← Quay lại trang sách

II THẤT VỌNG

Công việc thứ nhất tôi có thể làm ngay được. Tôi lại thư viện thành phố đường Gia Long[42]. Thư viện này thực ra chỉ là một Sở lưu trữ công văn, cho nên có rất ít sách. Ngay những sách báo Việt xuất bản trước thế chiến cũng thiếu nhiều. Địa điểm tuy thuận lợi vì ở trung tâm thành phố, nhưng không có cái khung cảnh, cái không khí thích hợp với sự học hỏi, tìm tòi như Thư viện Trung ương ở Hà Nội. Tôi nhớ hồi còn đi học, sáng thứ năm và chủ nhật tôi thường cắp sách qua cái cổng sắt của Thư viện Trung ương, bước xào xạo trên những lối đi trải cuội trong một chiếc sân rộng có cây cao bóng mát, có những luống cúc, luống hồng tùy mùa, lòng thấy nhẹ nhàng, quên những ưu tư trong đời sống, những tiếng động trong thành phố, và khi lên những bực thềm để vô thư viện ở sâu hút cuối vườn, thì tâm hồn tôi như được gột rửa, sẵn sàng tiếp nhận tư tưởng của cổ nhân.

Vô thư viện Sài Gòn, tôi không có cảm giác thoải mái mà chỉ thấy bực bội. Thư viện nằm ngay ở lề đường một khu náo nhiệt, lên khỏi cầu thang vô ngay một phòng đọc sách giờ nào cũng chật những học sinh thi tú tài vào đó học bài. Có cả những cậu, những cô tới trễ, không có chỗ, ngồi bệt xuống gần cửa hoặc chân cầu thang mở sách ra “tụng”. Tôi vốn thích những nơi tĩnh mịch nhất là trong khi đọc sách, mà nơi này ồn quá, nên vạn bất đắc dĩ, tôi mới tới tra cứu ghi chép vội ít tài liệu rồi về. Trung bình mỗi năm tôi chỉ tới một hai lần.

Lần đó tôi bỏ ra cả một buổi chiều để kiếm cuốn La ruée ver l’or. Vì không biết tên tác giả, nên chỉ có thể tìm trong các hộc “Đề mục”. Tôi tra những mục “Tiểu thuyết phiêu lưu”, “Vàng”, “Lịch sử Hiệp Chủng Quốc”, cả mục “Du lịch thám hiểm nữa”, mục “Phát kiến châu Mĩ”, mục “Khai hoang”, “Tìm vàng”… đọc bốn năm trăm tấm thẻ mà không thấy có cuốn nào mang nhan đề đó. Quen một nhân viên trong thư viện, tôi nhờ anh tìm giùm, mất nửa giờ mà vẫn không ra. Chắc tác giả cuốn đó không có danh tiếng, trong thư viện không có.

Không biết tên tác giả, nhưng tôi còn tên nhà xuất bản là Dumas ở Lyon, không rõ đường nào. Tôi nghĩ Lyon là một thị trấn kĩ nghệ vào hạng ba của Pháp, có nhiều lắm là mười nhà xuất bản, cứ đề tên nhà Dumas, chắc thư cũng tới được. Tôi bèn viết thư cho ông giám đốc nhà xuất bản Dumas ở Lyon – Pháp, xin cho biết cuốn La ruée ver l’or còn bán không, còn thì cho tôi biết giá tiền, không còn thì cho biết tên tác giả, năm xuất bản, và chỉ giùm tôi làm cách nào kiếm cuốn đó được. Khoảng một tháng sau, Sở Bưu điện gởi trả lại tôi bức thư vì kiếm không ra địa chỉ. Sách xuất bản trước thế chiến, có thể là sau chiến tranh, nhà xuất bản Dumas không còn hoạt động trở lại nữa.

Hồi đó tôi có một người bạn trẻ du học ở Paris, tôi nhờ anh ta lúc nào đi dạo bờ sông Seine, để ý tìm giùm cho tôi cuốn đó ở các quán sách trên Quai de la Tournelle. Sau cuộc xâm lăng và chiếm đóng của Đức, số phận của sách Pháp có lẽ cũng không hơn gì sách Việt. Tôi biết công việc tìm kiếm đó không khác gì đáy bể mò kim, nhưng biết đâu chừng? Ở đời có những tình cờ thú vị như anh Trần Văn Bảng hồi học trường Bưởi bỏ ra mấy năm tìm tài liệu về Lê Kim mà công toi, tôi không chủ tâm thì lại được trong một trường hợp không ai tưởng tượng nổi.

