VI SAN FRANCISCO
San Francisco ở trên một cái vịnh cũng mang tên đó. Những người Y Pha Nho đầu tiên đặt chân lên vịnh năm 1776 dựng một giáo đường bằng gỗ, mấy căn nhà ván, thế là thành một “thuộc địa” của họ mà họ đặt tên là Yerba-Buena.
Trong một thế kỉ “thuộc địa” đó không phát triển bao nhiêu, vẫn là một xóm lèo tèo ở bờ biển. Từ 1840, Yerba-Buena - lúc này đã mang tên mới: San Francisco - mới được nhiều người nhắc nhở tới, và danh tiếng của nó vang tới châu Âu. Bọn Max được nghe nói nhiều về nó nên náo nức tới cho biết. Họ tưởng tượng thị trấn đó cũng đông đúc như như vùng ngoại ô của Marseille, Amsterdam, New York, nhà cửa vườn tược đẹp đẽ, đường sá rộng rãi, sầm uất, thợ thuyền, thương nhân, công chức chen chúc nhau. Họ đã thất vọng.
Đông đúc thì đông đúc đấy nhưng nhà cửa thật tồi tàn, chỉ có vài ngôi nhà bằng gạch, còn thì toàn là nhà gỗ, và lều. Nhiều nhất là lều, đâu cũng thấy lố nhố những lều dựng tạm bợ. Tóm lại San Francisco chỉ là một thứ Ragtown lớn thôi, một thứ thị trấn lều.
Đường sá thẳng băng vuông vức như ô trên mặt bàn cờ. Những đường từ vịnh đưa lên, dốc tới nổi không xe nào leo nổi; trái lại các đường song song với bờ vịnh lúc nào cũng đông nghẹt. Xe cộ qua lại không có luật lệ gì cả, đụng nhau, lấn nhau. Bọn đánh xe lực lưỡng, quất bò hay ngựa túi bụi, văng tục luôn miệng, cho xe xông đại tới, chẳng kể gì tới người đi bộ. Hai bên đường, đám đông lầm lũi, hấp tấp, chen lẫn nhau đi lại Sở Quan thuế - một ngôi nhà lớn nhưng xấu xí ở đầu tỉnh – hoặc lại Thị trường chứng khoán ở khu ăn chơi, hai bên là hai nhà chứa bạc.
Trừ vài vị mục sư, y sĩ, luật sư, còn không có một người nào ăn bận đàng hoàng. Đủ mọi giống người đủ các y phục. Đông nhất là bọn tìm vàng ở mỏ về, quần áo bẩn thỉu, rách rưới vì quần áo ở đây bán đắt quá, ít người dám sắm.
Người nào cũng đầu tóc bù xù, râu ria xồm xoàm. Cạo râu làm quái gì! Vì thị trấn có khoảng mười lăm ngàn người mà chỉ có vài chục là đàn bà.
Đứng trên ngọn đồi nhìn xuống, thấy mấy trăm cái lều nằm hai hàng theo bờ biển hình vòng cung, lác đác có vài ngôi nhà, trên một khoảng dài non hai cây số. Trên sườn đồi phía trông ra biển, nhà chen chúc nhau thành từng bực, y như một cổ hí trường La Mã, nhiều nhà đương cất vì thành phố vào thời phát triển mạnh. Gió biển thổi vào bụi mù và làm tốc cửa lều lên. Đó là khu bình dân.
Khu sang trọng có tên là Phúc thành (thành phố sung sướng) ở cách đó khá xa. Muốn cất nhà phải nộp thuế cho chính phủ. Các thợ mỏ và phu bến tàu không nộp thuế, chủ dựng những chòi bằng các thùng gỗ cũ, hoặc những cái lều bằng vải cánh buồm ăn cắp dưới các chiếc tàu đậu ở bến.
Khu bờ biển là cái ổ trộm cướp, sát nhân.
