III HAI BÀI BÁO
Năm 1954, Pháp hết ảnh hưởng chính trị ở Việt Nam. Tháng 4 năm 1956, quân đội cuối cùng của họ xuống tàu ở bến Nhà Rồng để rút về “mẫu quốc”. Báo chí Sài Gòn đăng tin vắn tắt mấy hàng mà đa số độc giả cũng không buồn đọc. Sau non một thế kỉ “khai hóa” như họ nói, trong số ba mươi mấy triệu dân Việt Nam, có được bao nhiêu người nhớ tiếc họ, tiễn đưa họ. Ngay những công chức họ ưu đãi rất mực mà lúc đó cũng quay mặt đi, hướng về người Mĩ, lỗi tại De Gaulle và D’Argenlieu. Dân tộc Pháp vừa nhờ đồng minh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì De Gaulle đã cho quân đội viễn chinh núp sau lưng quân đội Anh, đổ bộ lên Nam Bộ mà dày xéo non sông chúng ta, rồi D’Argenlieu dùng cái trò “chia để trị” tung tiền ra mua một bọn Việt gian lập nên Nam kì quốc, họ đã nhục nhã thất bại ở Điện Biên Phủ, bây giờ lại nhục nhã bị đồng minh Mĩ hất cẳng ra khỏi bán đảo Đông Dương.
Từ sáu tháng trước Ngô Đình Diệm đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để lật Bảo Đại, tay sai của Pháp.
Tôi nhớ, một chiều thu năm 1955, khi sắp có cuộc trưng cầu dân ý, một ông bạn tôi, nhân viên quan trọng trong một bộ nọ bảo tôi:
- Chúng mình phải ủng hộ ông Diệm chứ, không có giải pháp nào khác. Ông là người của Mĩ, Mĩ đưa ông ta về mà, Mĩ thay Pháp ở đây. Dù sao tôi nghĩ Mĩ cũng còn hơn Pháp. Trong một thế kỉ nay, Mĩ không bị tai tiếng gì ở Đông Á: xâu xé Trung Hoa, xâm chiếm Đông Dương, Miến Điện là Anh, Pháp, Đức, Nhật chứ không phải Mĩ, Mĩ lại có truyền thống dân chủ. Mĩ lại giàu mạnh nhất thế giới, chắc “dễ chịu” hơn Pháp. Họ đã bỏ ra bao nhiêu Mĩ kim để giúp vào việc định cư 860.000 đồng bào Bắc Việt.
Tôi nghe anh nói cũng có lí. Tôi vốn không ưa Bảo Đại. Hồi ông mới được Pháp đưa về để lên ngôi vào năm 1932 thì phải, trong dịp Bắc tuần, ông lại giảng đường đại học Bobillot để nói ít lời với sinh viên. Tôi thấy ông chít khăn vàng, bận áo gấm vàng, thân hình to lớn, nét mặt hơi thô; ông ngượng nghịu, ngoáy ngoáy cái cổ như thể cổ áo chật, lúng túng móc túi, mãi mới lấy ra được một miếng giấy nhỏ, rồi cầm đọc, đại ý khuyên sinh viên chúng tôi rán học để giúp nước và hứa sẽ dành nhiều cảm tình cho chúng tôi. Tội nghiệp chỉ có dăm hàng tiếng Pháp mà cũng không thuộc lòng được, nhưng lúc đó tôi nghĩ dù sao cũng còn Khải Định. Khi ông từ ngôi vua, đọc mấy lời tuyên bố với quốc dân, gợi được cảm tình của nhiều người. Nhưng trong chiến tranh với Pháp, được Pháp đưa về một lẩn nữa làm Quốc trưởng, ông bay tuốt lên Đà Lạt, Ban Mê Thuột ở lì trên đó, đóng cái vai “Play-boy”[46] thì tôi đâm khinh ông. Tư cách ông không bằng thủ tướng Thinh. Năm 1955, tôi không muốn ông cầm quyền nữa, hạng play- boy thi với Pháp hay với Mĩ cũng chỉ là Play-boy, Mĩ giàu, vung tiền cho ông nhiều thì ông lại càng Play-boy gấp hai, gấp ba nữa, chẳng được việc gì đâu.
