từ trái qua phải y như đưa nôi em bé, như vậy để rây; trong khi đó một người múc nước dưới sông đổ vào thùng.
Bọn tìm vàng ở đây không quạu như bọn ban sáng nhưng cũng ít nói và kẻ nào kẻ nấy hùng hục làm việc. Đó là tâm lí chung của bọn đào vàng: không muốn mất một phút, làm cho mau, kiếm cho nhiều để sau này hưởng.
Tới một chỗ đông người đào nhất, Olivier xin phép được đào ở khoảng giữa hai cái hố. Người chủ hố vui vẻ bảo:
- Cứ tự nhiên, các bạn. Và chúc các bạn may mắn hơn tụi tôi.
- Đất đây có nhiều vàng không?
- Trung bình… Mỗi ngày được ba bốn ounce… Có ngày nhiều hơn, có ngày ít hơn.
Nghe vậy, bọn Max phấn khởi, bắt đầu đào một cách rất hăng hái, rồi rây, rồi đãi, cũng chẳng có gì cả.
Salmon liệng cuốc xuống hét:
- Trời đất, quỉ thần! Nếu không có cái sa mạc mắc dịch đó thì tôi đã trở về tức thì rồi, không thèm ở lại đây tới một ngày nữa. Kit, anh có lí đấy. Vác súng vào rừng bắn một vài con nai, khiêng về bán cho lão chủ quán đó lại sướng hơn.
Một người đương rây vàng ở hố bên cạnh, ngó sang mỉm cười, nhỏ nhẹ bảo:
- Làm gì mà quạu vậy? Phải kiên nhẫn chứ. Làm cái nghề này, có ngày hên có ngày xui. Nhưng ngày này bù ngày kia, vẫn kiếm được dư giả mà. Nếu không sao có cả vạn người ở mọi nơi lại đây tìm vàng… Cứ chịu khó đào đi, rồi thế nào cũng gặp.
Người đó tiến lại, ung dung nhồi cối thuốc, ngó bọn Max làm việc, rồi cười sằng sặc:
- Ủa, cái thứ đất đó mà các bồ cũng tính đem đãi sao?
Salmon hỏi:
- Vậy chứ đãi đất nào bây giờ? Thì cũng là đất trong cái khu này, có khác gì các hố khác?
Người kia lại cười sằng sặc nữa rồi quay lại gọi bạn:
- Jim, Jim! Lại coi đây này… Mấy cha mới tới này mong lượm được vàng trong cái đất mắc dịch này nè. Trời đất quỉ thần ơi!
Jim vừa phủi tay vừa tiến lại, cúi xuống nhìn, toét miệng ra cười, bảo bạn:
- Chỉ cho họ đi Tom. Họ là tay mơ, chưa biết quái gì hết.
Tom bàn nhảy xuống hố của Salmon, cuốc một lát, rồi vốc một nắm đất sét, màu hơi biếc, bảo:
- Đây nè, đất này mới có vàng nè… Tin tôi đi… Chỉ thứ đất này hoặc thứ đá hoa cương đập vụn ra mới có vàng thôi… Tôi nói thực đấy… Rồi coi…
Chàng đổ đất vào đầy một cái thùng, chìa cho Salmon:
Họ đem ra bờ sông đãi. Cả bọn đều reo lên:
- Vàng!
Quả thực là vàng. Được hai nhúm mảy vàng.
Họ trở lên bờ cảm ơn Jim và Tom. Tom bảo:
- Thế là tối nay ngủ yên nhé. Lều của mấy anh ở đâu?
Olivier đáp:
- Chúng tôi không có lều. Qua sa mạc, không còn gì cả. Mới tới đây.
- Vậy thì lại ngủ đỡ lều của chúng tôi. Chịu chật hẹp một chút.
Lúc đó đã gần tối. Họ kéo nhau lại quán.
Quán giờ này đông nghẹt. Tiếng cười, tiếng la xen lẫn với tiếng hát Jim Bowers và Oh! My Suzannah! Văng vẳng đưa ra.
Ở cả Gulch Micheltorena này không có đàn bà. Một số người đào vàng trẻ và trắng trẻo đóng vai ca-va-li-e[36]. Và họ cũng ôm nhau nhảy vui không kém các tửu quán ở New York, trong khi ba người kéo accordéon, thổi harmonica, kéo vĩ cầm. Họ ngồi lên những cái thùng gỗ ngoài viết những chữ: “Boston-1001. Xà bông”, hoặc “Saint Louis. Thịt muối-50 kí”.
Trên bàn nào cũng có một hai khẩu súng sáu và một cỗ bài.
Kit bảo:
- Ăn thịt muối, chán quá. Để rồi tôi sẽ cung cấp thịt tươi cho bọn này mới được.
Paine nốc một hơi hết một li la-ve đắng nghét rồi ngắm nghía vẻ mặt hân hoan của chủ quán.
[32] Tiếng Y Pha Nho có nghĩa là Hoàng kim thế giới, lạc viên.
[33] Claim chính nghĩa là đòi, thỉnh cầu, quyền đòi, mỗi kíp vạch một khu nào đó chưa có ai đào, đòi làm chủ khu đó. Dig có nghĩa là đào, diggin là chỗ mỗi kíp đào.
[34] Gulch chính nghĩa là khe ; họ cắm trại ở bờ khe suối.
[35] Color chính nghĩa là màu; ở đây là màu vàng (B.T).
[36] Gái nhảy.