Trong hải cảng có mấy ngàn chiếc tàu lớn nhỏ, đủ các xứ, nằm ụ, bỏ không, tồi tàn, thảm hại. Thủy thủ và cả thuyền trưởng nữa, khi tàu cặp bến rồi, thì bỏ mặt tàu đó, nhảy phắt lên bờ, vác một cái đẫy đi lại miền mỏ. Có khi hàng hóa cũng không dỡ lên nữa, hư hại hết. Chỉ có mỗi một chiếc tàu tuần của Hợp Chủng Quốc rán bảo vệ những hàng hóa đó được chút nào hay chút nấy. Dĩ nhiên không sao ngăn được hết bọn gian. Chúng xuống tàu gỡ ván, chặt cột buồm, cắt cánh buồm đem về dựng nhà hoặc lều. Nhiều chiếc tàu có vẻ tan hoang như sau một cơn bão tố. Nhiều chiếc khác mang những tấm bảng: “kho chứa hàng”, “nhà trọ”, “bán gạo, bắp, rượu”, “khách sạn”… Muốn xuống những chiếc tàu đó thì phải chèo một chiếc thuyền nhỏ, cặp hông các tàu gần nhất rồi chuyển từ tàu này qua tàu khác, có khi cả chục chiếc đậu một chỗ vì những chiếc xa nhất bỏ neo cách bờ tới cả trăm cây số.
Thử tưởng tượng một thị trấn như vậy mà bị một trận hỏa hoạn thì kinh khủng ra sao. Người ta còn nhắc nhở đêm Noel năm 1848, một bọn say rượu đánh lộn trong một quán ở khu Plazaw, một chiếc đèn dầu bị hất xuống bàn, thế là quán cháy lên ngùn ngụt. Ba ngày sau khói vẫn còn bốc lên từ khu bị cháy, thiệt hại trên một triệu Mĩ kim. Vậy mà chỉ bốn mươi tám giờ sau nhà cửa đã cất lên rồi, không còn di tích đám cháy nữa.
Bọn Max đi coi một lượt khắp thị trấn.
Hans gốc gác ở Hòa Lan, nhất là Lê Kim đã đi từ Á sang Âu, trông thấy cảnh San Francisco đó, chán nản lắm.
Sau khi chia vàng rồi, mỗi người không còn được bao nhiêu nên phải tiết kiệm. Sáu người rủ nhau kiếm một khách sạn rẻ tiền. Người ta chỉ cho họ khách sạn Nautic, một chiếc tàu nhỏ cũ kéo lên cạn.
Không có phòng, có giường nệm gì cả, nằm ngay trên sàn tàu, chuột chạy qua chạy lại, cắn nhau chí chóe, leo lên cả bụng mình nữa; vậy mà phải trả năm Mĩ kim một đêm.
Thức ăn thì đắt không kém ở gulch Gully: một Mĩ kim một quả trứng, rau chỉ bày ở tủ kính để nhử khách hàng, khi nào héo, gần thối rồi chủ quán mới bán. Một củ khoai tây phải trả ba quan – mỗi Mĩ kim ăn năm quan – và mỗi khi có một chuyến tàu ở Hawai tới thì chủ quán bày ở cửa một tấm bảng: “Hôm nay có khoai”.
Giá cả lên xuống không chừng: hôm trước cam mười Mĩ kim một trái, hôm sau xuống còn năm Mĩ kim.
Bọn Max chê khách san Nautic dơ dáy quá, đi dạo một vòng nữa.
Dân chúng trong thị trấn, hầu hết là bọn tứ chiến, thợ mỏ, ăn bận thật lố lăng: quần áo thì tồi tàn, rách rưới mà dây chuyền vàng, vòng vàng, nhẫn vàng đeo đỏ ngực, đỏ tay. Có kẻ nghênh ngang với những khẩu súng rất tốt, rất đắt tiền, ở dây lưng bằng da cọp giắt dao găm, đoản kiếm chuôi nạm vàng, khảm xà cừ.