Nhưng tôi chưa biết chút gì về ông Diệm, nên giữ thái độ chờ xem. Khi tôi thấy cuộc trưng cầu dân ý để lật Bảo Đại, có tính cách rõ ràng là gian lận, ở Sài Gòn, Chợ Lớn chẳng hạn có 605.025 người bầu cho ông ta trong khi số cử tri ghi tên chỉ có 450.000 người, và kết quả là ông ta thắng với tỉ số 98,2% thuận và 1,1% nghịch[47] thì tôi đâm ngán. Bịp bợm trắng trợn như vậy thì không thể gọi là thông minh được. Nhất là khi hay tin ông ta trước khi nhận chúc thư Thủ tướng đã quì trước mặt Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương và vài người chứng kiến, thề một mực sẽ trung thành với Bảo Đại “duy trì ngai vàng cho Hoàng tử Bảo Long”, mà bây giờ lại lật Bảo Đại như vậy, thì tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao có người khen ông là có tư cách cao, nhiễm sâu đạo Khống. Tôi nghĩ bụng con người đó vô sở bất vi. Quả nhiên sau này, trong vụ đảo chánh hụt tháng 11 năm 1960, ông lại thất hứa và lừa gạt phe đảo chánh và quốc dân lần nữa. Ngày 12 tháng đó, ông long trọng tuyên bố sẽ giải tán nội các, thành lập một chính thể chuyển tiếp, mở rộng nội các cho các nhà cách mạng phe đối lập hợp tác. “Quốc dân cứ bình tĩnh và tin ở lòng ái quốc cùng lòng yêu dân vô cùng của Tổng Thống”. Nhưng khi đạo quân trung thành với ông về kịp Sài Gòn, đánh bạt phe đảo chánh thì ông nuốt lời hứa, không thay đổi nội các mà đàn áp dữ dội những người ngây thơ tin ở ông.
Rồi tới cuộc bầu cử tổng thống năm 1961 cũng là một trò bịp bợm nữa. Có hai người ra tranh cử với Ngô Đình Diệm: Nguyễn Đình Quát và Hồ Nhật Tân, họ bị chèn ép, gặp nỗi khó khăn khi muốn tiếp xúc với dân chúng. kết quả Ngô Đình Diệm được 88% số phiếu( so với lần trước: 98% số phiếu thuận, kể ra cũng là tiến bộ đấy) và một nhà quan sát ngoại quốc đã phải ngạc nhiên rằng sao ông ta có thể được 90% số phiếu tại những tỉnh hầu như hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát của Cộng sản.
Cuộc bầu cử Quốc hội năm 1959 cũng chỉ là một trò hề. Một ứng cử viên ở một tỉnh miền Thượng bảo: “Lạ lùng quá, tôi không được một phiếu nào cả: chẳng lẽ vợ con tôi cũng không bỏ phiếu cho tôi!”
Tôi nhớ lời của Herriot: “Khắp thế giới, không có nước nào gọi là dân chủ được. Ngay nước Pháp đã có chế độ dân chủ trên 100 năm rồi mà cũng chỉ mới là “ve vãn” với dân chủ thôi”. Tại đâu? Tại dân còn ngu chăng? Hay là bọn chính trị gia toàn là bọn “thực nhục” (ăn thịt) như Lâm Ngữ Đường nói?
Một điểm đáng ghét nữa của chính quyền họ Ngô là chính sách vừa gia đình trị vừa phong kiến, và một người ngoại quốc đã gọi là chế độ “quân chủ không vua”. Ngay từ buổi đầu tôi đã nói với ông bạn bộ trưởng của ông Diệm:
- Sao ông ấy đưa hết cả anh em, họ hàng lên cầm quyền vậy?
Ông ta bênh vực ông Diệm:
- Phải hiểu cho người ta. Người ta mới chân ướt chân ráo về nước, tin cậy ai được, nên phải dùng những người thân, mà anh em ông là hạng tài giỏi, chứ có kém ai.
Chỉ sáu bảy năm sau, ông bạn đó là một nạn nhân chua xót của chế độ độc tài mà chính ông ta đã bênh vực. Ngô Đình Nhu tổ chức đảng Cần lao để “do thám cả những đồng chí của nhau”, và theo một kí giả Mĩ thì chỉ khác đảng Cộng sản ở chỗ họ ủng hộ, truyền bá Ki Tô giáo. Nhu lại đưa ra chủ thuyết nhân vị học được của triết gia Pháp Emmanuel Mounier; theo lí thuyết thì đề cao nhân vị, nhân phẩm, mà thực tế thì bắt bớ giam hàng năm cả trăm ngàn người (nội khám Kiến Hòa đã có 1200 tù chính trị rồi) mà chẳng xét xử gì cả. Ngô Đình Thục đàn áp Phật giáo và ở nhiều nơi miền Trung có những lễ rửa tội tập thể, hàng trăm người một lần vì không theo đạo thì là “cộng sản”. Ngô Đình Cẩn làm mưa làm gió ở Huế y như một Tần Thủy Hoàng cỏn con; nghe nói tay sai của ông ta chở từng ghe gạo bán cho “ngoài kia”.