Anh bạn sinh viên ở Paris tận tâm giúp tôi, ba tháng sau cho hay không kiếm ra. Anh tìm trong thư viện Quốc gia Pháp mà cũng không có kết quả.

Vậy việc đó đành bỏ, chỉ còn cách là đợi khi nào gặp ông Lê Xuân Liêm, chủ cuốn sách, để hỏi, thì mới biết được. Nhưng sau cuộc binh lửa này, biết ông ta còn sống không?

Việc thứ nhì là báo cho anh Trần Văn Bảng ở Xuân Lũng và xin anh chép cho bức thư của cụ Lê Kim. Lúc đó chiến tranh Pháp Việt đương lên tới mức dữ dội nhất. Trận Điện Biên Phủ đã bắt đầu. Tình thế của Pháp rất nguy kịch, toàn quốc xáo động. Mĩ giúp thêm khí giới và tiền bạc cho Pháp. Pháp buộc chính phủ Bảo Đại tuyển thêm rất nhiều quân, đào tạo gấp các sĩ quan, để đưa ra mặt trận, nhưng đã quá trễ! Ngay đến quân đội Pháp cũng không còn tinh thần chiến đấu nữa. Bọn thực dân Pháp đã lo cuốn gói để về mẫu quốc. Trong không khí như vậy, không nên viết thư cho anh Bảng. Vả lại có muốn gởi cũng không biết gởi về đâu. Khi chiến tranh phát ở Bắc Việt, quân Pháp chiếm tỉnh lị Phú Thọ, chắc anh đã tản cư, theo kháng chiến. Quân Pháp chỉ chiếm được tỉnh lị, nhiều lắm một vài phủ, đồn, chứ không đi sâu vào miền quê, cho nên thư không gởi về Xuân Lũng, quê của anh được. Vì vậy việc gởi thư cũng phải hoãn lại tới sau chiến tranh đã.

Rồi tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève kí kết và non chín trăm ngàn đồng bào Bắc di cư vô Nam. Tôi gặp được một số bạn cũ ở trường Bưởi, đa số có người quen ở Sài Gòn, lại ở tạm dăm bữa trước khi kiếm vội được một căn nhà, một số ít phải tới các trại tiếp đón đồng bào di cư như trường Gia Long, trường Pétrus Kí[43]. Phần lớn các bạn tôi thuộc hàng công chức cao cấp hoặc thương gia nên không đến nỗi cực khổ lắm. Tuy phải bỏ lại hết nhà cửa đất cát ở Bắc, nhưng gom góp mang theo được ít vốn, tới Sài Gòn độ nửa tháng là có công ăn việc làm. Cảnh các dân quê vì thiếu chỗ phải căng mền chiếu lên che nắng chung quanh nhà hát Tây[44] mới điêu đứng hơn nhiều.

Sau hai ba chục năm xa cách, từ khi ở trường ra, ngày nay gặp lại nhau, riêng tôi thì rất vui, nhưng các bạn tôi nhiều người có vẻ chua chát. Hết thảy đều nói có thể chịu cảnh nghèo cực, như mọi người, nhưng không chịu được chế độ căm thù giai cấp của ngoài đó, có người đã tính ở lại, sau nghe nói những cảnh con tố cáo cha, vợ tố cáo chồng, bạn bè do thám nhau, nên phải vội vã lẻn xuống tàu, không mang theo được gì cả. “Anh nghĩ coi người Việt nào mà không vinh hãnh về chiến thắng Điện Biên Phủ, nước nhà độc lập rồi, quân Pháp phải cuốn gói đi hết, ai có chút lương tâm mà chẳng muốn ở lại để kiến thiết quốc gia sau tám năm bị tàn phá, nhưng họ nghi kị mình, có vẻ như không muốn cho mình sống, thì làm sao mình ở lại được? Theo hiệp định thì sau hai năm sẽ có cuộc Tổng tuyển cử cả hai miền để thống nhất quốc gia, lúc đó sẽ ra sao, chưa biết; cứ biết hiện tại không thể sống với họ được nên phải đi”.