Lê Kim nhận thấy người Mĩ lúc nào cũng lăng xăng, nóng nảy khác hẳn với người Anh, người Pháp, nhất là người Á Đông. Miệng lúc nào cũng nhai lép nhép một thứ gì, tay không để yên, vung vẩy hoặc múa may, hoặc nắm chặt lại. Nhiều kẻ ngồi uống cà phê mà móc con dao nhíp ra khắc bậy lên bàn, lên ghế rồi bỗng dưng liệng con dao, cho lưỡi nó cắm phập vào mặt bàn hay mặt đất, mà cười ha hả! Đã đi được ba phần tư vòng quanh thế giới, Lê Kim thấy rằng càng tiến về phía Tây, tiền bạc càng nhiều mà đời sống càng man rợ.
Max rủ các bạn vào khách sạn Eldorado, một trong hai khách sạn có tiếng nhất, đông khách nhất. Chủ quán đã có hồi kiếm đâu được hai gái nhảy và một chị hầu bàn nên cả San Francisco đổ xô lại đó; ông ta tha hồ hốt bạc mặc dầu quán không ngày nào không xảy ra những vụ ẩu đả, phá phách lung tung. Rồi bỗng một hôm ba ả đó biến mất, làm cho dân Frisco[38] ngơ ngẩn. Chắc một nhà triệu phú Mễ Tây Cơ hoặc một tên tướng cướp nào đã cuỗm mất các ả rồi.
Eldorado có hai phòng rộng mênh mông: một phòng ăn uống và một phòng đánh bạc.
Một bồi bàn lại tiếp họ. Kit để ý thấy đầu ngón tay cái của hắn to khác thường, sau mới biết rằng ở Frisco, bồi bàn hầu hết đều như vậy, vì khách hàng trả bằng vàng vụn, cứ mỗi li Whisky là một nhúm vàng. Ngón tay cái càng lớn bao nhiêu thì nhúm vàng được nhiều bấy nhiêu.
Bọn Max bảo dọn cho mỗi người một quả trứng tráng, một miếng thịt nướng, một khúc bánh và một li la-ve, rồi hỏi mỗi khẩu phần bao nhiêu. Người bồi bàn đáp:
- Tám Mĩ kim.
Hans lắc đầu.
Người bồi bàn bảo:
- Coi điệu bộ các ông tôi cũng biết rằng mới ở mỏ tới. Mùa rồi có khá không. Trong túi da chắc đầy vàng chứ? Các ông có vẻ… các ông bỏ qua cho nhé… có vẻ lương thiện. Tôi khuyên các ông một điều nhé. Đừng đánh bạc – chú ta ngó qua phòng đánh bạc ở bên. Chủ quán này dọn các món ăn cho các người đánh bạc mà không tính tiền. Các ông có thể qua bên đấy ăn được, nhưng đừng đánh bạc đấy.
Hans hỏi:
- Chủ quán điên hay sao mà bao ăn các con bạc như vậy?
- Khôn chứ đâu có điên. Có vậy mới dụ được bọn thợ mỏ chứ.
Max bảo:
- Cảm ơn chú. Bọn tôi sẽ trả tiền.
Vừa ăn, họ vừa hỏi thăm về thị trấn.
Đường phố San Francisco không được sửa sang, giữ gìn vì chưa có sở Lục lộ. Rác rưởi ngập tới mắt cá, lều lấn hết lề đường. Người bồi bàn bảo:
- Các ông coi chừng đường Montgomery đấy. Sau mấy trận mưa vừa rồi, nó như cái ao. Mới đầu người ta đem cỏ, rác, lá cây, cành khô lấp lại. Những thứ đó sụp xuống và hôm kia có hai chiếc xe bị sa lầy, không sao kéo ra được, đành bỏ xe lại. Các con đường khác khá hơn, vì người ta lấp các hố bằng bao bột hay bao cà phê xanh.