Vợ Ngô Đình Nhu tác yêu tác quái ở quốc hội, chửi các dân biểu, hình như cả một số bộ trưởng nữa, đưa ra những đạo luật gia đình độc tài, không hợp dân tình, nhất là đạo luật nực cười này: người đàn bà nào bị cảnh sát bắt gặp ở ba chỗ khác nhau với ba người đàn ông khác nhau thì bị coi là gái mãi dâm, cấm cả người ngoại quốc, khiêu vũ cả ở trong tư gia, khả ố nhất là tự coi mình như bà Trưng bà Triệu và có một “nghệ sĩ” đê mạt tới cái mức đúc tượng hai bà Trưng y hệt hình dáng vợ và con Ngô Đình Nhu.
Dinh Độc Lập y như một triều đình. Bọn bộ trưởng, tổng trưởng hầu hết là gia nô, có kẻ vô yết kiến “cụ” rồi, đi giật lùi mà ra, đụng nhầm làm bể một chiếc thống quí của “cụ”. Bị bọn cận thần che mắt, mà lại tự cao tự đại, cho rằng chỉ có mình mới phải, nên ông Diệm chẳng biết chút gì về dân tình cả - có người bảo ông ta cho con Ngô Đình Nhu hai hào đi coi hát bóng! Không biết là chuyện thật hay chuyện tiếu lâm – và bọn cận thần một mực đề cao ông là “tổng thống anh minh”, bày ra cái trò treo hình ông ta ở khắp nơi: chợ Bến Thành, mặt ngoài tòa Đô chánh… bắt công chức mỗi người phải mua một tấm treo trong nhà, chào bản quốc ca với ngọn cờ phấp phố và hình “Tổng thống muôn năm”.
Tới cái mức đó, tôi không muốn đi coi hát bóng nữa, không muốn ra đường nữa, chỉ nằm nhà đọc sách và viết lách, sau thành thói quen. Nhiều lúc tôi thấy cây viết của mình vô dụng. Và tết nào, tôi cũng thấy buồn: lại qua một năm nữa, mà tình hình nước nhà ngày mỗi thêm đen tối. Một số người không chịu được chế độ họ Ngô đã trở ra bưng chống lại họ.
Năm đó, trước hay sau 1960, tôi không nhớ rõ, người ta tổ chức phát giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ nhì. Một anh bạn văn, lớn hơn tôi dăm tuổi (nay đã là người quá cố) ở trong Văn hóa vụ, hai lần lại nhà tôi, yêu cầu tôi nhận một chân giám khảo. Tôi hai lần từ chối, thấy anh ta rầu rĩ nét mặt, tôi hơi tội nghiệp bảo:
- Tôi xin lỗi anh, đã làm buồn anh. Nhưng trong giới cầm bút, tôi vẫn trọng anh, tôi mong anh vẫn giữ cảm tình với tôi. Chỉ cái đó mới quí, còn cái việc kia, chẳng quan trọng gì cả.
Tôi chỉ nghĩ bụng thôi, không nỡ nói ra với anh: “Văn hóa văn hung gì mà chế độ kiểm duyệt còn khắc nghiệt, ngu xuẩn hơn thời Pháp thuộc: dùng chữ “chủ tịch” cũng không được vì như vậy là “làm cho độc giả nhớ tới chủ tịch Hồ Chí Minh”, thậm chí trong một đầu đề toán cho lớp nhất, cũng không được viết: “Con đường Hà Nội - Hải Phòng dài 110 cây số”, mà phải sửa lại “Con đường từ A tới B…” để học sinh khỏi nghĩ tới miền Bắc.
Người ta còn mời tôi giữ vài chức vụ, tôi từ chối hết, không muốn dính dáng một chút gì với chính quyền đó. Diệm “anh minh” hóa ra còn tệ hơn Bảo Đại play-boy mà Mĩ đỡ đầu cho, Diệm còn đáng ghét hơn Pháp.
Nhưng đó là chuyện sau. Năm 1955, hầu hết dân các thành thị chưa có ác cảm gì với Ngô Đình Diệm, còn chờ xem. Đối với Mĩ, so với năm 1945, người ta đã bớt cảm tình rồi, vì trong chiến tranh Việt – Pháp, càng về sau, Mĩ càng ủng hộ Pháp. Nhưng người ta chưa ghét Mĩ, mà muốn tìm hiểu Mĩ.