Bốn năm bạn nói với tôi như vậy, mà tôi biết chắc những anh đó có tội lỗi gì mà phải trốn.

Một anh tâm sự với tôi:

- Ngay từ năm 1944, tôi đã liên lạc với một số anh em hoạt động trong tổ chức của họ, thường giúp đỡ tiền nong cho họ. Khi Nhật đảo chánh rồi, nhà tôi là nơi họ tụ họp, giấu khí giới nữa. Và khi họ mới lên cầm quyền, tháng chín năm 1945, tôi là người đầu tiên phân phát hết ruộng đất cho bần nông trong làng, chỉ giữ lại ngôi nhà và vài sào vườn làm chỗ ở và thờ phụng tổ tiên. Rồi tôi cũng tản cư, kháng chiến trong mấy năm.

Ngừng một chút anh rầu rầu nói tiếp:

- Nhiều khi tôi tự hỏi mình có quả thực như họ nói, chưa gột hết cái óc tiểu tư sản không. Óc đó là óc gì? Coi trọng tư sản? Không. Tôi đã tự nguyện chia hết đất ruộng của tôi từ khi chưa có lệnh kia mà. Trọng sự yên ổn, không dám mạo hiểm? Cũng không. Còn gì nguy hiểm bằng chứa khí giới trong nhà thời Nhật thuộc? Ngại gian lao? Cũng không nữa. Mấy năm kháng chiến, tôi chịu cực khổ y như họ. Nặng tinh thần cá nhân? Nghĩa là làm sao? Không muốn sống với đoàn thể? Nhưng tôi đã vui vẻ ở trong đoàn thể nhiều năm. Có lòng tự ái quá cao? Không chịu phục tùng đa số? Lòng tự ái là một đức tốt chứ. Lòng tự ái của tôi có quá cao hay không, tôi không tự biết được, tôi chỉ biết rằng tôi phục thiện và khi người khác có điều gì tôi cho là lầm, thì tôi phải đưa ý kiến, nhất là trong một tập thể hành động chung với nhau.

Tôi bảo:

- Người ta không chịu anh được ở điểm đó chăng?... Nhưng sao tôi thấy những người kháng chiến trong này không phân biệt giai cấp quá như anh nói.

- Có lẽ trong này chính sách của họ hơi khác. Nhưng rồi anh sẽ thấy những lời tôi nói không sai đâu. (Hồi đó chưa xảy ra vụ Quỳnh Lưu). Cuộc kháng chiến này là công lao của toàn dân mặc dầu ai cũng nhận họ có tài điều khiển. Không có gia đình nào không có con em đi kháng chiến. Cả những người làm việc cho Pháp – dĩ nhiên trừ một số rất ít đáng xử tử về tội bán nước – cũng giúp đỡ con cháu hay anh em trong bưng, lúc gởi tiền, lúc gởi quần áo, thức ăn. Một đôi khi anh em kháng chiến về nghỉ ngơi hay công tác ở thành thì họ che chở. Tôi biết nhiều công chức vào cấp tỉnh trưởng, quận trưởng, ti trưởng, biết rõ họ về thành mà cũng làm lơ; nếu họ bị công an bắt thì dĩ nhiên không ai bênh vực được, nhưng tố cáo thì không ai tố cáo, có khi còn lén cho họ hay để họ trốn thoát nữa.

Tôi hỏi thăm về các thầy cũ, bạn cũ. Hầu hết các giáo sư cũ của chúng tôi đều di cư vào đây sống một cuộc đời rất đạm bạc. Các bạn cũ mà còn sống thì cũng di cư tới một nửa, một nửa ở lại vì hoàn cảnh gia đình, hoặc vì không có cách trốn đi được, hoặc vì tin rằng có thể chịu được chính sách của nhà cầm quyền.