- Ủa! Bột và cà phê đem lấp đường ư?
- Chính vậy!... Từ ở Nam Mĩ, Hawai, ở khắp nơi chở tới đủ các thực phẩm, hàng hóa, mà không có người dỡ hàng, không có kho chứa hàng nữa, để lâu hư nát hết, đem lấp đường chứ dùng làm gì bây giờ?
- Không ai ăn cắp những hàng đó sao?
- Có chứ. Nhưng ở đây, về tư sản, luật lệ ở đây nghiêm lắm. Nói đúng hơn là lệ, chứ không phải luật. Dân trong thị trấn đều tôn trọng tư sản, tục lệ ở đây đặc biệt lắm. Bạn bè gây lộn mà đâm chém nhau, con chửi cha, vợ bỏ chồng, những cái đó có thể bỏ qua được hết; nhưng hễ đụng tới tài sản của người khác là một tội nặng tày trời, không tha thứ được. Một tên ăn trộm đã bị treo cổ trên một cột buồm tàu biển ở ngoài vịnh. Ngoài đường hễ có ai la: “Ăn cắp, ăn cắp!” là tức thì có cả trăm tiếng súng nổ lên ở khắp bốn phía, từ trong nhà, từ trong lều phát ra một loạt. Và cả trăm người đàn ông, đàn bà, già trẻ, thợ mỏ, con buôn, nội trợ, công chức, bất kì đương làm gì, dù là đương đánh bài hay mùi mẫn… làm ái tình nữa, thì cũng bỏ hết đổ xô ra đường để đuổi bắt quân gian… y như săn đuổi một con cọp ở rừng lạc về vậy.
Kit bảo:
- Tiếc thay! Ở mỏ chẳng có tục lệ đó cho! Tụi tôi mới có người bị chúng ám sát và cướp hết vàng…
- Bộ ông tưởng ở đây không có chuyện đó sao! Trời ơi! Các ông mới tới tức thì hả? Đợi tối nay các ông sẽ thấy. Cứ lát lát lại có tiếng súng nổ. Người ta thanh toán nhau như ở giữa rừng vậy, chớ bộ!
- A, thị trấn này “đẹp đẽ” thật!
Người bồi bàn mỉm cười, ngừng một lát rồi tiếp:
- Các ông bị chúng lột gần nhẵn rồi chứ?... Vậy thì tôi khuyên các ông nè: nên kiếm một việc nào mà làm đi đợi cho qua mùa mưa này rồi trở lại mỏ. Đời sống ở đây đắt đỏ lắm. Số vàng của các ông không đủ tiêu lâu đâu. Kiếm một chân hầu bàn như tôi này, hoặc làm phu khuân vác, quét nhà, quét đường. Thiếu gì các nhà quí tộc Nga, Pháp làm bồi bàn như tôi. Mỗi ngày kiếm được mười Mĩ kim, sống tạm thời ấy mà…
Người bồi bàn không phóng đại chút nào cả. Một lát sau, bọn Max tới một con đường ngổn ngang những bao bột, bao cà phê xanh từ Chi Lê chở tới, cả những bành thuốc thơm Virginie nữa… Và mới xẩm tối họ đã nghe thấy lác đác vài tiếng súng nổ, mà các người ngoài phố cứ thản nhiên như thường.
Họ rủ nhau đi kiếm một chỗ trọ, nhưng chỗ nào giá cũng đắt quá, đành phải trở lại “khách sạn” Nautic vậy. Kit nói:
- Mặc! Phải làm quen với chuột ở dưới tàu đi chứ! Dù sao cũng còn hơn cảnh trong sa mạc. Nửa tháng trong sa mạc đã làm cho chúng ta thành nhữnh con người khác, có thể coi thường mọi gian nan nguy hiểm trên đời được.
[38] San Francisco thường gọi tắt là Frisco.