Thanh niên đua nhau học tiếng Anh, trường trung học nào cũng dạy hai ngoại ngữ Pháp và Anh, trường tư dạy Anh văn mọc lên như nấm, khu nào cũng có vài ba trường, có khi hai trường đối diện nhau.
Đồng thời, các cơ quan văn hóa Mĩ tung tiền ra thuê một số giáo sư Anh văn dịch một loạt tác phẩm Mĩ - cả trăm cuốn – đa số là tiểu thuyết Hemingway, Steinbeck, Pearl Buck…[48], một số là tiểu sử danh nhân Mĩ như Lincoln, Washington[49], một số nữa là lịch sử Hiệp chủng quốc và sách về nền dân chủ Mĩ… Họ trả công hậu, nhưng người dịch thiếu kinh nghiệm, bản dịch không có giá trị, in lại xấu, sách bán rất rẻ mà ít người mua, tới cái nông nỗi gần như cho không. Nguyên nhân chính là người ta ngờ sách có tính cách tuyên truyền.
Sau ba bốn năm, công việc dịch thuật đó phải dẹp, nó không cần thiết nữa: thanh niên Việt Nam đã có một số hiểu tiếng Anh, có thể đọc ngay trong nguyên tác được. Tức thì các books-shop[50] bắt đầu xuất hiện, bán sách theo hối suất chính thức: một Mĩ kim ăn ba mươi lăm đồng bạc Việt Nam.
Và một số công chức cao cấp được gởi qua Mĩ tu nghiệp, nhiều nhất là ở Đại học Michigan; một số sinh viên được cấp học bổng qua Mĩ, còn số học sinh qua Pháp du học thì bị hạn chế.
Từ giữa năm 1957, tôi không lưu tâm tới vụ Lê Kim nữa, cho rằng đã làm hết sức, thời chưa thuận tiện, phải đợi một lúc khác, khi nào nước nhà thống nhất, hoàn toàn bình yên rồi sẽ tiếp tục điều tra, tìm kiếm thêm. Nhất là từ 1959, miền quê kém an ninh, mọi việc thăm dò tìm kiếm phải dẹp hết.
Nhưng cuối năm 1961, con một anh bạn tôi được cấp học bổng qua Đại học California. Tôi nhớ tới San Francisco và dặn cậu ấy – tên là Quý – lúc nào rảnh, lại thư viện San Francisco coi xem còn những số báo Daily Evening xuất bản trong những năm 1849 – 1854 không (năm 1854 là năm Lê Kim đã về nước nhà). Cũng là nhân cậu ấy lại chào tôi trước khi xuất ngoại mà buột miệng nói ra như vậy; chứ chẳng có hi vọng gì kiếm được những số báo đó.
Cậu ấy hỏi tôi:
- Bác muốn nghiên cứu về cái gì vậy?
Tôi mỉm cười đáp:
- Nghiên cứu quái gì đâu. Tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ của cháu. Hễ có dịp lại thư viện San Francisco thì kiếm giùm. Nếu còn những số báo đó thì cho tôi hay, không còn thì thôi. Việc không gấp, mà cũng chẳng có gì quan trọng. Tôi muốn kiểm chứng một sự kiện lịch sử, thế thôi.
Không ngờ nghỉ hè năm sau, 1962 cậu ấy cho tôi hay rằng những số báo đó, thư viện còn giữ đủ. Tôi viết ngay một bức thư nhờ cậu ấy lật từng số một xem có một vài bài nào nói tới một vị “hảo hán” tên là Mac không, nhất là một người “Trung Hoa” nào tên là Lee Kim không. Tôi bảo:
- Hai nhân vật đó tôi đọc trong một tiểu thuyết, ngờ là những nhân vật có thật, chứ không phải tưởng tượng. Câu chuyện xảy ra ở San Francisco, Sacramento, trong tiểu bang California vào khoảng 1849 – 1854. Nếu cháu thấy bài báo nào nói về họ thì chép lại cho tôi một bài về mỗi người cũng đủ rồi. Sẽ mất công cháu lắm đấy. Nhưng câu chuyện rất lí thú. Cháu kiếm được thì tôi sẽ kể đầu đuôi cho cháu nghe.
Ba tháng sau tôi được hồi âm của cậu Quí. Tôi mừng rơn. Đúng như lời tôi đoán, hai nhân vật đó có thực. Cậu ấy chép cho tôi hai bài báo về Mac và một bài về Lee Kim.