Hỏi về anh Trần Văn Bảng thì không bạn nào biết cả. Từ khi ở trường ra, anh ấy làm việc ở Phú Thọ, không xuống Hà Nội, cũng không tiếp xúc với bạn cũ, không hiểu tại sao. Tôi đoán có lẽ anh ấy có mặc cảm rằng mình là hạng công chức tầm thường, kém anh kém em, nên không muốn ai nhắc tới mình. Trong thời binh lửa, nhiều bạn tản cư lên miền Phú Thọ, Tuyên Quang mà cũng không gặp anh. Không biết anh còn sống hay chết nữa.

Theo hiệp định Genève, đồng bào hai miền Nam, Bắc được trao đổi tin tức với nhau bằng một tấm bưu thiếp đã in sẵn. Có đủ chỗ trống để viết được độ mươi hàng. Mới đầu người ta cũng gởi khá nhiều vì ai cũng muốn biết tin tức của bà con thân thuôc ở bên kia vĩ tuyến. Qua đợt đầu đó rồi thì thôi. Vì những chuyên muốn biết thì hỏi không được; không lẽ lần nào cũng chỉ hỏi thăm sức khỏe của nhau: “Các anh chị bình an không?” (Không dám hỏi: “Có đủ ăn không?”) – “Các cháu mạnh khỏe cả chứ? Cháu lớn đã ra ở riêng chưa? Cháu út đã học tới lớp nào?”

Chỉ hỏi thăm như vậy mà cũng phải cân nhắc từng chữ. Có lần tôi đã viết: “Mùa này ngoài đó thời tiết thay đổi, bệnh cũ của bác có tái phát không?”, rồi tôi phải xóa bốn chữ “thời tiết thay đổi đi” đi, sợ các ông Công an ngoài đó hoặc trong này hiểu lầm rằng tôi nói bóng nói gió tới chính sách của họ. Viết xong bức thiếp; tôi đọc lại, thấy xóa như vậy không êm, càng làm cho các ông ấy để ý, thắc mắc, tự hỏi: “Tại sao nó viết rồi lại xóa, chắc là có mật hiệu gì với nhau đây, hoặc “ý tại ngôn ngoại gì đây”, rồi khổ cho người thân của tôi bị ghi tên vào sổ đen, sổ trắng. Thế là tôi phải xé tấm đó đi, lấy một tấm khác, viết thật rành mạch, không một vết gôm, vết xóa.

Chắc các bà con của tôi ngoài đó cũng có tâm trạng như tôi, cho nên chỉ được vài lần rồi chẳng ai bảo ai, cũng không thư từ với nhau nữa. Có tin mừng cũng không báo, chỉ khi nào có một người thân qua đời mới viết vài hàng chữ: “Cụ Ba mới mất ngày mười một tháng chạp ta ở làng Lư, bệnh già, con cháu về đưa đám gần đủ mặt”, thế thôi.

Chính sách bưu thiếp đó quả thực là chính sách tài tình nhất để cấm người thân hỏi thăm nhau, để làm cho hai miền lần lần cách biệt hẳn nhau. Hàng rào giấy đó còn công hiệu hơn hàng rào sắt nữa. Nhưng hàng rào nào thì cũng có cách vượt được. Người ta có thể gởi vòng qua Pháp, qua Miên, và một số người có thể dùng con đường của Ủy hội Quốc tế.

Tôi ngán viết bưu thiếp nhưng vẫn rán dò tin tức về anh Trần Văn Bảng. Hỏi các bạn, không ai biết, tôi gởi càn một tấm bưu thiếp về nhiệm sở cũ của anh hồi trước chiến tranh, nghĩa là về Sở Bưu điện Phú Thọ. Trên bưu thiếp tôi viết:

“Anh chị và các cháu mạnh không, xin cho biết tin tức”.

Tôi đã đắn đo nhiều lắm, suy nghĩ cả giờ mới hạ bút hỏi thăm anh có một hàng như vậy, không dám nhắc gì tới vụ Lê Kim mà tôi rất mong báo tin cho anh hay, vì sợ nhắc tới người ta lại điều tra, hỏi Lê Kim là ai, phiền cho anh. Nếu anh còn giữ được bức thư chữ Nôm của cụ thì may ra còn có thể phân trần được; chẳng may bức thư đó thất lạc rồi thì thế nào anh chẳng bị nghi ngờ là thông đồng lén lút với “địch”! Thật bi đát, một nước chia hai, mười mấy triệu dân một miền thành “địch” của mười mấy triệu dân miền kia, bà con, họ hàng, bạn bè với nhau bỗng thành “địch” của nhau hết. Mà người ta gọi anh ra điều tra còn là may đấy, nếu cứ ngấm ngầm theo dõi anh, rồi thấy hành động gì của anh đều khả nghi cả thì còn hại cho anh nhiều nữa.

