VII MẤT DẤU LÊ KIM
Sáng hôm sau, điểm tâm xong, bọn Max rủ nhau ra ngồi ở mũi tàu. Vì khách sạn Nautic vốn là một chiếc tàu, Max nói:
- Tôi phải từ biệt anh em trong một thời gian. Trước khi rời đồn điền Nouvelle Hellvétie, ông Sutter có cho tôi biết mấy người quen của ông ở chung quanh đây và nhờ tôi ít công việc. Chưa biết công việc bao giờ mới xong. Có thể rằng một hai tháng nữa chúng mình mới gặp lại nhau. Còn các anh tính làm gì?
Kit đáp:
- Tôi chẳng có công việc gì cả. Tôi đi theo anh được không?
Max mỉm cười:
- Được lắm. Có anh càng vui. Anh là một tay thiện xạ. Khẩu súng của anh rất có ích… Không sợ thiếu mồi.
Donald bảo:
- Tôi đã có chủ trương. Tôi biết vẽ chút đỉnh. Chắc bọn thợ mỏ lại đây muốn có một bức chân dung hoặc một bức tranh về miền mỏ để về nhà khoe với bà con nguệch ngoạc ít nét có thể kiếm ăn được.(?)
Ba người kia chưa có dự định gì, bảo để rồi kiếm việc, hoặc chạy hàng lặt vặt hoặc ra ngoại ô kiếm một trại ruộng để làm công, cùng lắm thì làm phu khuân vác.
Max trước khi đi, dặn anh em:
- Khách sạn Nautic chỉ là chỗ trú chân tạm trong ít bữa, rồi mỗi anh đi một nơi. Muốn gặp lại các anh hoặc nhắn tin cho nhau, các anh có thể lại tòa soạn báo Evening ở gần khách sạn Eldorado, các anh còn nhớ chứ?
Họ đồng ý.
Khi Max và Kit đi rồi, bốn người còn lại chia làm hai nhóm: nhóm Donald-Smith và nhóm Lê Kim-Hans, mỗi người theo một ngả, lên phố kiếm công việc.
Nhóm sau trở lại con đường Plaza hôm trước, thấy một đám đông bu chung quanh một cây cột buồm cao nghều nghệu mới dựng, trên ngọn treo một lá cờ có chữ Liberti (Tự do). Một mục sư đứng trên một thùng rượu đương thuyết giáo, chìa những tấm hình nhỏ ra, bảo ai mua thì được lên Thiên đường, không mua thì sẽ bị đày xuống Địa ngục. Khi thuyết giáo xong ông ta yêu cầu mọi người cùng hát với ông một bản thánh ca. Nhiều thợ mỏ cười thầm, nhưng cũng hát theo.
Bên cạnh đó, hai người leo lên những cái thùng cao, đương bán đấu giá đủ các thứ hàng, hàng sở Quan thuế tịch thu, hàng ăn cắp ở dưới tàu, hàng các hãng buôn muốn bán tháo. Có một thứ hàng nhiều người thích nhất là một cái thùng đóng kín, không biết trong chứa cái gì. Mọi người thì thầm đoán là món này, món nọ, một người trả giá, một người khác trả thêm, không khí thật là hào hứng. Rốt cuộc có người trả trăm Mĩ kim: mở thùng ra thì chỉ thấy mấy bộ quần áo cũ và một đôi giày rách. Thiên hạ cười ồ!
Thấy các thùng gỗ bỏ lại lổng chổng, Lê Kim bảo Hans:
- Hai đứa mình phải trả mỗi đêm mười Mĩ kim. Có lẽ mình còn phải ở đây vài ba tháng. Nên cất tạm một cái chòi ở dưới chân đồi. Có ván các thùng này rồi. Kiếm thêm ít cái cột, vài miếng vải lều nữa là xong.
Ít bữa sau họ cất xong một cái chòi và từ biệt Smith và Donald.