Bài thứ nhất về Mac, chính là bài đăng tin Mac đã ám sát “Jack ba ngón tay” (?) Golden Gate mà tôi đã viết ở phần trên, nhan đề là: “Một tên cướp hạ một tên buôn thịt người”. Bài đó đề ngày 19-2-1850.
Bài sau quan trọng hơn nữa, đề ngày 13-6-1850, tôi xin dịch lại dưới đây:
Đại úy Mac: một Don Quichotte hay một tên điên?
“Ít lâu nay dân chúng xôn xao về một con người kì dị mà mọi người gọi là Đại úy Mac, đi tới đâu cũng thấy thiên hạ bàn tán về ông ta.
“Hai hôm trước đây, do một sự ngẫu nhiên tôi được gặp ông ta ngồi chung một xe ngựa với một người nữa, tiến về phía Sacramento. Một bọn cướp gồm năm tên – hình như chúng thuộc về đảng Hounds, nhảy ra tấn công chiếc xe. Chúng không ngờ rằng đụng phải những tay tổ! Đại úy Mac thắng ngay ngựa lại, và nổ luôn hai phát súng, hạ luôn hai tên. Viên đạn trúng vào sọ, chúng không kịp ngáp. Tức thì ông ta và người bạn từ trên xe nhảy xuống, cướp hai con ngựa của hai tên bị hạ, đuổi theo ba tên kia, bắn trúng hai tên nữa, còn một tên chạy thoát.
“Vừa đúng lúc đó thì xe của tôi tới. Tôi xuống xe chào ông, khen ông và hỏi thăm. Ông ta cao lớn lực lưỡng, lông mày rậm, mũi diều hâu có vẻ một kị sĩ thời Trung cổ. Bạn ông tên Kit cũng thuộc hàng hảo hán.
“Ông ta gốc Gia Nã Đại, nói tiếng Pháp và thạo tiếng Mĩ nhưng có giọng lơ lớ. Ông bảo đi từ Saint Louis, qua sa mạc rồi tới miền mỏ Sacramento. Nhưng không ham tìm vàng mà muốn lập lại trật tự trong một xã hội sa đọa vì vàng. Hôm đó ông tính lại đồn Sutter, thăm đại úy Sutter.
“Lập lại trật tự trong một xã hội sa đọa!” Tôi tự hỏi ông ta có phải là một Don Quichotte không, hay là một tên điên? Một người Gia Nã Đại lại đây lập trật tự cho chúng ta người Hiệp Chủng Quốc? Chính quyền San Francisco nghĩ sao?
“Nhưng dù sao thì chúng ta phải nhận rằng từ trước tới nay ông ta không làm gì hại dân cả, trái lại trừ được ít tên cướp cho dân nữa. Tôi mong rằng ông ta chỉ tấn công bọn bất lương đó thôi…”
Thực là hợp với truyện La ruée vers l’or, Mac trong bài đó chính là Max.
Bài về Lee Kim đề ngày 8-11-1853, đối với tôi quí giá vô cùng. Bài đó như sau:
“Một người Trung Hoa đã tặng tướng Sutter hai trăm Mĩ kim”. Như độc giả đã biết, từ khi bị cả vạn phu mỏ đốt phá đồn điền, dinh thự và giết một người con trai, tướng Sutter như người mất hồn, lang thang ở San Francisco, phải đi ăn xin, ngủ ở bến tàu, cảnh thật thê thảm. Sáng hôm nay, một người Trung Hoa tên là Lee Kim từ Berkeley lại, gặp tướng Sutter, tặng ông ta hai trăm Mĩ kim. Ông Sutter mừng mừng tủi tủi, nắm chặt tay Lee Kim. Hình như hai người có quen nhau từ trước.
“Đám đông bu lại coi, cho đó là một nghĩa cử hi hữu. Bao nhiêu bạn thân của tướng Sutter lúc này đều xa lánh ông, chỉ có người Trung Hoa đó là cứu mạng ông. Trước khi từ biệt tướng Sutter, Lee Kim nói với công chúng: tướng Sutter đã có công khai phá cả miền này, chính quyền phải bồi thường cho ông, không bồi thường mà để ông lâm vào cảnh này thực là một điều không vẻ vang gì cho thị trấn San Francisco”.