Thường thường bưu thiếp gởi đi, hai tháng sau mới có hồi âm. Tính ra mỗi chính quyền miền Bắc cũng như miền Nam phải bỏ ít nhất là nửa tháng để kiểm duyệt, điều tra xem người gửi và người nhận là ai, có thuộc hạng “nguy hiểm” không. Chưa biết chừng họ còn làm một tấm thẻ cho mỗi người nữa, một thống kê xem người nào gởi nhiều, gởi ít, và người nào có vẻ khả nghi sẽ có một hồ sơ riêng phân tích tỉ mỉ nội dung từng tấm thiếp gởi đi và nhận được.

Đợi bốn tháng không thấy hồi âm, tôi đánh bạo gởi thêm một tấm nữa về địa chỉ quê nhà anh ở làng Xuân Lũng. Cũng lại vỏn vẹn có mỗi một hàng chữ y như tấm trước. Bốn tháng sau cũng bặt vô âm tín. Anh đã đi nơi khác? Hay không còn sống nữa? Đã hi sinh cho tổ quốc? Hay anh vẫn còn sống mà không muốn thư từ với tôi? Có thể lắm. Cha con, vợ chồng có khi còn không tin cậy nhau được thì bạn bè xa cách cả mười mấy năm, kẻ “miền” này, kẻ “miền” kia trong cái thời nhiễu nhương, biến chuyển ghê gớm này, làm sao dám tin nhau? Nhỡ tôi là một tên Việt gian hạng nặng mà anh hồi âm cho tôi thì người ta làm sao để cho anh yên được? Nội cái việc tôi gởi cho anh hai tấm bưu thiếp trong bốn tháng chưa biết chừng cũng đủ làm khổ anh rồi, rồi bị điều tra lên, điều tra xuống, có thể bị hạ tầng công tác nữa là khác!

Tôi vẫn biết dù có được anh hồi âm thì cũng chỉ để khỏi bặt tin nhau thôi, chứ chưa dám nhắc tới vụ ông Lê Kim. Trên một tấm bưu thiếp, làm sao có thể kể chuyện đó mà không làm cho cả bên này lẫn bên kia nghi ngờ! Có chép rõ đầu đuôi, đặc hai ba trang giấy thì các ông công an mới hiểu được mà hiểu được thì họ càng thêm thắc mắc: làm gì có chuyện người Việt qua đào vàng ở California một thế kỉ trước. Mà lúc này Mĩ và miền Bắc thù nghịch nhau, sao lại lòi chuyện đó ra? Tuyên truyền cho Mĩ chăng? Hay dùng ám hiệu gì với nhau đây? Nguy cả cho anh Bảng lẫn cho tôi. Còn nếu như chỉ vắn tắt chép lại trong khuôn khổ một bưu thiếp nghĩa là độ mươi hàng thì nhất định họ chẳng hiểu gì cả, sẽ liệt chúng tôi vào sổ bìa đen để theo dõi hằng tháng, hằng năm.

Một hôm bà láng giềng sát vách bảo tôi:

- Mấy tuần nay tôi để ý thấy ngày nào cũng có lính kín ngồi ở tiệm cà phê gần máy nước ngó về phía nhà thầy và nhà tôi, rồi lượn đi lượn lại trên con đường này; chiều nay một người lại hỏi tôi: “Ông chủ nhà bên cạnh có ở nhà không mà không thấy đi đâu hết?” Tôi đáp: “Ông ấy đau nằm ở phòng trong đó, chớ đi đâu. Thày muốn hỏi gì cứ vô mà hỏi”. Rồi hắn bỏ đi.