Một hôm Lê Kim vừa về tới chòi, khoe với Hans:
- Nhân đi qua tòa soạn Daily Evening, thấy họ dán giấy cần một người làm việc vặt trong tòa soạn biết tiếng Anh, tiếng Pháp, tôi xin đại, khoe còn biết cả tiếng Hòa Lan, tiếng Trung Hoa nữa, họ nhận liền: 100 Mĩ kim mỗi tuần, hứa sẽ tăng thêm nếu đắc lực. Công việc tựa như tùy phái, ngồi tiếp khách lại mua báo hay đăng quảng cáo… Tôi hỏi họ về việc phát hành, họ bảo có gởi bán ở các quán rượu, các khách sạn, các tiệm tạp hóa, và gửi đi vài nơi xa nữa. Tôi đề nghị nên cho một người ôm báo đi bán dạo, ăn hoa hồng. Họ đồng ý và tôi đã giới thiệu anh. Sáng mai anh cùng đi với tôi lại tòa soạn.
Vậy là họ có công việc làm, tạm đủ sống.
Nửa tháng sau, thị trấn San Francisco bỗng nhốn nháo khác thường. Trên các đường phố đã thấy bóng phụ nữ, hầu hết là các ả ở Nam Mĩ, ở Cap Blanc, ở Valpia tới, Da trắng có, Da đen, Da đỏ cũng có. Họ ăn bận lố lăng, hở ngực, hở tay, váy cụt ngủn và đeo những chiếc nhẫn, vòng vàng lớn và nặng. Một số mới tới được ít hôm rồi biến đi đâu mất.
Nhưng rồi có một chiếc tàu khác cập bến và đổ lên thị trấn vài chục ả nữa, hầu hết ở Nam Mĩ. Thuyền trưởng đòi mỗi ả một trăm Mĩ kim, kể cả tiền tàu và tiền ăn, mà tới San Francisco mới phải trả. Ả nào mới bước chân lên bờ cũng được cả chục người đàn ông săn đón, đề nghị giá cả: ba trăm, bốn trăm Mĩ kim tùy tuổi tác và nhan sắc, thành thử trả xong tiền tàu rồi, ả nào cũng có ngay một số vốn nhỏ.
Các chủ quán như quán Eldorado trả giá cao nhất nhưng đặt điều kiện này nọ, nhiều ả không chịu. Các ả muốn được tự do. Có ả mới tự bán thân hôm trước, hôm sau thấy hớ, trốn đi, kiếm một khách hàng khác, thế là kẻ kia mất toi ba bốn trăm Mĩ kim. Chẳng có luật lệ nào qui định lối buôn bán đó cả.
Khi một chiếc tàu buôn “thịt tươi” đó vô bến, thì trên đồi một cây báo hiệu được kéo lên, phấp phới trong gió. Tức thì cả thị trấn reo hò như cả ngàn tiếng súng nổ một lúc. Người ta bỏ hết các công việc đổ xô ra bến, đợi xem “món hàng”. “Hàng” lên bờ rồi, người ta bu lại coi. Vui thật là vui. Tàu cũng đem thư từ, báo chí tới, và sở Bưu điện hôm đó đông nghẹt người.
Từ khi có “thịt người” tới đều đều, thị trấn San Francisco có vẻ sáng sủa hơn, nhưng cũng ồn ào hơn, rậm rật hơn. Trong không khí có một cái gì ai cũng nhận ra mà thật khó tả. Và đêm đêm súng nổ nhiều hơn; tờ Daily Evening đăng nhiều tin tức giật gân hơn, báo bán chạy hơn. Lê Kim được giao cho việc lấy tin tức. Hans kiếm được thêm tiền.
Nhờ làm ở tòa soạn, cậu (?) thường được đọc tờ New York Evening Post. Mỗi chuyến tàu chỉ chở tới ba chục số đã cũ từ hai tháng. Trong một số có một bài viết về San Francisco. Tác giả hóm hỉnh, đại ý mỉa mai dân Frisco là điên, tự khoe là có cả triệu bạc mà ăn bận dơ dáy như bọn ăn mày, chiều tối chui vào những “hộp gỗ thông” mà họ gọi là nhà, là khách sạn, làm chủ một hộp gỗ thông đó thì mỗi năm thu được huê lợi từ hai tới ba chục ngàn Mĩ kim. Có một hộp gỗ thông mang tên Eldorado, nổi tiếng nhất trong thành phố, cho thuê mỗi năm được một trăm hai chục ngàn Mĩ kim. Một đôi giày đàn ông đáng giá trăm Mĩ kim, còn giày đàn bà thì để lấp những ổ gà ở mặt đường. Có đinh rỉ thì đem cân để đổi lấy vàng. Nhiều ông tự xưng là hầu tước, bá tước, làm nghề rửa chén trong các quán ăn, hai chục Mĩ kim mỗi ngày, nếu giặt quần áo thì tiền công gấp đôi! Hễ chỗ nào có vụ đấu khẩu thì y như là có tiếng súng nổ. Một lần, một tên hồ lì ở trong phòng đánh bạc ra, chửi: “Im đi, tụi chó chết kia, cho người ta đánh bài!” Quả thực là một lũ điên!