“Người Trung Hoa đó có lí đấy. Chúng ta nghĩ sao? Để một người ngoại quốc cho chúng ta một bài học ư? Chúng tôi xin nhắc thêm độc giả rằng Lee Kim đã giúp việc cho tòa soạn báo Daily Evening một thời gian năm 1850 và thường nói với anh em trong tòa soạn rằng các mỏ vàng đã làm cho xứ California này loạn lạc, sa đọa, không có cách gì trừ được. Cái hại của vàng thật vô kể. Lời đó cơ hồ như đúng. Trật tự xứ chúng ta đã mất gần năm năm nay rồi, bao giờ mới yên được? Nhà cầm quyền bất lực tới bao giờ nữa?”
Tôi mừng như được vàng. Nhân vật Lee Kim quả là có thực, đúng là cụ Trần Trọng Khiêm ở làng Xuân Lũng. Chứng cớ đủ chắc chắn rồi, không còn ai chối cãi được nữa. Bài đó cho tôi biết thêm rằng Lê Kim chỉ làm ở tòa soạn Daily Evening trong một thời gian năm1850. Sau đó ông đi đâu thì tôi không tra ra được. Điều chắc chắn là tháng 11 năm 1853 ông còn ở Berkeley. Theo bức thư chữ Nôm ông gởi về Xuân Lũng thì năm 1854 ông đã về Nam Việt. Vậy ông đã từ biệt đất Mĩ mà lên đường về Hương Cảng vào cuối năm 1853 hay đầu năm 1854, rồi từ Hương Cảng về Đồng Nai. Ông theo đường nào: về thẳng do ngả Thái Bình Dương (nếu vậy thì ông đã đi một vòng thế giới), hay qua New York rồi về ngả Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương? Điểm đó chắc không thể tra cứu trong sách báo được, phải đợi gặp ông Lê Xuân Liêm, hậu duệ của cụ, hỏi xem trong họ có ai biết không.
Tôi vội vàng viết thư cảm ơn cậu Quí. Cậu ấy nói không mất công bao nhiêu, báo Daily Evening hồi đó in có hai trang, chỉ coi qua một phút là xong một số. Ngay buổi đầu cậu đã kiếm được hai bài về Mac, còn bài về Lee Kim phải ngày sau mới thấy.
Ai bảo rằng phúc bất trùng lai? Cách đó vài tháng vào khoảng cuối năm 1962, một bạn ở Pháp gởi về cho tôi cuốn L’or của Blaise Cendrars (nhà xuất bản Denoel) chép kĩ tiểu sử của tướng Johann August Sutter, rồi lại cho tôi hay rằng đã tìm thấy ở một thư viện ở Lyon, cuốn La ruée vers l’or tác giả là René Lefevre, nhà Dumas (Lyon) xuất bản năm 1937.
Vì sách đã tuyệt bản, nên tôi nhờ ông bạn tóm tắt cho tôi những chương đầu mà tôi không được đọc. Trong mấy chương đó, tác giả kể gốc gác của Max, nhân vật chính trong truyện. Chàng gốc ở Montréal (Gia Nã Đại), hoạt động về chính trị, muốn gây một cuộc cách mạng, thất bại, họp một số độ mươi người, trốn qua Hiệp Chủng Quốc, tới vàm sông Mississipi, nghe nói miền California có nhiều vàng, rủ nhau tới đó. Nhân vật Lee Kim chỉ xuất hiện khi Max đã tới Saint Louis. Vậy Lê Kim đã ngẫu nhiên gặp Max. Sách không cho biết chút gì về những hoạt động của Lê Kim trước đó.
Điều rất đáng chú ý là tác giả, René Lefèrve nói rõ trong tựa bài rằng ông chép lại chuyện do một ông chú hay bác kể, ông này có hồi ở Gia Nã Đại, chơi thân với một người trong đoàn của Max. Vậy đúng như tôi tiên đoán, truyện là truyện thực, không phải tưởng tượng.
Tôi đọc cuốn L’or của Blaise Cendrars, không thấy nói đến nhân vật Mac (hoặc Max), nhưng về đại cương cuộc đời của tướng Sutter, không có điểm nào không trùng hợp với cuốn La ruée vers l’or của René Lefevre.
Như ở cuối phần III tôi đã kể, năm 1850, Sutter một mặt rán phục hưng lại sản nghiệp lâm nguy vì sự tìm ra vàng trong đồn điền của ông, một mặt kiện chính phủ đòi bồi thường. Vụ kiện đó thực li kì, kéo dài ba chục năm mà vẫn không kết thúc. Tôi xin tóm tắt lại dưới đây, vì câu chuyện rất lí thú.