Vậy ra họ đã rình tôi thật. Lúc đó là lúc tôi đau ruột, nửa tháng không ra khỏi nhà. Tôi suy nghĩ không hiểu họ rình mình vì lẽ gì. Vì lẽ gì. Vì lẽ tôi đã tản cư khá lâu? Hay vì tôi không trở lại làm sở cũ? Tôi chẳng giao thiệp với ai, những người thường tới thăm tôi là những bạn di cư, có gì đâu mà họ nghĩ? Tôi cũng chẳng ở trong một hội kín hội mở nào cả. Hay là tại hai bức thiếp tôi gởi anh Trần Văn Bảng? Có thể lắm. Có thể rằng họ tự hỏi: “Hỏi thăm chỉ có một hàng, thế là nghĩa gì? Không có bức thiếp nào cụt ngủn như vậy. Đáng nghi lắm”, - Ờ, lại còn bức thứ nhì cũng gởi cho Trần Văn Bảng, cũng chỉ có một hàng chữ như trước, chỉ thay địa chỉ thôi, là nghĩa sao? Thằng cha này gian, phải theo dõi mới được”.

Có lẽ như vậy chăng?

Chính sách của họ Ngô thời đó là chỉ dùng những tay sai cũ của Pháp và những người trong đảng Cần lao, những người di cư, còn hạng người không theo Cộng cũng Cộng hết ráo. Những chiến sĩ đánh Pháp theo họ đều là Cộng hết.

Người ta bảo Ngô Đình Diệm là nhà “ái quốc”. Ái quốc ở chỗ nào mà ông ta coi hết thảy những chiến sĩ kháng Pháp bất kể trong thành phần nào, có khuynh hướng nào đều là kẻ thù số một của ông cả.

Miền Nam này không tiến được, mỗi ngày một sa đọa chính vì họ Ngô có tinh thần hẹp hòi như vậy, không biết dùng người có tư cách.

Biết bị họ theo dõi rồi, tôi không gởi thiếp cho anh Bảng nữa. Đợi tới khi nào thống nhất mới có thể dò la tin tức của anh được và tôi hy vọng chỉ ít năm sẽ thống nhất.

*

Tới việc thứ ba là tiếp xúc với ông Lê Xuân Liêm ở làng Mĩ Quới, Rạch Giá.

Hai năm 1955, 1956 trong nước có nhiều việc xáo động: chính phủ Ngô Đình Diệm phải giải quyết việc định cư của trên tám trăm ngàn đồng bào ở Bắc vô, lật Bảo Đại để hất cẳng Pháp mà đứng hẳn vào hàng ngũ của Mĩ, rồi dẹp đảng phái, giáo phái chống đối như Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài để thống nhất quân đội, củng cố quyền lực trung ương. Đồng thời họ Ngô đề cao vai trò của Ki Tô giáo, cho rằng chỉ Ki Tô giáo mới là lực lượng chánh yếu chống Cộng, biệt đãi các tín đồ Ki Tô giáo di cư, và một số người này vênh vênh tự đắc, nghĩ mình đã bỏ hết gia sản lại Bắc mà vô đây là hi sinh cho chính nghĩa, thì đáng được hưởng mọi quyền lợi, đáng được giao phó cho mọi trách nhiệm điều khiển. Họ có vẻ khinh các đồng bào ở Nam, cả những người Bắc đã vô đây làm ăn từ lâu là ươn hèn, nếu không phải là có óc thiên Cộng. Tôi biết một số đồng bào di cư ở một miền nọ tại Rạch Giá bày hàng ra bán ở giữa lộ, xe hơi qua lại phải ngừng máy, năn nỉ họ, họ mới ngồi né vô trong một chút, vừa đủ cho xe qua được. Tôi lại biết một giáo sư di cư tới dạy một trường trung học Hậu Giang miệt thị các giáo sư gốc Nam, cả ông hiệu trưởng là người “Bắc cũ” nữa, hung hăng gây lộn với mọi người, tới trường mà mang theo cây súng sáu kè kè bên mình. Dân chúng trong thị trấn ghét lắm nhưng không ai dám nói ra. Ngay trưởng ti công an cũng phải gườm ông ta nữa: cứ nửa tháng, một tháng là ông ta lại đi Sài Gòn một lần, chẳng biết để làm gì, nhưng dân chúng thì thấm rằng để làm báo cáo mật với “cụ Cố” (tức cố vấn Ngô Đình Nhu).