Làm ở tòa báo được độ một tháng thì một hôm Lê Kim đi lấy tin tức về, gọi Hans lại, bảo:
- Tôi mới có tin này lạ lắm. Người ta đồn rằng một tên chuyên buôn thịt người đã bị hạ sát đêm qua bằng hai phát súng ở Golden Gate. Không biết tên hắn là gì, nhưng nhìn xác của hắn thì thấy bàn tay mặt chỉ có ba ngón.
- Thằng Jack rồi! Đáng kiếp nó. Ở gulch Gully có lần nó nói “thịt người” là món hàng bán chạy nhất ở miền này, anh còn nhớ không. Đúng là nó rồi. Nhưng nó bị ai giết?
- Nghe đồn thủ phạm tên là Mac.
- Mac, m.a.c?
- Người ta nói vậy. Tôi đoán là anh Max quá, người ta phát âm sai.
- Phải, chính ảnh rồi.
Lê Kim nói thêm:
- Hôm ở nhà trọ của Paine, sau khi nghe Paine kể vụ bị cướp, ảnh có thốt mấy tiếng: “Cái nợ máu này… rồi ảnh ngừng lại, không nói hết câu. Chắc ảnh đã có ý trả thù từ hồi đó.
Hans hỏi:
- Anh có cho chủ bút hay tin đó không?
- Phải cho hay để viết bài chứ tin đó đã truyền miệng nhiều người, mình làm sao giấu được?
- Nhưng anh có giấu tên anh Max đó không?
- Tôi nghĩ chả cần. Cứ nói rằng người ta đồn Mac.
Nói xong Lê Kim bước vào phòng thư kí tòa soạn. Và chiều hôm đó tờ Daily Evening đăng tin:
Một tướng cướp hạ một tên buôn thịt người
San Francisco muốn loạn rồi!
Bài báo sau khi kể lại tin đồn, Lê Kim đã đem về kết luận:
“Có biết bao nhiêu án mạng đã xảy ra ở đây trong có một năm! Bao nhiêu người đã bị bắn, bị đâm? Bao nhiêu vụ cướp bóc, đốt nhà? Mà những kẻ phạm tội đó có bị trừng trị không? Cảnh sát ngủ gục à? Tòa án làm gì? Có điều tra một vụ nào không? Tình trạng này không thể kéo dài được nữa!”
Tối đó về chòi, Hans hỏi Lê Kim:
- Tại sao anh ấy không giấu tên nhỉ? Chính quyền điều tra rồi truy tố ảnh rồi sao?
Lê Kim đáp:
- Có lẽ anh ấy không muốn giấu tên. Con người đó hiên ngang, có tinh thần hoạt động, có óc phiêu lưu. Lê Kim mơ mộng một chút rồi tiếp: Y như các nhân vật trong truyện “Water-side” của Trung Hoa.
Tôi đoán Lê Kim muốn nói truyện Thủy Hử của Thi Nại Am mà sau này một người Anh dịch là All men are brothers.
Hans lại hỏi:
- Sao anh ấy không tố cáo với chình quyền để chính quyền bắt? Hoặc bắt sống hắn giao cho chính quyền để xử? Hắn có tội thật, đáng chết thật, nhưng ảnh đã phạt tôi vì tôi đã báo oán, khi tôi giết thằng Dack đó, thì tại sao bây giờ lại hành động như vậy?