Sutter mướn cả mấy chục luật sư ở San Francisco, chính một người con trai ông cũng mở phòng luật sư tại đó để xúc tiến vụ kiện. Ông chẳng những kiện chính phủ mà còn kiện cả chục ngàn người lại đào vàng trong đồn điền của ông nữa.
Vụ đó làm sôi nổi dư luận của Hiệp Chủng Quốc, hàng trăm luật gia lại San Francisco kiếm ăn. Sutter đổ vào đó không biết bao nhiêu tiền.
Nhà cầm quyền có lẽ muốn ve vãn ông, tặng ông chức Tướng lãnh, đề cao ông là ân nhân của San Francisco. Từ đó ông lại càng làm tới mà dân chúng lại càng oán ông. Họ đốt phòng luật sư của con trai ông, cậu Emile, để cho phi tang. Nhưng dù ông mất hết giấy tờ thì chính quyền cũng không thể không thừa nhận ông là chủ hết cả miền từ San Francisco tới đồn Sutter.
Nhờ một vị thẩm phán quen, công minh, tận tâm, tên là Thompson, ông thắng kiện ở tòa án San Francisco, chỉ còn chờ tòa thượng thẩm ở Washington[51] y án nữa là xong. Ông vội vàng bận quân phục cấp tướng lên thẳng Washington để đốc thúc công việc. Nhưng mới rời đồn hôm trước thì hôm sau hàng vạn dân mỏ tới thiêu hủy trọn đồn Sutter, một người con trai ông chết trong vụ đó, một người khác hóa điên, người thứ ba chán nản bỏ về châu Âu. Ông chỉ còn mỗi người con gái (vì bà vợ đã mất từ khi mới tới đồn điền) mà gia sản tiêu tan nhẵn, không còn một đồng.
Con người giàu nhất thế giới đó phải ngủ đường ngủ chợ, ăn xin ở San Francisco – chính hồi này Lê Kim tìm lại giúp ông một số tiền - tới đâu cũng bị dân chúng mỉa mai, nguyền rủa. Vị thẩm phán đã xử cho ông thắng, phải cưu mang ông, vận động chính quyền tặng ông một số trợ cấp mỗi năm ba ngàn Mĩ kim - phụ cấp hưu trí của một tướng lãnh – và khuyên ông bỏ ý định kiện dân mỏ đi mà chỉ kiện riêng chính phủ thôi, đòi bồi thường ít thôi, một hai trăm triệu Mĩ kim thôi. Ông đành nghe lời.
Vừa thương nhớ con vừa tiếc của, ông mất trí điên điên khùng khùng, không ở với con gái và chàng rể được, lên Washington một mình để theo dõi vụ kiện.
Số tiền phụ cấp ba ngàn Mĩ kim một năm đủ cho ông sống ung dung, không đến nỗi thiếu thốn, nhưng ông đâm ra hà tiện, không dám tiêu pha gì, ngày ngày vác cái thân gầy ốm trong bộ quần áo sờn và bạc, lụng thụng, lết đôi giày vẹt gót lại các công sở Washington tới nỗi cả thành phố đều nhẵn mặt. Ông lọm khọm leo cầu thang, đứng đợi hàng giờ trước cửa các phòng giấy ở tòa án và các bộ, chỉ đòi bồi thường một triệu Mĩ kim thôi, mà chính quyền cũng cứ kéo dài ra, không chịu xử. Không những vậy, bọn thư lại lưu manh đã chẳng thương ông còn móc túi ông nữa, lừa gạt ông để ông đút lót cho chúng “uống cà phê”.
Bọn con nít thấy ông ở đâu là bu lại chế giễu. Một hôm một đứa bảy tuổi nhảy lên bá cổ ông:
- Thưa tướng lãnh, ngài đã thắng kiện rồi. Quốc hội mới tuyên bố xong: ngài được bồi thường trăm triệu Mĩ kim!
Ông ôm chầm đứa nhỏ:
- Thật không, thật không cháu?
- Thật mà, cháu đâu dám nói sai.
Bảy đứa mất dạy đứng gần đó ôm bụng cười. Ông lão vừa thốt xong hai tiếng “cám ơn” thì té lăn đùng, hai tay quơ quơ, cào đất.
Tướng Johann August Sutter mất ngày 17-6-1880, thọ 73 tuổi.
Quốc hội hôm đó không nhóm. Vụ kiện của ông không đem ra xử. Con gái ông bỏ luôn, không đốc thúc, theo dõi nữa. Thế là một vụ kiện dân sự lớn nhất, sôi động nhất, khôi hài mà cũng bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại lần lần chìm hẳn.