Vì vậy mà không khí ở miền Nam nghẹt thở. Khi chính phủ bác bỏ đề nghị thống nhất mà miền Bắc đưa ra lấy lẽ rằng Mĩ và Ngô Đình Diệm đều không kí vào hiệp ước Genève, địa vị của Ngô vững vàng rồi, phong trào “tố Cộng” phát triển rầm rộ mà một nhà văn (Tạ Chí Đại Trường) đã nhận định rất đúng là “chỉ mang ý nghĩa chỉ điểm, không kèm theo một chính sách rõ rệt hấp dẫn nông dân, thành vô tình như một cuộc trả thù, xua đuổi những người cựu kháng chiến – kể cả địa chủ - chạy tuốt ra bưng”[45]. Một hậu quả nữa là hàng ngàn người vô tội bị đưa vào trại giam, tới độ họ bị tù nhân Cộng sản thuyết phục mà hóa ra thân Cộng.

Năm 1955, thư từ đã bắt đầu gởi về các làng ở gần quận được, tới đầu 1957, sở Bưu điện mới hoạt động lại bình thường. Tôi nghĩ tới việc viết thư cho ông Lê Xuân Liêm. Vì không khí nghi kị nhau trong toàn dân, tôi phải đắn đo rất lâu.

Tôi tự hỏi ông thuộc thành phần nào? Đọc được cuốn Le ruée vers l’or thì ít gì ông cũng đã học tới cấp Cao đẳng Tiểu học Pháp Việt thời Pháp thuộc như tôi, một giáo viên, một thư kí, hoặc cao hơn nữa, một chủ quận, một kĩ sư. Ông cũng có thể là một điền chủ có học, làm làng vì ở trong Nam, nhất là miền Tây, không thiếu gì các người có tú tài Pháp làm xã trưởng, hương hào, hương thân…

Về điểm đó tôi chẳng cần phải lưu tâm tới; nhưng có điểm này rất quan trọng: ông có kháng chiến không? Nếu không thì chắc ông đã phải bỏ làng mạc, tản cư ra tỉnh thành để kiếm một việc gì đó để sinh nhai. Trong trường hợp này tôi có thể viết thư cho ông được, không sợ bị chính quyền họ Ngô nghi ngờ, nhưng thư tôi gởi về làng ông, không chắc đã tới được vì những người đã tản cư lâu ở thành mười người không có được hai người trở về làng; họ có công ăn việc làm, có cả chục nỗi bó buộc giữ họ lại ở thành, mà ở làng bà con họ hàng thường đã đi nơi khác hết, về gặp một lớp người khác, họ chỉ thêm bỡ ngỡ, có khi bị nghi kị nữa.

Nếu trái lại, ông ta đã kháng chiến mà còn sống thì lại càng không dám trở về làng, tất nhiên phải kiếm một việc nào ở Sài Gòn để sinh nhai, chưa biết chừng đã không tới. Nếu ông tập kết thì càng không nên viết thư cho ông. Chính quyền theo dõi chặt chẽ gia đình các người tập kết. Báo đăng một ông quận trưởng nhà binh nọ ở miền Tây ra lệnh cho dân trong quận lị và chung quanh quận lị phải treo ở ngoài cửa một tấm bảng ghi tên những người trong nhà đã tập kết, liên hệ về huyết thống với chủ nhà ra sao. Và ban đêm phải đốt một bóng đèn đỏ chiếu vào tấm bảng đó. Ông ta tưởng như vậy là kiểm soát chặt chẽ họ được, hậu quả là chỉ xúi các gia đình đó ra bưng, hoặc đuổi họ trốn ra miền khác, nhất là lên Sài Gòn, những nơi khó kiểm soát hơn. Nhưng có lẽ ông ta muốn họ trốn đi hết để dễ bề tịch thu gia sản của họ, chiếm lấy phần lớn, chia cho bọn tay sai một phần nhỏ, biết đâu chừng?

Tôi thường nghĩ bụng: “Cứ thí dụ rằng ông Liêm ở trong trường hợp tập kết, trường hợp bị chính quyền cho là phản động, thì nên viết thư cho ông ra sao, để khỏi lụy cho tôi, cho gia đình ông? Dĩ nhiên là nếu ông ta tập kết thì thư tôi sẽ không có hồi âm. Nhưng tôi chỉ thí dụ như vậy thôi chứ vẫn mong ông còn ở lại trong Nam”. Suy đi nghĩ lại một hồi lâu tôi mới hạ bút.