Lê Kim đương trầm tư, ngửng lên, đáp:
- Mỗi hoàn cảnh một khác. Hồi đó đoàn mình còn có kỉ luật. Bây giờ xã hội San Francisco này loạn rồi, không thể áp dụng những luật của một xã hội trật tự được. Hành động của Max vẫn thường xảy ra trong lịch sử nhân loại. Anh chưa đọc lịch sử Á Đông. Người phương Đông chúng tôi có câu thành ngữ này “Thế thiên hành đạo” để trỏ hành vi của các vị hảo hán đó. Họ là những hiệp sĩ, còn hiên ngang hơn những kị sĩ thời Trung cổ của châu Âu nữa, vì tôi nghe nói các kị sĩ phương Tây phục vụ mỹ nhân nhiều hơn là bênh vực kẻ yếu, trừ khử kẻ gian.
Đó là đoạn cuối cùng trong cuốn La ruée vers l’or nhắc tới Lê Kim.
Cuối truyện còn ba bốn chương nữa kể những hành vi của nhân vật chính là Max. Một đôi chỗ có nhắc tới Kit, còn các nhân vật khác thì không. Vì vậy tôi không biết sau Lê Kim làm gì. Hết mùa mưa Lê Kim cùng với Hans trở về gulch Gully đào vàng một mùa nữa?
Điều này không chắc. Hay là kiếm một khu đất để vỡ? Hay là ở lại làm cho tờ Daily Evening? Hay gia nhập bọn Trung Hoa tới San Francisco mỗi ngày một đông? Rồi vì lẽ gì Lê Kim trở về Trung Hoa, sau cùng về Nam Việt, và về bằng cách nào?
Đó là những điều làm cho tôi thắc mắc hoài sau khi đọc xong La ruée vers l’or.
Dưới đây là phần cuối truyện đó:
Vụ ám sát ở Golden Gate gây xúc động trong dân chúng. Người ta đồn là vì tình, vì tranh nhau một ả nào đó. Điều tra ra thì một ả tình nhân của “Jack ba ngón tay” cũng bị giết nữa. Các ả buôn hương bán phấn đâm hoảng và các ông lớn, các tay trọc phú ở San Francisco bị các ả thúc quá, phải nhúc nhích một chút, cho truy nã thủ phạm lấy lệ, vì lính tráng đã không đủ lại thiếu tinh thần. Kế đó xảy ra vài vụ nữa mà theo tin đồn thì chủ mưu cũng là “Mac”. Lại xôn xao. Rồi cũng lại êm. Dần dần dân chúng hiểu rằng “Max” không phải là tên cướp mà là kẻ có tinh thần hiệp sĩ, nên tỏ vẻ ngưỡng mộ chàng. Chính quyền thấy vậy, làm ngơ và Max gần như được tung hoành khắp miền California một thời gian.
Chàng có tiếp xúc với đại úy Sutter, khuyên ông đem hết gia sản chiêu mộ bọn “hảo hán” để cùng chàng lập trật tự cho California, bắt chính quyền phải trực tiếp ủng hộ mình, vì nếu chính quyền không trừ được quân gian mà cứ để cho đảng của Max lãnh nhiệm vụ đó thì chính quyền sẽ mang tiếng, bị dân chúng đả đảo.
Sutter không nghe Max. Năm 1850 gia đình ông ở Thụy Sĩ qua, ông hăng hái khôi phục lại sản nghiệp cho con cái, một mặt rán phục hưng lại đồn điền, một mặt đưa đơn kiện chính phủ, kiện các người đã xâm chiếm đồn điền ông. Ông đòi người ta phải bồi thường cho ông một tỉ Mĩ kim, vì số vàng đào được trong nửa năm chính là thuộc quyền sở hữu của ông. Vì Sutter mải lo đeo đuổi vụ kiện, không tiếp tay với Max nên chàng chỉ hoạt động trong một phạm vi nhỏ hẹp. Gây được vài tiếng vang rồi bọn tay chân, kẻ chết người bỏ đi, sau cùng tan rã, và không ai biết chàng đi đâu. Phải đợi trên mười sáu năm sau, khi các mỏ vàng gần cạn rồi, trật tự mới được tái lập hoàn toàn ở California.