Tất cả chỉ do vài hạt vàng chú thợ mộc Marshall lượm được ngày 24 tháng giêng năm 1848.
*
Từ khi thêm được những tài liệu quí giá đó: các bài báo Daily Evening về đại úy Mac, Lee Kim và mấy chương đầu cuốn La ruée vers l’or, tôi lại càng muốn gặp ông Lê Xuân Liêm để bổ túc đoạn cuối về cuộc đời Lê Kim, nghĩa là từ khi ông về Nam Việt.
Lúc đó vào khoảng đầu năm 1963, họ Ngô đàn áp Phật giáo. Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, toàn dân xúc động. Không khí ở Sài Gòn nghẹt thở hơn bao giờ hết, rùng rợn gần như thời Terreur (khủng bố) tháng sáu, tháng bảy năm 1794 ở Pháp. Tối đến là nhiều nhà đóng cửa, không dám ra đường. Đương đêm mà có tiếng xe nhà binh ngừng máy đậu trước nhà mọi người xanh mặt: thế nào chúng cũng vào lục xét và lôi đi một người. Nhiều người đương đi làm bị chặn lại, “xúc” lên xe. Một anh bạn tôi bị bắt chỉ vì một Phật tử, học trò của anh, lại thăm anh. Chẳng có tội gì cả mà cũng bị giam cho tới ngày đảo chánh 1/11 mới được thả. Tôi can thiệp với một ông lớn, cũng là bạn thân của anh ấy. Bực mình, tôi đã phải nói: “Nếu xét anh ấy có tội thì đưa ra tòa xử bắn anh ấy đi, nếu không có tội thì phải thả anh ấy ra để cho anh ấy dạy học kiếm gạo nuôi vợ con chứ! Chính sách gì mà kì cục vậy?” Ông ấy không quên hẳn tình bạn đâu, nhưng cũng bất lực.
Trong không khí như vậy, tôi không còn tâm trí nào nghĩ tới việc tìm ông Lê Xuân Liêm nữa. Đảo chánh xong, Diệm, Nhu bị giết rồi, toàn dân thở ra nhẹ nhõm, như hất được bao cát đang đè trên ngực. Đầu năm 1964, tôi gởi một bức thư nữa về làng Mĩ Quới cho ông Lê Xuân Liêm, nội dung cũng tương tự như bức thư trước. Đợi trên một tháng sau vẫn không thấy hồi âm, tôi bèn nhờ một nhật báo và một bán nguyệt san đăng liên tiếp ba kì, mấy hàng vắn tắt dưới đây:
Nhắn tin: Xin ông L.X.L. trước kia ở làng Mĩ Quới - Rạch Giá cho biết hiện nay đang ở đâu để tôi trả lại anh cuốn Le ruée vers l’or của René Lefevre. Xin viết thư về tòa soạn.
Tôi không muốn ghi trọn tên ông vì có thể ông muốn giấu tên. Nhưng nếu mấy hàng đó tới mắt ông thì thế nào ông cũng tự nhận ra được tên mình trong ba chữ viết tắt đó.
Đợi ba tháng, sáu tháng vẫn không thấy tin tức gì cả. Nhân có ông bạn là một công chức cao cấp ở Rạch Giá, tôi nhờ ông ta điều tra giùm về họ Lê Xuân ở làng Mĩ Quới. Ông cho hay làng đó bị quân Pháp tàn phá từ đầu chiến tranh, dân làng phiêu bạt mỗi người một nơi, hiện nay toàn là những dân nơi khác tới, không ai biết gì về họ đó cả.
Tôi tuyệt vọng.
[46] Play-boy: ăn chơi.
[47] Sau này tờ Life số 13-5-1957, phát giác rằng các cố vấn Mĩ khuyên ông Diệm rằng 60% cũng đủ rồi mà lại có vẻ "tốt đẹp hơn", nhưng ông ta ương ngạnh đòi 98% kia. (Tài liệu của Bernard Fall trong The two Vietnams).
[48] Ba nhà văn hiện đại Mĩ, cả ba đều được giải Nobel văn chương (BT).
[49] Hai tổng thống nổi danh nhất của Hoa Kì vào thời giành độc lập và chiến tranh Nam Bắc (BT).
[50] Book shop: nhà sách.
[51] Tiểu bang ở Tây Bắc Hiệp Chủng Quốc, chứ không phải thủ đô Hiệp Chủng Quốc (BT).