Kính gửi ông Lê Xuân Liêm,

Mấy tháng trước tôi mua được ở một tiệm sách cũ gần chợ Bến Thành một cuốn nhan đề là La ruée vers l’or kể chuyện một đoàn người mạo hiểm đi tìm vàng ở California. Tôi thấy trên nhiều trang có đóng con dấu đỏ:

Tủ sách gia đình

Lê Xuân Liêm

Làng Mĩ Quới – Rạch Giá

Tôi là người yêu sách, trong cuộc binh lửa đã mất nhiều sách, đoán rằng ông cũng buồn như tôi khi mất những sách đã tốn công thu thập, nhất là những cuốn rất hay như cuốn đó, nên tôi muốn gởi trả lại ông. Xin ông cho biết tôi phải gởi bảo đảm về địa chỉ nào.

Chỉ là do tấm lòng của một người yêu sách đối với một người yêu sách, xin ông đừng lấy làm lạ và cũng đừng cảm ơn tôi. Ở vào hoàn cảnh tôi chắc ông cũng hành động như tôi.

Kính chúc ông vạn an.

Nguyễn

Tôi phải nói dối rằng đã mua được ở tiệm sách cũ tại Sài Gòn, không muốn nhắc tới thời tôi ở trong bưng, để các nhân viên công an khỏi thắc mắc. Hễ nói tới bưng với biền là họ nhạy cảm lắm, tưởng đâu tôi đã là Cộng sản chánh cống. Nói dối như vậy, ông Liêm chắc cũng tin được, không ngờ gì cả, vì trong thời loạn lạc, sách của ông có thể vào tay mọi người và như vậy có thể đi khắp trong xứ.

Tôi đắc ý về bức thư đó lắm. Công an có để ý tới mà đem ra phân tích mổ xẻ, chẻ sợi tóc làm tư, đọc ra ngoài hàng nữa thì cũng không tìm được một lí do gì để gây họa cho tôi hoặc gia đình ông được. Trong trường hợp ông Liêm có tập kết, thì bất quá sở Công an cũng chỉ nghi kị tôi thêm chứ chẳng có gì để buộc tội tôi được. Mà đằng nào thì tôi cũng đã có tên trong sổ bìa đen của họ rồi.

Gởi đi rồi, tôi mới sực nhớ ra là bức thư có một kẽ hở. Nếu sở Công an gọi tôi tới điều tra và đòi tôi trình cuốn La ruée vers l’or thì tôi biết trả lời ra sao. Việc đó ít khi xảy ra vì nếu họ nghi ngờ thì theo dõi tôi kĩ thêm chứ không làm cái việc quá lộ liễu như vậy. Nhưng tôi vẫn lo ngại, phải nghĩ trước cách trả lời. Không khí thời đó ngột ngạt làm sao!

Tôi đợi nửa tháng rồi một tháng, hai tháng vẫn không thấy hồi âm, cũng chẳng bị Công an đòi hỏi. Thư đã thất lạc chăng? Người trạm làng thấy không còn ở làng nữa, đáng lẽ phải gởi trả lại tôi – vì tôi đã để địa chỉ người gởi ở ngoài bao thư – thì xé bỏ đi chăng? Ông Liêm hiện ở đâu? Sống hay chết? Không biết được.

Thế là công việc thứ ba cũng không có kết quả gì cả. Việc đời thường như vậy: khi mình không tìm thì ngẫu nhiên nó tới, khi cố tình tìm thì nó trốn đâu mất. Tôi đã gặp được cuốn La ruée vers l’or, biết được địa chỉ ông Lê Xuân Liêm một cách dễ dàng bao nhiêu, thì bây giờ tìm cách tiếp xúc với ông khó khăn bấy nhiêu.

[42] Bây giờ là đường Lý Tự Trọng.

[43] Nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong (BT).

[44] Bây giờ là nhà hát thành phố (BT).

[45] Kì thị địa phương - Bách khoa số 311, ngày 15-12-69.